Mình
Yêu Ai Nhất?
Thích Thanh Từ
Nhân tết
Trung Thu năm Canh Ngọ (1990), Hòa thượng Thanh Từ nói pháp thoại nầy với chư
Tăng Ni tại Thiền viện Thường Chiếu.
oOo
Tết Trung Thu năm nay, tôi đặt một
câu hỏi cho quí vị:
-- Quí vị biết trên đời nầy mình yêu
ai nhất không?
Tôi xin kể một câu chuyện xuất xứ từ
kinh A Hàm:
"Một
hôm vua Ba Tư Nặc hỏi phu nhân Mạt Lợi:
-- Trên
đời nầy ái khanh yêu ai nhất?
Phu nhân
Mạt Lợi đáp:
-- Dĩ
nhiên, người thiếp yêu nhất chính là bệ hạ.
Vua Ba Tư
Nặc nói:
-- Trẫm
cũng đoán rằng khanh sẽ nói như thế.
Phu nhân
Mạt Lợi mỉm cười:
-- Tâu bệ
hạ, nếu thánh thượng cho phép, thần thiếp sẽ nói khác đi một tí, nhưng xác thực
hơn.
Vua Ba Tư
Nặc bảo:
-- Khanh
cứ nói!
Phu nhân
Mạt Lợi thưa:
-- Tâu bệ
hạ, người mà thần thiếp yêu quí nhất, chính là thần thiếp.
Vua Ba Tư
Nặc ngạc nhiên:
-- Sao?
Mình lại yêu mình? Trẫm không hiểu khanh muốn nói gì?
Phu nhân
Mạt Lợi thưa:
-- Tâu bệ
hạ, vì có ái trọng tự ngã mình, nên thần thiếp mới yêu thương bệ hạ, vì bệ hạ
là người đem lại hạnh phúc cho cái tự ngã nầy.
Vua Ba Tư
Nặc nói:
-- Trẫm
biết điều đó, nhưng vẫn chưa hiểu rõ ý khanh.
Phu nhân
Mạt Lợi dè dặt:
-- Tâu bệ
hạ, thần thiếp mạn phép nêu ra một câu hỏi: "Trên đời nầy bệ hạ yêu thương
ai nhất?"
Vua Ba Tư
Nặc cười:
-- Ái
khanh chứ còn ai!
Phu nhân
Mạt Lợi hỏi tiếp:
-- Giả sử
thần thiếp yêu thương một người đàn ông khác thì bệ hạ sẽ làm gì?
Vua Ba Tư
Nặc lúng túng:
-- �, trẫm sẽ..., trẫm sẽ...
Phu nhân
Mạt Lợi tiếp lời:
-- Bệ hạ sẽ
nổi trận lôi đình, chém đầu thần thiếp ngay lập tức phải không?
Vua Ba Tư
Nặc giả lả:
-- Khanh
hỏi rắc rối quá! Rắc rối thật!
Phu nhân
Mạt Lợi hỏi:
-- Tâu bệ
hạ, có đúng thế không ạ?
Vua Ba Tư
Nặc đáp:
-- �... à...
Phu nhân
Mạt Lợi hỏi dồn:
-- Ðúng,
phải không bệ hạ?
Vua Ba Tư
Nặc im lặng giây lâu, nói:
-- Có lẽ
khanh nói đúng.
Phu nhân
Mạt Lợi nói:
-- Thế là
bệ hạ đã đáp câu hỏi của thần thiếp rồi!"
Yêu người ta nhất đời mà người ta
yêu kẻ khác thì chặt đầu. Như vậy có yêu nhất đời chưa? Nếu yêu nhất đời thật,
thì dù người ta có yêu ai khác, mình cũng vẫn yêu họ. Thế mà người ta không
thương mình thì mình chặt đầu, vậy thương đó là vì ai? Thương đó là vì mình!
Mình chỉ thương mình thôi! Tất cả mọi đối tượng mà mình thương mến đều vì mình
mà mình thương, thương người qua tự ngã của mình đó vậy.
Hôm sau vua Ba Tư Nặc xa giá đến
tinh xá Kỳ Viên thăm Phật, và trình bày câu chuyện đối đáp giữa vua và hoàng
hậu. Phật xác nhận ý kiến của phu nhân Mạt Lợi qua bài kệ như sau:
Tâm ta đi
cùng khắp
Tất cả mọi phương trời
Cũng không tìm thấy được
Ai thân hơn tự ngã
Ði tìm khắp phương trời
Cũng không tìm đâu thấy
Ai thân hơn tự ngã
Vậy ai yêu tự ngã
Chớ hại tự ngã người.
Ðó là lời xác nhận của Phật: Chúng
sanh yêu tự ngã mình hơn hết. Bây giờ nếu hỏi mình yêu ai nhất, tôi nói một câu
quí vị nghe sẽ sửng sốt, vì không bao giờ dính dáng chuyện mà mình tưởng. Tôi
cho rằng: "Mình yêu sáu trần nhất!". Yêu sáu trần - yêu sắc,
thanh, hương, vị, xúc, pháp nhất - chứ không phải yêu tự ngã hay yêu ai hết.
Tại sao vậy?
Ðứng về nghĩa thường, chúng ta yêu
cái bản ngã nầy trên hết, phải không? Ðó là chân lý của thế gian. Người đời
thương tự ngã mình hơn hết mà không biết, cứ nghĩ thương người nầy hết lòng,
thương người kia hết lòng. Hoặc giả có biết mình thương tự ngã mình cũng không
can đảm nói thật, nói gạt thiên hạ là mình thương chúng sanh, chớ đích thực
mình thương mình là gốc. Thí dụ có một Phật tử rất tốt, tu hành rất tinh tấn,
song đối với mình lúc nào họ cũng chỉ trích. Mình nói nhiều họ cũng chỉ trích,
nình đi đứng không nghiêm trang họ cũng chỉ trích, mình lười ngồi thiền họ cũng
chỉ trích. Họ cứ chỉ trích đả phá mình hoài, nên mình không chịu nổi, không
thương họ được. Hầu hết chúng ta thương ai, mến ai là vì người đó thương mình,
giúp mình, đem sự lợi lạc, an ổn cho mình. Nếu không như vậy chắc mình không
còn thương họ. Như vậy, cái thương đó là cái thương vì bản ngã.
Cái đau khổ nhất của con người là
thấy mình tối thượng, lúc nào cũng nghĩ về mình, song lại tự đánh mất mình mà
không hay. Tất cả đều qui hướng về bản ngã, nhưng rốt cuộc lại bỏ quên cái thật
ngã chính mình! Hằng ngày chúng ta cứ đuổi theo cái giả ngã, vun bồi cho nó
được sung túc to lớn, mai kia nó hư hoại mất đi, chừng đó chúng ta không biết
làm sao đây? Như vậy, nói thương mình lại vô tình đánh mất mình mà không biết.
Ðó là một sự thật đáng thương mà ít ai thấy.
Tôi xin hỏi: Thương mình là thương
cái gì? Phải chăng thương thân tứ đại? Thân tứ đại là do đất, nước, gió, lửa
hợp lại mà thành, chúng có đặc tính xung khắc chống đối nhau, thường bất hòa
không an. Một lúc nào đó sẽ rã tan. Khi rã tan thì cái gì thật là mình mà mình
thương yêu? Nói tứ đại không thật là mình nên mình không thương, vậy mình
thương cái gì? Có phải mình thương tâm mình? Tâm mình là cái nghĩ suy tính
toán, một khi đã nghĩ điều gì thì cho điều mình nghĩ là chân lý, nếu có ai cãi
lại thì không chịu, có thể tranh luận hoặc đấu đá để bảo vệ cái mình nghĩ. Bảo
vệ tức là yêu nó chứ gì? Nhưng cái suy nghĩ đó nó không thật, nó nghĩ cái nầy
nó nghĩ cái kia, khi nhìn lại nó đâu mất, tìm không ra. Nó chợt hiện chợt mất,
nó không có hình dáng nào cố định cả; không có hình dáng cố định làm sao thật
được? Cái không thật mà cho là mình, có đúng không? Lại nữa, cái suy nghĩ đó
khi nghĩ điều thiện, tốt như Hiền Thánh, lúc nghĩ điều ác, dữ như cọp sói. Như
vậy, mình là Hiền Thánh, hay mình là cọp sói? Lại nữa, nó vừa nghĩ điều thiện
liền biết nó đang nghĩ thiện; nó vừa nghĩ ác, liền biết nó đang nghĩ ác. Như
vậy, nó là cái bị biết thì nó là khách, đâu phải là chủ là mình? Mọi người dồn
hết tâm lực để lo cho mình, thế mà thân tứ đại không phải là mình, cái nghĩ suy
thay đổi sanh diệt cũng không phải là mình. Vậy chúng ta thương mình là thương
cái gì? Quí vị thử nói xem? Thương đất nước gió lửa không được, vì đất, nước,
gió, lửa vô tri, có gì mà thương! Thương cái nghĩ suy cũng không được, vì cái
nghĩ suy chợt hiện chợt mất, làm sao thương? Vậy chúng ta thương cái gì đây?
Mọi người đều lầm tưởng có "cái
mình" thật, nhưng không ngờ đó chỉ là nhóm tứ đại tập hợp và những niệm
nghĩ suy sinh diệt, mọi người bám vào đó cho là mình. Trong kinh Viên Giác,
Phật dạy: "Chấp thân tứ đại là mình, chấp cái nghĩ suy phân biệt là
mình, đó là vô minh". Thế nên ai yêu thân tứ đại, ai yêu cái nghĩ
suy phân biệt đều là vô minh. Càng yêu nó là càng chìm trong sinh tử, càng yêu
nó là càng mất mình!
Ðây tuy nói là yêu mình nhất, chứ kỳ
thật chúng ta yêu sáu trần hơn hết. Tại sao tôi nói khác lạ như thế? Vì giờ tọa
thiền, cốt yếu là giữ cho thân tâm yên lặng thanh tịnh, thế mà không bỏ nó
được, lát nhớ cảnh vật nầy, lát nhớ âm thanh nọ..., cứ nhớ hoài! Như vậy thì
còn yêu ai hơn nó? Trong kinh Thủ Lăng Nghiêm, Phật có nói: "Chúng
sanh quên mình theo vật". Quên mình theo vật là khi mắt thấy sắc
thì chỉ biết có cảnh vật đẹp xấu, khi tai nghe tiếng thì chỉ biết có âm thanh
hay dở, quên mình có "cái hay thấy hay nghe", chỉ một bề chạy theo âm
thanh sắc tướng bên ngoài mà quên "cái mình chân thật". Hằng ngày,
hằng giờ, hằng phút chúng ta quay về với mình hay chúng ta đuổi theo sáu trần?
-- Rõ ràng đang chạy theo sáu trần. Ngồi thiền mắt nhìn xuống, tuy không thấy
cảnh vật chung quanh, chớ tâm cũng chạy theo pháp trần. Xả thiền ra, thì mắt
chạy theo cảnh, tai đuổi theo tiếng... không bao giờ dừng nghỉ. Chạy theo sáu
trần không dừng nghỉ, không yêu nó thì yêu ai? Nếu không yêu nó thì chạy theo
nó để làm gì? Rõ ràng là yêu sáu trần, và chạy theo nó nên quên mình, mất mình.
Sống như thế không phải quên mình theo vật là gì?
Chúng ta là người thật tu thì phải
biết rõ chủ yếu của sự tu là gì? Tu là trở về cái thể chân thật của chính mình.
Có trở về cái thể chân thật của mình mới thật là yêu mình. Ðang quên mình theo
vật thì làm sao gọi là yêu mình được? Ðây tôi dẫn kinh điển Nguyên thủy và kinh
điển Ðại thừa, cũng như lời khai thị của Thiền sư, để quí vị thấy chúng ta là
người quên mình chớ không yêu mình.
Một hôm tôn giả Phú Lâu Na xin Phật
dạy cho phương pháp tu đơn giản để ngài đến nơi thanh vắng tu. Phật dạy: "Mắt
thấy sắc không đuổi theo không dính mắc là gần với Niết bàn, tai nghe tiếng
không đuổi theo không dính mắc là gần với Niết bàn, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị,
thân duyên xúc, ý duyên pháp không đuổi theo không dính mắc là gần Niết bàn;
ngược lại, nếu nhiễm trước, nếu dính mắc là xa Niết bàn". Ðó là
trở về mình, trở về cái thể chân thật của chính mình. Ngài Phú Lâu Na tu chỉ ba
tháng chứng quả A La Hán. Như vậy, chính khi sáu căn không dính mắc với sáu
trần là mình trở về với mình, đó là gần Niết bàn, ngược lại là xa Niết bàn.
Trong kinh Kim Cang, ngài Tu Bồ Ðề
hỏi Phật: "Người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác làm sao hàng
phục tâm, làm sao an trụ tâm?". Phật dạy: "Bất ưng trụ sắc sinh
tâm, bất ưng trụ thinh, hương, vị, xúc, pháp sinh tâm, ưng vô sở trụ nhi sinh
kỳ tâm". Nghĩa là không nên khởi tâm dính mắc với sắc, thinh,
hương, vị, xúc, pháp, đó là chỗ an trụ của người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng
Chánh giác. Nghe tới đây Lục Tổ liền ngộ, không phải chỉ ngộ cái lý "không
trụ sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, sinh tâm...", mà ngài còn thấy xa
hơn nữa. Ngài thấy tánh mình xưa nay vốn thanh tịnh, tánh mình xưa nay vốn
không sanh diệt, tánh mình xưa nay vốn tự đầy đủ. Xuyên qua lý "sáu căn
không dính với sáu trần là chỗ an trụ của người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng
Chánh giác", ngài liền nhận ra cái thể chân thật của chính mình mà nhà
Thiền gọi là "Bản lai diện mục". Sở dĩ chúng ta không nhận ra bộ mặt
thật xưa nay của chính mình là vì chúng ta chạy theo sáu trần. Ngược lại, không
đuổi theo sáu trần thì Bản lai diện mục hiện tiền. Sau đây là câu chuyện đối
đáp của Thiền sư Cảnh Thanh với thị giả.
Một hôm trời mưa, ngoài vườn có
tiếng nhái kêu vì bị rắn bắt, ngài hỏi thị giả:
-- Tiếng gì đó?
Thị giả thực thà đáp:
-- Tiếng nhái kêu.
Ngài nói:
-- Chúng sanh khổ lại có khổ chúng
sanh.
Tại sao "chúng sanh khổ lại có
khổ chúng sanh"? - "Chúng sanh khổ" là con nhái bị con rắn cắn
gần chết nên kêu la. Còn "khổ chúng sanh" là thị giả nghe tiếng nhái
kêu chạy theo tiếng nhái, quên mình. Hiện tại chúng ta sống có phải là
"khổ chúng sanh" không? Ða số đều chạy theo sáu trần, mà quên mất
mình, sống mà cũng như chết, không khổ chúng sanh là gì?
Rồi một hôm trời mưa, tiếng mưa rơi
tí tách. Ngài hỏi thị giả:
-- Tiếng gì đó?
Thị giả thưa:
-- Tiếng mưa rơi.
Ngài bảo:
-- Chúng sanh quên mình theo vật.
Thị giả nghe tiếng mưa rơi chỉ một
bề chạy theo tiếng mưa rơi mà quên mình, nên bị ngài quở "quên mình theo
vật". Nếu chúng ta được hỏi như thế, chắc cũng trả lời như thị giả ở đây.
Phải trả lời sao mới không quên mình theo vật? Nên nói rằng: "Con đang
nghe". Biết mình đang nghe mới không quên mình, không mất mình.
Chúng ta là người tu, mục đích là
tìm lại con người chân thật của chính mình. Như thế mới là thật thương mình,
chớ còn chạy theo sáu trần mà nói thương mình, cái đó chỉ là yêu tứ đại, yêu
sáu trần chớ không thật yêu mình. Thế nên phải buông xả sáu trần, xả sáu trần
mới trở lại mình được, không thì đánh mất mình. Quí vị có dám buông xả sáu trần
không? Sáu trần là tướng sanh diệt bên ngoài, nếu theo đuổi dính mắc nó thì cái
chân thật sẽ bị quên đi. Lục Tổ khi ngộ được lý nầy rồi, ngài thường đề cập đến
"kiến tánh", tức là nhận được thể tánh chân thật của chính mình, và
muốn nhận được cái thể chân thật ấy thì phải không dính với sáu trần.
Vua Trần Thái Tông đời Trần, lúc
việc nước rảnh rang, ngài đọc kinh Kim Cang, nghiền ngẫm câu "Ưng vô sở
trụ nhi sinh kỳ tâm". Sau ngộ được lý nầy, trong bản Thiền Tông Chỉ Nam
ngài có soạn pháp sám hối "Lục Thời Sám Hối", trong đó ngài sám hối
mắt, sám hối tai, sám hối mũi, sám hối lưỡi, sám hối thân, sám hối ý. Mỗi thời
sám hối một căn. Sám hối như vậy cốt để gỡ cái dính mắc sáu trần. Do ngộ mà
ngài chế ra nghi thức sám hối ngay nơi sáu căn, đó là điều đặc biệt của riêng
ngài, không bắt chước các pháp sám hối khác ở Trung Hoa. Và đây là bài kệ Tứ
Sơn (bốn núi sanh, già, bệnh, chết) trong đó ngài sám hối sáu căn:
Tỷ trước
chư hương, thiệt tham vị
Nhãn manh chúng sắc, nhĩ văn thinh
Vĩnh vi lãng đãng phong trần khách
Nhật viễn gia hương vạn lý trình.
Dịch:
Lưỡi vướng
vị ngon, tai vướng tiếng
Mắt theo hình sắc, mũi theo hương
Lênh đênh làm khách phong trần mãi
Ngày cách quê hương muôn dặm trường.
Là một ông vua bận rộn việc nước mà
ngộ được lý đạo nhắc nhở chúng ta tu như thế, thật là chuyện hiếm có. Chúng ta
là người đủ duyên phước xuất gia sống trong cửa thiền, duyên đời được cắt bỏ
nhiều mà cứ dính mắc với sáu trần mãi thì biết bao giờ mới thấy đạo? Thời vua
Trần Thái Tông là thời đất nước loạn ly, quân Nguyên xâm lăng. Việc nước nặng
nề bận rộn mà ngài tu thấy đạo, nói được những câu như vậy. Chúng ta là những
người ở trong chùa rảnh rang ít việc, không bận bịu gia đình, không lo nghĩ
chuyện đói no ấm lạnh, thế mà buông sáu trần không nổi, thì chẳng biết nói sao!
Thật đáng xót thương cho mình! Ðó là "khổ chúng sanh". Muốn tìm lại
mình sống với chính mình, mà cứ dính với sáu trần hoài thì làm sao sống với
mình đây?
Lâu nay chúng ta đang đánh mất mình,
không riêng gì chúng ta mà cả nhân loại cũng đang mất mình. Như vậy người tu có
ích kỷ không? Vì tìm lại mình lo cho mình, theo quan niệm người đời là ích kỷ.
Chúng ta dồn hết tâm lực xoay lại tìm cho ra "cái chân thực" của mình,
nhà Thiền gọi là "phản quan tự kỷ". Luôn luôn xem xét mình thấy như
ích kỷ, chỉ vì mình. Song đó là việc làm lợi tha vô kể. Vì bao nhiêu tỷ người
đang quên mình, đang đánh mất mình. Nếu mình tìm được "cái chân thật"
của mình rồi, mình chỉ cho mọi người nhận ra "cái chân thật" của họ
thì cứu giúp nhân loại biết bao!
Chúng ta đang sống mà không biết
mình sống, nói mình mà không biết cái gì là mình. Như vậy là sống hay chết? Nói
mình là cái nói rỗng, không có ý nghĩa. Chúng ta tu là phải xoay lại tìm cho ra
"cái chân thật" đó, luôn luôn phải nỗ lực không thể chần chờ. Muốn
tìm ra cái chân thật đó là phải đừng thương sáu trần. Quí vị có chấp nhận không
yêu sáu trần nữa không? Dám ly dị, dám lìa bỏ chúng không? Quí vị mà lìa bỏ
được sáu trần, quí vị không muốn làm thánh cũng là thánh. Còn nếu không lìa bỏ
được chúng, thì chúng dẫn quí vị đi mãi trong vòng luân hồi sanh tử. Tu cốt để
giải thoát sanh tử, muốn hết sanh tử phải nhận ra cái chân thật không sanh
không diệt. Cái chân thật ấy có sẵn nơi mỗi chúng ta, chỉ cần không dính với
sáu trần thì nó hiện tiền, còn vướng với sáu trần thì nó ẩn mất.
Từ ngày tôi hướng dẫn quí vị tu tới
giờ, lúc nào tôi cũng khuyên quí vị hãy lìa bỏ sáu trần, đến nay quí vị có chịu
lìa bỏ chưa? -- Chưa, chắc còn khắng khít lắm. Cái mà Phật răn, Tổ quở, Thầy
rầy mà không chịu bỏ, không yêu nó tột đỉnh là gì? Chúng ta học đạo, hiểu đạo
rồi, nhất định phải tìm cho ra con người thật của chính mình. Muốn tìm ra con
người thật đó, chúng ta phải xây lưng với sáu trần mà kinh Lăng Nghiêm gọi là
"bối trần hiệp giác". Còn bây giờ chúng ta đang làm gì đây? Chúng ta
đang "bối giác hiệp trần" là xây lưng với cái chân thật nơi mình mà
chạy theo sáu trần, nên gọi là yêu sáu trần. Mong quí vị can đảm cắt đứt nó,
lìa bỏ nó để trở thành những tăng sĩ xứng đáng mai sau kế nghiệp cho đức Bổn
Sư.
Rằm tháng Tám năm Canh Ngọ (1990)
Thích Thanh Từ