Thế gian không
có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người. Những ảo giác
của con người cá nhân và con người cộng đồng đã tạo nên những khổ hải
cho chính họ và thế giới của họ.
Vì vậy, thế giới vật chất chỉ là những dụng cụ giúp con người
sống mà không phải thay thế cho con người để sống. Nếu ai cho rằng, vật
chất là cứu cánh của hạnh phúc, người ấy sẽ bị rơi vào cạm bẫy của ảo
giác. Chính những ảo giác của họ đã làm cho họ khổ đau.
Ta nên biết rằng, những vật chất đã
giúp cho ta tiện nghi bao nhiêu, thì ta cũng bị chính nó gây ra cho ta
mất tiện nghi bấy nhiêu. Nó giúp cho ta bao nhiêu hạnh phúc, thì nó cũng
lấy mất hạnh phúc của ta bấy nhiêu. Nó giải phóng sự đói nghèo cho ta
bao nhiêu, thì chính chúng cũng đang làm cho ta đói nghèo, lo lắng và sợ
hãi bấy nhiêu.
Một đời sống sung mãn về vật chất đang
hấp hối và giãy giụa trên những đống ngói gạch, xi măng, cột sắt là vì
chúng đang bị đói nghèo bởi đời sống tinh thần. Và một người sung mãn về
đời sống tinh thần, họ nghèo vật chất đến nỗi, đói thì ăn, khát thì
uống, mệt thì nằm. Họ chỉ biết nhận vừa đủ những gì từ cuộc sống cho họ,
và họ biết cám ơn cuộc sống một cách sâu sắc. Và, nếu họ có làm được
điều gì hữu ích cho cuộc sống, thì chính cái ấy là của cuộc sống mà
không phải của họ.
Từ chối đời sống vật chất là một người
điên, nhưng bám víu vào đời sống vật chất là một kẻ khốn nạn. Điên, vì
chính đời sống của nó đã bị đảo lộn. Khốn nạn, vì nó muốn thảnh thơi mà
thân và tâm của nó luôn luôn mang vào những khối nặng lầm lì, vô tri,
không biết nói, không biết cười, không biết cảm thông và sẻ chia.
Thế thì sao? Từ chối ư? – Không! Bám
víu ư? – Không! Không từ chối mà cũng không bám víu, mà hãy trân trọng
và sử dụng nó như là những phương tiện của cuộc sống mà không phải là
cứu cánh.
Vậy, cứu cánh của cuộc sống là gì? Cứu
cánh của cuộc sống chính là sự giác ngộ.
Giác ngộ cao nhất, là biết được rằng,
những gì ta đang có và đang trân quí hôm nay, chính những cái ấy, tự nó
đã và đang biến mất trong từng khoảnh khắc hiện hữu của chính nó. Nó
biến mất không phải để trở thành hư vô, mà để tiếp tục tái lập trong
những điều kiện nhân quả của nó. Và nhân quả của nó còn đó, nhưng không
phải bất biến và thường tại. Nó thường tại ngay ở nơi cái không thường
tại của chính nó. Và nó chuyển biến ngay nơi cái bất biến của chính nó.
Ta hãy nhìn bản thân ta, đời sống của
ta bằng con mắt giác ngộ, ta sẽ nhận ra rằng, ta không có bất cứ một cái
ta nào riêng biệt, độc tồn và tự hữu. Cái ta độc tồn và tự hữu chỉ là
những ảo giác.
Không ảo giác sao được? Khi mà bàn tay
ta chưa bao giờ là bàn tay hiện hữu một mình, mà nó cùng hiện hữu với
những cái khác. Nó hiện hữu với xương, với thịt, với hệ thần kinh, với
máu tim, với cha mẹ, với nhân duyên nghiệp quả của chính nó và với cuộc
đời.
Nếu giác ngộ được như thế, tầm nhìn và
sự hiểu biết của ta đối với bản thân mình, đối với cuộc sống của mình
càng ngày càng rộng lớn và sâu sắc. Tình thương chân thực của ta đối với
mọi người và mọi loài, cũng từ nơi sự giác ngộ ấy mà sinh khởi và lớn
rộng.
Bấy giờ, hạnh phúc của ta chính là
tình thương. Tình thương càng lớn, thì hạnh phúc càng nhiều. Tình thương
càng đằm thắm và thẳm sâu, thì hạnh phúc của ta càng trở nên cao thượng
và diệu vợi.
Muốn chấm dứt mọi tranh chấp và khổ
đau của con người cá nhân và cộng đồng ta chỉ cần thực tập ba chữ “đừng
ảo giác” mà thôi.
Vì sao? Vì chính ảo giác về một cái ta
tự hữu ấy, đã tạo ra những tham đắm, thất vọng và thù hận cho ta. Đời
sống bận rộn, tham đắm, thất vọng, hận thù và khổ đau của ta đã được tạo
ra từ những ảo giác ấy. Và từ đó, ảo giác đã đẩy ta vào cuộc chạy đua
với bận rộn, để kiếm tìm hạnh phúc trong bóng đêm, mà ảo giác vừa là
huấn luyện viên, vừa là cổ động viên, đẩy ta đi dài trong bóng đêm tăm
tối!
Thích Thái Hòa