Trong
mười hai con giáp, rắn được xếp sau rồng; tuy nhiên cũng có thể nói  
ngược lại là rắn đứng trước rồng đến mười bậc trong vòng tròn mười hai 
địa chi.  Và trong khi rồng là một ‘sinh vật’ chúng ta không thể nhìn 
thấy, ít nhất vào  thời điểm này, và mang đầy màu sắc huyền thoại, thì 
rắn lại là một sinh vật có  thực và hiện diện xung quanh ta.
Cũng trong khi rồng là ‘sinh vật’ chỉ tồn tại (nơi niềm tin) ở một 
vài xứ sở,  chẳng hạn như ở Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản và Việt Nam, 
thì rắn tồn tại khắp  nơi, trừ những nơi rắn không thể sống được do 
những điều kiện nào đó.
Khác với Trung Quốc và một số quốc gia khác, rồng 
không hiện  hữu nơi niềm tin của người Ấn; nhưng rắn thì có, với đầy đủ 
các cung bậc. Trong  tiếng Sanskrit, rắn được gọi là nāga. Nhưng từ nāga
trong tiếng Sanskrit và Pāli  không chỉ có nghĩa là rắn, mà cũng có 
nghĩa là con voi. Mặc dù trong Phạn ngữ  nāga có nghĩa là rắn nói chung,
thì lắm lúc khi đề cập đến từ này người ta liền  liên tưởng ngay đến 
một loại rắn chúa, rắn thần. Có một từ khác trong tiếng  Sanskrit cũng 
chỉ cho rắn, đó là từ sarpa, nhưng rắn sarpa này thường ít mang  màu sắc
huyền bí hơn là rắn nāga. Trong niềm tin dân gian của người Ấn, trước  
thời kỳ Phật giáo, nāga là một loại rắn hổ mang bành có bảy đầu.
Như vậy, từ nāga vốn có nghĩa là rắn. Nhưng rồi khi 
từ này  được truyền vào một vài quốc gia như Nhật Bản, Trung Quốc… thì 
thường được dịch  là rồng (long), hơn là rắn (xà), nhất là trong những 
ngữ cảnh khi nāga được đề  cập đến như là một sinh vật thiêng liêng. 
Điều này có lẽ do sự ‘tiếp biến’ văn  hóa, nơi tín ngưỡng rồng phổ biến,
và khi rồng được xem là một ‘sinh vật’ thiêng  liêng và hình ảnh của nó
cũng được dùng trang trí ở những nơi chốn trang nghiêm.
Giống như rồng (龍) là sinh vật huyền bí (một trong tứ
linh)  của Trung Quốc, rắn (nāga) được xem là một sinh vật linh thiêng 
trong đời sống  văn hóa và tôn giáo Ấn Độ. Nāga được xếp vào một trong 
‘bát bộ’, là á thần, bởi  vì được cho là có những ‘thần lực’ nhất định. 
Bát bộ bao gồm: Deva (thiên), Nāga  (rồng, rắn), Yaksa (thần dạ-xoa), 
Gandharva (càn-thát-bà: nhạc thần), Asura (thần  a-tu-la), Garuda 
(ca-lâu-na: chim đại bàng), Kinnara (khẩn-na-la: nhạc thần của  Đế 
Thích), Mahoraga (Ma-hầu-la-gia: thần đầu rắn mình người).
Nơi niềm tin của người Ấn, nguồn gốc của rắn được cho là có  liên hệ với thần linh. Theo Varāha Purāṇa,
một trong các thánh thư của Ấn  giáo, con trai của Phạm vương (Brahma) 
là Kashyapa có bốn người vợ. Người vợ đầu  sinh ra các Deva (thiên), 
người vợ thứ hai sinh ra Garuda (chim), người vợ thứ  ba sinh ra Nāga 
(rắn), và người vợ thứ tư sinh ra Daitya (quỷ). Từ câu chuyện  được đề 
cập ở trong cuốn sách này, rắn như vậy có những liên hệ ‘huyết thống’  
với thần linh. Thêm nữa, theo vũ trụ luận của người Ấn, núi Meru là ngọn
núi  trung tâm của vũ trụ, và là nơi cư trú của Phạm thiên và những 
thần linh khác,  và rắn (nāga) là sinh vật bảo vệ ngọn núi này bằng cách
cuốn mình quanh ngọn núi.
Không biết có phải từ nguyên nhân này hay không mà 
rắn được  tôn kính và thờ phụng như một vị thần ở trong Ấn giáo. Ở trong
nhiều ngôi đền  của Ấn giáo, người ta đã thờ phượng rắn như là một vị 
thần thực thụ. Và tại  nhiều ngôi làng ở Ấn, người ta tôn trí trong nhà 
những tranh tượng rắn, và thậm  chí dâng cúng trứng và sữa cho những 
tranh tượng rắn này. Người Ấn giáo cũng có  lễ hội về rắn thần, tưởng 
niệm ngày sinh của rắn thần và ngày này được gọi là  Nāga Panchami.
Rắn cũng trở thành vật gần gũi và thân cận với các vị thần  của Ấn 
giáo. Ví dụ như thần Shiva thường quấn một con rắn ở nơi cổ; còn sàng 
tọa  của thần Krishna lại là một con rắn.
Rắn trong Ấn giáo cũng biểu tượng cho sự tự do, bởi 
vì nó là  một sinh vật được cho là không thể thuần hóa. Nhưng điều này 
chưa hẳn đã đúng,  bởi vì nhiều nơi trên nước Ấn, các đạo sĩ và ngay cả 
những thường dân, đã ‘thuần  hóa’ được rắn. Họ có thể sai bảo rắn huýt 
gió hay điều khiển rắn múa theo điệu  kèn hoặc sáo…. Không rõ là người 
ta có sử dụng ‘phép thuật’ hay nhưng bí quyết  gì để bắt rắn phải phục 
tùng theo ý muốn của họ như vậy hay không, nhưng rõ ràng  là rắn có thể 
bị thuần phục bởi con người. Người Ấn giáo cũng tin rằng rắn (thần)  có 
thể đem đến tài sản, sức khỏe, hạnh phúc cho con người, và sẽ giúp con 
người  khi họ gặp phải những khó khăn trong đời sống. Nhưng dù rắn thần 
được xem là  sinh vật thiêng liêng, thì sinh vật này vẫn ở dưới sự điều 
khiển của hai vị thần  Shiva và Krishna.
Nơi cư trú của nāga thường được cho là gắn liền với 
nước,  chẳng hạn như dưới đáy sâu của đại dương, sông, hồ… Vì đời sống 
gắn liền nước,  nên nāga cũng biểu trưng cho sự sinh sôi nảy nở. Và cũng
vì là sinh vật gắn liền  với nước, nên theo huyền thoại, nāga có thể 
tạo nên mưa gió.
Tuy nhiên rắn không phải luôn được coi là một sinh 
vật hiền  thiện ở trong Ấn giáo, mà đôi khi cũng bị coi là một sinh vật 
nguy hiểm. Trong Mahabharata, một thánh điển quan trọng của Ấn 
giáo, rắn được miêu tả như  là một sinh vật hung ác và có khuynh hướng 
làm hại kẻ khác. Rắn (nāga) cũng có  kẻ thù không đội trời chung của nó,
đó chính là chim Garuda. Cả Nāga và Garuda  có cùng cha là Kashyapa, 
nhưng do vì sự bội bạc của Kadru, mẹ của Nāga, mà hai  sinh vật này trở 
thành kẻ thù truyền kiếp của nhau.
Trong Phật giáo, rắn (nāga) xuất hiện khá thường 
xuyên trong  kinh điển. Chúng ta có lẽ đều biết đến câu chuyện rắn thần 
Mucalinda (Muchalinda  nāga) đã che mưa bão cho Đức Phật khi Ngài thiền 
định bên một gốc cây trong  những ngày mưa gió. Chuyện kể rằng, vào tuần
thứ sáu sau khi giác ngộ, khi Đức  Phật đang thiền định bên gốc cây 
Mucalinda thì mưa to ập xuống và kéo dài trong  bảy ngày liền. Ngay khi 
ấy, một con rắn chúa từ dưới đất bò lên đã che mưa gió  cho Ngài bằng 
cách cuốn bảy vòng quanh mình Ngài và vươn đầu phồng to ra để che  ở 
phía trên, với suy nghĩ: không để Đức Thế Tôn bị mưa lạnh. (Xem thêm 
Udana  2.1, kinh Mucalinda). Từ câu chuyện này, những người tạc
tượng về sau đã  tạc hình Đức Phật ở tư thế ngồi thiền, có một con rắn 
bảy đầu che ở bên trên.  Rắn ở đây như là một sinh vật khôn ngoan, biết 
hộ trì những bậc thánh, và cũng  có thể được cảm hóa.
Trong Buddhacarita saṃgraha sūtra, cũng có kể lại câu  chuyện tương tự với câu chuyện trong Udana,
nhưng ở đây có thêm một số  tình tiết: sau khi Đức Phật giác ngộ bên 
cội bồ-đề ở Bodhgaya, có một con rắn (nāga)  chúa màu đen bò đến đảnh lễ
Đức Phật và sau đó thỉnh Ngài viếng thăm nơi cư trú  của mình. Đức Phật
chấp nhận lời thỉnh cầu và trú tại nơi của nāga suốt bảy ngày  liền. 
Sau đó Đức Phật quy y cho rắn chúa, truyền cho nó Tam quy và Ngũ giới. 
Và  rắn chúa này là sinh vật, không thuộc loài người, đầu tiên quy y Tam
bảo. Sau đó  một rắn chúa khác có tên là Mucilinda viếng thăm Đức Phật 
và đã che mưa bão cho  Ngài trong suốt bảy ngày. Và sau bảy ngày thiền 
định của Đức Phật và khi mưa gió  chấm dứt, rắn chúa này thỉnh mời Ngài 
đến trú xứ của mình và sau đó quy y Tam  bảo.
Nhưng trong kinh điển Pāli, qua những ẩn dụ và những 
trường  hợp cụ thể, rắn cũng cho thấy là một sinh vật có thể gây hại, 
không hoàn toàn  thân thiện và huyền bí. Hẳn nhiên là với những loài rắn
độc, nếu không thêm thắt  những màu sắc huyền bí, chúng có thể tấn công
và gây hại cho ta khi ta vô tình  dẫm đạp, hay có hành động tấn công 
chúng. Kinh Tăng chi có đề cập đến  trường hợp một Tỳ-kheo đã 
bị rắn cắn chết (Tăng chi bộ IV: 67). Và khi biết được  vấn đề này, Đức 
Phật nói rằng nếu vị Tỳ-kheo ấy trải lòng từ đến loài rắn, thì  đã không
bị con rắn ấy cắn chết. Và lòng từ, theo bài kinh này, là phương cách  
ngăn chặn các loài rắn, cũng như những ác thú khác, làm hại.
Trong kinh sách, rắn cũng được đem ra làm ẩn dụ cho 
việc đọc,  hiểu và thực hành kinh điển. Một người học giáo pháp với mục 
đích khoái khẩu  biện luận, để chỉ trích người khác, không học pháp với 
mục đích tu tập cho việc  giác ngộ giải thoát, thì người này được coi là
bắt rắn ở lưng hay ở đuôi, có thể  bị con rắn đó quay lại cắn. Tức muốn
nói rằng, một người học pháp với mục đích  như vậy thì chỉ tạo thêm khổ
đau mà không được ích lợi gì. Còn người học pháp  không vì mục đích 
khoái khẩu biện luận hay chỉ trích người khác, mà học pháp với  mục đích
áp dụng tu tập để đạt đến giác ngộ giải thoát, thì người này được cho  
là đang bắt rắn nơi cổ, không bị rắn gây hại (Xem Trung bộ, kinh Ví dụ con  rắn, số 22).
Trong Phật giáo, rắn (nāga) đôi khi được mô tả như là
một  sinh vật có tâm hộ trì kinh sách. Theo truyền thống Phật giáo Đại 
thừa, kinh  Bát-nhã (Prajñāpāramitā) mà Đức Phật thuyết trên 
núi Linh Thứu đã được nāga  (thường được dịch là rồng, hơn là rắn) lưu 
giữ ở dưới Long cung (nāgarāja). Và  về sau Bồ-tát Long Thọ (Nāgārjuna) 
đã xuống Long cung để mang những kinh sách  này lên cho loài người.
Ở Ấn Độ, một vài nơi chốn linh thiêng đôi khi được cho là nơi  có nāga cư ngụ. Trong Đại đường tây vực ký,
khi nói về Đại học Nalanda,  ngài Huyền Trang cho rằng tại khu vực Đại 
học Nalanda tọa lạc, trước đó có một  hồ nước và có một con rồng/rắn 
(nāga) chúa tên là Nalanda sống, nên ngôi tự viện  được xây dựng ở đây 
đã được đặt tên theo tên con rồng/rắn này. Và về sau, ngôi  tự viện này 
đã trở thành một trung tâm học thuật nổi tiếng của Phật giáo đó là  Đại 
học Nalanda.
Xa hơn nữa, nāga cũng được phân chia thành năm ‘đẳng 
cấp’  tương ứng với năm đẳng cấp: Brahmin (tu sĩ), Kshatriya (chiến sĩ),
Vaishya (thương  nhân), Shudra (lao động chân tay), và Chandali (thành 
phần cùng đinh). Tuy nhiên,  qua các tài liệu mà tôi đọc được, đã không 
thấy đề cập đến những loại rắn nào  tương ứng với đẳng cấp Bà-la-môn, và
những loài nào tương ứng với đẳng cấp  Thủ-đà-la… Trong Tăng chi bộ (IV: 67) ta thấy có đề cập đến bốn loại rắn  chúa, đó là: Virupakkha, Erapatha, Chabyaputta, và Gotamaka. Và trong Trường  bộ, kinh Ðại hội (Maha-samaya Sutta, kinh số 20), Virupakkha được cho  là ‘Chúa tể loài Nāga’, tức là vua của các loài rắn.
Như vậy, từ những gì được trình bày ở trên, ta thấy hình ảnh của 
rắn được  	con người thể hiện khá sinh động. Rắn vừa là một sinh vật ít 
nhiều gây cho  	con người sự sợ hãi bởi nòng độc của nó, nhưng cũng vừa 
là một sinh vật gắn  	liền với những huyền thoại, và lắm khi được gán 
cho là sinh vật biết tu  	luyện. Rắn đôi khi còn được phong ‘thần’ và 
trở thành rắn thần, và mỗi khi  	trở thành ‘thần’ thì hẳn nhiên sẽ trở 
thành đối tượng thờ bái của một số  	người.
Nghiệp Đức