Tất cả chúng ta tu Phật, từ hàng tại
gia cho tới những vị xuất gia đều muốn đạt được những lợi ích thiết thực
trong cuộc sống. Vì vậy hôm nay tôi sẽ nói đề tài Mỗi bước tiến tu đều
đem lại an lạc cho mình và mọi người.
Nhiều Phật tử tu năm mười năm, lại than tu càng lâu phiền não càng
nhiều. Những lời than đó khiến mọi người ngạc nhiên. Lý đáng tu lâu thì
phiền não nhẹ, sao tu lâu phiền não lại nhiều?
Âu là tại chúng ta không nắm bắt được
nền tảng của sự tu hành.Vì không nắm bắt được nên trên đường tu cứ chạy
theo hơn thua, phải quấy, được mất, rốt cuộc tăng trưởng phiền não. Nếu
tu đúng với tinh thần Phật dạy thì không như thế, mà mỗi bước tiến tu
đều là mỗi bước an lạc cho bản thân và cho mọi người.
Phật tử đến với đạo Phật đều phát nguyện qui y Tam Bảo. Qui y Tam Bảo
được sự an lạc, vui vẻ gì mà chúng ta qui y? Đó là bước thứ nhất người
vào đạo phải biết. Trong những buổi qui y, quí Hòa thượng thường nhắc:
“Qui y Phật rồi khỏi đọa địa ngục. Qui y Pháp rồi khỏi đọa ngạ quỉ. Qui y
Tăng rồi khỏi đọa súc sanh.” Như vậy chúng ta bước chân vào đạo là đã
tiến lên một bước trên đường thoát khổ. Phật dạy chúng sanh luân hồi
trong lục đạo, trong lục đạo có ba đường ác và ba đường lành. Ba đường
ác là địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh. Ba đường lành là người, a-tu-la và
trời. Khi bước chân vào đạo Phật, qui y Tam Bảo, Phật tử tu tập đúng
theo lời Phật dạy sẽ tránh được ba đường ác.
Tại sao qui y Phật rồi khỏi đọa địa ngục? Vì Phật là bậc giác ngộ sáng
suốt, khi Phật tử đã phát tâm qui y Phật, nguyện từ đây cho tới cuối
đời, đi theo con đường Phật đi là con đường giác ngộ, sáng suốt. Địa
ngục là chốn u minh tối tăm, chúng ta qui y Phật thì đang đi trên con
đường sáng nên không rơi vào chỗ tối tăm. Người phát tâm qui y Phật có
một định hướng tiến lên con đường giác, không tuột xuống chỗ mê lầm tối
tăm nữa. Đó là ta chọn được một con đường đem lại sự an lạc cho mình.
Kế đó, qui y Pháp khỏi đọa ngạ quỉ. Ngạ quỉ là loài quỉ đói. Tại sao qui
y pháp rồi khỏi đọa vào loài quỉ đói? Vì trong kinh Phật nói, đức Phật
từng thấy những loài quỉ lang thang khổ sở nơi này chốn nọ, không có trụ
xứ nào an ổn hết. Trong kinh A-hàm kể, một hôm ngài Mục-kiền-liên đang
đi, Tôn giả liền dùng thiên nhãn quán sát trong hư không, thấy có những
chúng sanh thân hình to lớn mà bị ghẻ lở, côn trùng đục khoét nên họ
phải la lên trong hư không. Thấy vậy Ngài về bạch Phật: “Bạch Thế Tôn,
con thấy những chúng sanh khổ đang lang thang ở trong hư không.” Phật
nói: “Ta cũng thấy như vậy, nhưng không nói vì nói không ai tin.” Không
biết thì không tin. Bởi nhìn thấy như vậy nên sau này tìm mẹ, Ngài thấy
mẹ đang đọa vào loài quỉ đói, lang thang khổ sở ghê lắm.
Nhưng tại sao lại sanh làm ngạ quỉ? Trong kinh Phật nói ai có tâm gian
tham, bỏn sẻn, hiểm độc là nhân của loài quỉ đói. Chúng ta qui y pháp là
pháp từ bi, pháp đưa đến sự giác ngộ. Tiến trên con đường từ bi giác
ngộ, nhất định khỏi đọa làm loài quỉ đói lang thang. Đó là kết quả thứ
hai khi qui y.
Đến thứ ba, qui y Tăng khỏi đọa làm súc sanh. Súc sanh như trâu, bò,
lợn, dê, ngựa v.v… những con đó hiện tại mắt chúng ta thấy biết được.
Trong ba đường khổ chúng ta thấy được loài súc sanh, còn quỉ đói và địa
ngục mắt phàm phu không thấy.
Khi qui y với Phật, Pháp, Tăng rồi chúng ta tránh được ba đường ác: địa
ngục, ngạ quỉ và súc sanh. Chỉ bước đầu tiến lên con đường tu, quí vị
thấy đã cứu vãn cho mình khỏi rơi vào ba đường khổ, đem lại sự an vui
cho bản thân. Nếu lỡ rơi xuống địa ngục khổ biết mấy hay làm loài ngạ
quỉ khổ tới bậc nào. Phật tử bước vào đạo, chỉ cần phát nguyện qui y Tam
Bảo là đã vươn lên một bước, giảm bớt đau khổ trong những con đường
hiểm nguy.
Như vậy qui y Tam Bảo là việc quan trọng hay tầm thường? - Rất quan
trọng. Có người nào muốn xuống địa ngục đâu, vì địa ngục là chỗ đáng sợ
nhất, đáng ghê gớm nhất. Không muốn tới địa ngục thì chúng ta phải theo
Phật, đi đường giác ngộ sáng suốt mới không rơi vào chỗ tối. Điều này rõ
ràng, không có gì phải nghi ngờ.
Qui y Pháp là pháp từ bi giác ngộ, tâm không còn bỏn sẻn, hiểm độc thì
không rơi vào loài ngạ quỉ. Qui y Tăng, Tăng là những vị tu hành thanh
tịnh, Phật tử sẽ được chư Tăng hướng dẫn, chỉ dạy cho biết đạo lý chân
thật không còn mê lầm. Quí Phật tử được nghe phân tích rõ cái gì thiện,
cái gì ác, cái gì tội, cái gì phước, cái gì tà, cái gì chánh… nên hết si
mê, khỏi đọa làm súc sanh.
Bước đầu chúng ta tu là qua được ba con đường hiểm nguy. Nếu không khéo
tu, ba con đường đó sẽ làm chúng ta đau khổ chẳng những năm mười năm,
hai ba mươi năm, mà cả một kiếp ngạ quỉ. Làm ngạ quỉ tuổi thọ dài hơn
con người. Tuổi thọ con người chưa tới một trăm tuổi, tuổi thọ ngạ quỉ
cả ngàn tuổi, khổ dài đằng đẵng. Cho nên bước vào đạo, qui y chân chánh,
Phật tử đã vượt qua ba ải hiểm nguy rồi. Như vậy có phải chúng ta đang
đi trên con đường an lạc không? Đó là một lẽ thật, lâu nay quí vị ít
quan tâm.
Sau khi qui y, chư Tăng sẽ dạy Phật tử giữ năm giới. Giới thứ nhất không
được sát sanh. Sát sanh đối với cư sĩ là không được giết người trong ba
trường hợp: tự tay giết, dùng miệng xúi bảo kẻ khác giết, thấy nghe
người ta giết mình vui mừng. Đó là phạm tội sát sanh. Giữ được giới
không sát sanh, trong xã hội gặp nhau mọi người đều an ổn, không ai sợ
ai cả. Chúng ta giữ giới này, khi lên phi cơ chắc ít bị xét, vì không có
gì để sợ. Còn bây giờ khó khăn là tại vì có những người phạm tội sát
sanh đáng sợ.
Người tu Phật không bao giờ giết người, chẳng những không giết người mà
còn cứu người. Tại sao? Bởi vì người Phật tử đặt sanh mạng chúng sanh
lên trên, không nỡ gây đau khổ cho chúng sanh. Tinh thần đạo Phật chú
trọng tâm cao thượng, không muốn làm đau khổ ai. Tự mình không làm khổ
ai, không gây tang tóc cho người, thì bản thân rất an ổn, người chung
quanh cũng an ổn. Chỉ cần giữ giới không sát sanh là thiên hạ thái bình
rồi.
Giới thứ hai không trộm cướp. Nếu Phật tử ở gần kẻ trộm cướp có lo
không? Chắc đi đâu cũng hồi hộp. Xóm làng có người giữ giới không trộm
cướp thì nhà nhà không cần đóng cửa. Bản thân kẻ trộm cướp luôn luôn lo
sợ bị bắt, vì khi bị bắt họ bị đánh đập rất khổ sở. Chúng ta giữ giới
không trộm cướp thì người nhẹ nhàng, thảnh thơi, hàng xóm láng giềng
cũng thảnh thơi. Như vậy từng bước đi của mình đem lại an lạc cho mình,
cho mọi người.
Giới thứ ba không tà dâm. Trong gia đình người chồng, người vợ không tà
dâm thì vợ chồng tin tưởng, thương mến nhau. Nếu ngược lại thì sao? Gia
đình đó bất hạnh, chẳng những bất hạnh cho cha mẹ, mà cả con cái nữa.
Người biết giữ giới không tà dâm, bản thân được an ổn, gia đình hòa vui
mà mọi người chung quanh không sợ, không lo thói xấu ấy lây tới gia đình
họ. Giữ giới thứ ba thì an ổn hạnh phúc cho mình và cho người.
Giới thứ tư không nói dối. Dối gạt mới nghe coi như nhẹ, nhưng sự thật
nó là nguyên nhân dẫn tới sự tan vỡ khổ đau. Trong gia đình người vợ nói
gạt người chồng, người chồng dối người vợ, con dối cha v.v… thì gia
đình đó không có hạnh phúc vì không ai tin ai hết. Không tin mà sống
chung còn gì khổ hơn! Sống trong gia đình không tin nhau thì ngoài xã
hội có ai tin mình không? Cũng mất hết lòng tin. Như vậy sống giữa muôn
triệu người mà như sống ở sa mạc, không ai tin mình. Ta nói không ai
thèm nghe, không ai thèm biết, đó là gây khổ cho mình. Khi quen dối gạt,
gặp ai họ cũng sợ mình dối gạt, không muốn nghe ta nói, đó là gây khổ
cho người. Nên giữ được giới không nói dối, bản thân chúng ta sống hòa
vui, tin yêu trong gia đình, kế đến đem lại sự tin yêu cho xóm làng và
mọi người một nguồn an lạc chung.
Giới thứ năm không uống rượu. Giới này bên nam sợ lắm. Nói tới giới thứ
năm ít có ông nào dám thọ, cứ nói để dành đó. Nhưng sự thật chúng ta có
một điều lầm lẫn lớn. Ở thế gian có ai muốn trí tuệ càng ngày càng mờ
tối không? Người nào cũng muốn thông minh, sáng suốt. Thế mà khi uống
rượu say, lúc đó trí tuệ làm sao? Quí vị thấy những người say đi ngoài
đường có hơn gì người điên đâu. Những kẻ ấy tự đánh mất cái cao quí nhất
của mình là trí tuệ, có đau lòng không! Cho nên uống rượu mạnh, uống
say là làm cho trí tuệ suy sụp, tự mình làm khổ mình. Người tránh uống
rượu mạnh, uống say là nuôi dưỡng trí tuệ, càng già càng thông minh sáng
suốt.
Đạo Phật là đạo giác ngộ, giác ngộ thì đòi hỏi trí tuệ, mà mình làm lụn
bại trí tuệ thì có phải phản bội lại đạo giác ngộ không? Quí vị thấy một
người uống rượu say lè nhè nói bậy, mọi người chung quanh rất phiền.
Chính bản thân người đó khổ, còn làm phiền những người chung quanh khổ
nữa. Ngày nay giới uống rượu phải mở rộng thêm một chút nữa. Đó là không
hút á phiện, xì ke, ma túy. Vì rượu còn nhẹ hơn á phiện, xì ke, ma túy.
Thời Đức Phật chưa cấm vì không có, nhưng bây giờ có thì phải cấm thêm.
Cấm thêm như vậy để đem lại sự an ổn cho cá nhân, gia đình, xã hội và
đất nước.
Như vậy chỉ cần mỗi chúng ta giữ năm giới là đem lại hạnh phúc thật sự
cho bản thân, cũng như láng giềng, xã hội đều được tốt đẹp. Một điều tốt
đẹp lớn lao như thế mà chúng ta không quí trọng, không cố gắng thực
hành, đó là một thiệt thòi. Chẳng những tốt đẹp trong hiện tại, mà còn
tốt đẹp luôn cả vị lai. Người qui y Tam Bảo, giữ năm giới Phật gọi đó là
tu Nhân thừa Phật giáo, tức giáo lý đưa một con người tốt sang một con
người tốt hơn. Phật tử từ khi qui y trở về sau giữ tròn năm giới, khi
bệnh nặng sắp mất, có người hỏi anh chị chết rồi đi về đâu, quí vị trả
lời tôi sẽ trở lại làm người bằng hoặc tốt hơn bây giờ.
Phật dạy giữ giới không sát sanh, đời sau tuổi thọ dài. Giữ giới không
trộm cướp, đời sau sanh ra có nhiều của cải. Giữ giới không tà dâm, đời
sau sanh ra đẹp đẽ trang nghiêm. Giữ giới không nói dối, đời sau sanh ra
nói năng lưu loát, nói ra ai cũng quí, cũng tin. Giữ giới không uống
rượu, không hút á phiện, xì ke, ma túy, đời sau sanh ra trí tuệ sáng
suốt. Năm điều đó có lợi ích thiết thực cho cuộc sống hiện tại và mai
sau. Như vậy chúng ta còn tiếc gì không chịu qui y, không chịu thọ trì
Ngũ giới.
Tôi đặt câu hỏi, nếu Phật tử hiện đời được sống lâu, có chút ít của…,
quí vị muốn đời sau bằng như vậy hay thua, hay hơn? Ai cũng muốn hơn,
đâu muốn thua. Nếu chúng ta giữ giới không sát sanh thì đời sau tuổi thọ
dài, nhưng không giữ giới thứ hai là không trộm cắp, thì sống dai mà
nghèo, quí vị chịu không? Sống dai mà không gạo ăn thì sống làm gì. Giữ
giới thứ nhất, giới thứ hai luôn mới được sống dai và có của. Nhưng giới
thứ ba không giữ thì giàu có, sống dai, nhưng sanh ra mặt mày xấu xí,
không ai thèm ngó, quí vị chịu không? Chắc chán chết. Như vậy giới thứ
ba cũng không thể thiếu được.
Tới thứ tư nếu chúng ta không giữ giới nói dối, đời sau sanh ra câm
ngọng, quí vị chịu không? Được sống dai, có của, đẹp đẽ mà nói không
được hoặc nói ngọng cũng không thể được. Như vậy giới thứ tư cũng phải
giữ cho kỹ, để đời sau ăn nói lưu loát, mọi người tin tưởng, mới có giá
trị.
Bây giờ được bốn giới rồi, còn giới chót là giới không uống rượu, không
hút á phiện, xì ke, ma túy. Nếu chúng ta không giữ giới này thì sanh ra
được sống dai, có của, đẹp đẽ, nói năng lưu loát, nhưng ngu ngốc học bài
không thuộc, quí vị chịu không? Cũng không chịu. Cho nên phải giữ giới
thứ năm không uống rượu, không hút á phiện, xì ke, ma túy.
Như vậy thiếu một giới là chưa đủ tư cách làm một người tốt. Ngay đời
này chúng ta giữ năm giới là giữ tư cách một con người tốt, khi nhắm mắt
trở lại chúng ta càng tốt hơn. Cho nên tu là đem lại niềm an vui cho
mình, mà còn mang lại lợi ích cho rất nhiều người. Vì vậy, trong đạo
Phật bắt buộc Phật tử tu phải giữ năm giới. Nhiều Phật tử bây giờ đi
chùa lạy Phật, chớ không chịu giữ giới. Như vậy không thể gọi là tu,
không đủ tư cách trở lại làm con người.
Chặng thứ nhất, Phật tử qui y Tam Bảo tránh được ba đường ác. Chặng thứ
hai giữ năm giới thì thành con người tốt trong xã hội, một con người
xứng đáng ở ngày mai. Phật tử làm tròn bổn phận của mình, lúc sắp nhắm
mắt có sợ không? - Không sợ. Bởi vì xe cũ xấu, xe mới tốt hơn thì bỏ xe
cũ để được xe mới, ta sẵn sàng bỏ, có gì sợ? Không sợ chết thì có gì đau
khổ. Rõ ràng chúng ta tu đem lại sự an lạc trong cuộc sống hiện tại,
cho tới giờ nhắm mắt cũng được bình an, không lo, không sợ gì hết. Thân
này già yếu bệnh hoạn chưa đầy đủ phước, mình tu đời sau có phước hơn,
đẹp đẽ hơn, có gì lo buồn. Bỏ cái xấu được cái tốt, nên vui vẻ. Người tu
sống vui và chết cũng vui. Đó là nguồn an lạc thật sự mà ít ai để ý
tới. Người ta cứ nghĩ qui y, thọ giới coi bộ ràng buộc quá, nên không
muốn thọ. Như bên nam không cữ uống rượu là quí vị chấp nhận đời sau ngu
hơn đời này rồi! Có ai muốn điều đó không? Chắc không ai muốn điều đó.
Đã không muốn tại sao chúng ta lại làm?
Cuộc sống là cả một chuỗi dài để chúng ta sắp đặt cho cuộc sống mới. Nếu
không khéo sắp đặt, bỏ thân này qua thân sau chúng ta càng khổ, càng
lụy hơn. Cho nên người biết tu là người thông minh, sáng suốt, biết chọn
lựa con đường đi. Ngay đời này, sống chúng ta không hổ thẹn với ai,
không lo sợ điều gì, chết lại càng vui tươi hơn. Tu như vậy mới thật là
tu.
Nhiều Phật tử than đi chùa lâu năm mà phiền não quá! Tại vì những vị ấy
không hiểu lợi ích của sự tu, cứ cố chấp giành hơn, giành thua, người
này châm biếm người kia, người kia nói xấu người nọ, như vậy đâu phải
tu.
Phật tử qui y Tam Bảo thì tránh ba đường khổ, giữ năm giới thì được làm
người tốt. Tới bước thứ ba là tu Thập thiện. Thập thiện là mười điều
lành, trong kinh gọi là Thập thiện nghiệp đạo. Mười điều lành là con
đường dẫn quí vị đi tới chỗ an vui. Phật tử muốn tiến từ bước thứ hai
lên bước thứ ba, quí vị tu nhiều hơn về ba nghiệp. Thân không sát sanh,
trộm cướp, tà dâm. Miệng chẳng những không nói dối thôi, mà còn nói
những lời đầy đủ ý nghĩa, nói lời an vui cho mình và người. Ý không
tham, không sân, không si. Tôi không dám nói không, chỉ bảo quí vị bớt
tham, bớt sân, bớt si. Vì chúng ta mới bước đầu, còn tiến lên cõi trời,
chớ chưa thành Thánh nên nói bớt.
Như vậy tu ba nghiệp là then chốt của sự an vui hay gốc của đau khổ?
Người tham sẽ được vui hay sẽ khổ? Phật dạy tham là gốc của đau khổ. Đau
khổ thế nào? Trước khi muốn được việc đó đã khổ, khi được muốn giữ cho
còn cũng khổ, mất rồi càng khổ hơn. Ví dụ người tham danh muốn ra ứng cử
làm Nghị sĩ. Trước khi vận động ứng cử có lo không? Phải chạy ngược
chạy xuôi vận động cho người ta tin mình, lúc đó khổ rồi. Khi bầu cử
mình lọt sổ thì khổ. Nếu được phước mình đậu, lúc đó mình vui. Nhưng vui
được bao lâu? Nhiều lắm là bốn năm rồi cũng phải đổi. Lúc sửa soạn rớt
có buồn không? - Buồn. Đó là tạm nêu một ví dụ thường, ngoài ra bao
nhiêu chuyện khác nữa.
Lúc nào lòng tham cũng xúi giục con người được một đòi hai ba. Không khi
nào được đầy đủ mà chúng ta cảm thấy ngang đây thỏa mãn, cứ đua đòi
hoài. Bởi vậy Phật nói túi tham không đáy, đổ vô bao nhiêu cũng tuột
xuống hết. Đã tham thì không lúc nào bình an, vì cứ muốn thêm nên cứ lo
nghĩ. Vì vậy kinh Phật dạy: “Người ôm ấp lòng tham chẳng khác nào người
khát nước mà uống nước muối.” Khát nước mà uống nước muối thì chừng nào
đã khát? Nó không có ngày cùng. Nên biết tham là nhân của đau khổ.
Kế đến là nóng giận. Trong chúng ta có người nào không nóng giận? Không
ai dám thừa nhận. Nóng giận tốt hay xấu? Ai cũng biết nóng giận là xấu,
mà có chịu bỏ đâu. Người ta còn có những lý lẽ để bênh vực cho sự nóng
giận của mình. Ví dụ ai nói hay làm gì trái, mình nổi nóng la hét người
ta. Có người thấy vậy nói anh tu chút ít rồi, sao nóng quá vậy, mình
liền bào chữa chuyện này đáng giận lắm. Ít ai nói tôi lỡ nóng nên rất
hối hận, xin lỗi. Đa số bênh vực sự nóng giận của mình, không dám sám
hối, xin lỗi người khác. Không dám xin lỗi tức là chưa thừa nhận cái
nóng giận của mình là sai.
Là một con người tỉnh táo sáng suốt, khi nổi nóng lên chúng ta còn sáng
suốt không? Những lời trong lúc bình thường không bao giờ mình nói, lúc
đó nói. Những hành động trong lúc bình thường không bao giờ mình làm,
lúc đó làm. Cho nên nóng giận là một hiện tượng điên cuồng chớ không
phải sáng suốt. Điên cuồng ở gia đình thì gia đình khổ, điên cuồng ngoài
xã hội thì xã hội khổ. Khi nóng giận là nóng giận với người nào làm
trái ý mình. Mình cho điều đó đúng mà làm khác đi thì mình nổi nóng lên.
Nhưng quí vị kiểm lại những gì mình nghĩ đều là chân lý chưa? Đã chưa
phải chân lý mà bắt người khác phải theo, không theo liền nổi nóng, thật
vô lý! Phải chi lời nói, suy nghĩ đó là chân lý không bao giờ thay đổi,
người khác không nghe thì giận, cũng còn chấp nhận được. Đằng này nó có
thể thay đổi, mà bắt người ta phải nghe, không nghe nổi nóng lên. Như
vậy mình tốt hay xấu, hiền lành hay độc tài? Nếu trong gia đình ông độc
tài, bà độc tài thì sao? Chắc nhà đó nổi lửa hoài, không thể nào yên ổn
mát mẻ được. Cho nên nóng giận là một tai hại lớn cho bản thân, cho gia
đình, gây ảnh hưởng không tốt đến xã hội.
Chúng ta tu giảm bớt lòng tham, giảm bớt nóng giận, có lợi cho ai? Bản
thân mình có lợi lớn. Bởi vì bớt tham thì bớt khổ, bớt nóng giận thì
không có những cái nhìn độc tài. Nhờ thế gia đình và mọi người đều được
an vui, hòa thuận, láng giềng cũng vui theo. Đó là mới nói tham, sân.
Kế đến là si. Hiện giờ có ai dám cả gan chỉ mặt ông kia bà này, nói anh
hay chị si mê quá không? Không ai dám, vì nói như vậy chắc rằng quí vị
sẽ đón nhận những nắm tay cung vào mặt. Nhưng sự thật chúng ta có si mê
không? Như có một tờ giấy trắng đưa lên trước mọi người, có người nói
đây là giấy đen, quí vị nói người đó si mê, giấy trắng mà nói đen. Tất
cả chúng ta ai cũng phản đối người nói sai sự thật là kẻ ngu si.
Thế thì hiện tại chúng ta có thấy đúng sự thật chưa? Như ngày mùng một
Tết âm lịch, có người hàng xóm trang trọng lại thăm rồi chúc Tết cho
mình: “chúc ông bà hết năm nay chết”, lúc đó quí vị nghĩ sao? Chắc là
cung tay đánh đuổi ra khỏi nhà liền. Chúc như vậy cũng còn lương thiện
hơn ông Phật. Ông Phật nói mạng người chỉ trong hơi thở, thở khì ra
không hít lại là chết. Người nói sống một năm là dài mà mình còn nổi
giận. Phật nói chỉ thở ra không hít vào là chết, quí vị nghĩ sao? Có
buồn trách Phật không? Rõ ràng chúng ta không dám nhận ra lẽ thật. Lý
đáng nghe chúc anh chị cuối năm chết cười vui vẻ. Mình sẽ cảm ơn quí vị
chúc như vậy tôi mừng lắm, vì còn sống dai hơn Phật một chút. Đó là một
lẽ thật mà lâu nay không ai dám nhận.
Một chuyện nữa. Quí vị thường ngày ăn mặc tương đối tươm tất. Nhưng đi
ngang người nào nói chị hôi quá, lúc đó vui không? Chắc nổi tức lên.
Người ta ăn mặc như vậy mà chê hôi. Thật tình mình cũng biết mình hôi,
bởi hôi nên xức dầu thơm cho bớt hôi. Nếu không biết hôi, sắm những thứ
đó làm chi cho tốn tiền. Biết mình hôi mà người ta nói hôi không chịu,
có si mê không? Nói hôi là nhẹ lắm, Phật còn nói đãy da thúi nữa kìa,
mình có dám giận Phật không?
Chúng ta không dám nhận lẽ thật, như vậy có phải si mê không? Hôi mà
muốn người ta khen thơm, thở ra không hít vào là chết mà muốn người ta
chúc sống dai. Cho nên rồi con người sống lừa bịp nhau. Như vậy mới thấy
gốc si mê của con người rất sâu nặng mà họ không biết. Cứ sống với ảo
giác, ảo tưởng rồi gạt nhau mãi. Từ không hiểu lẽ thật chúng ta đâm ra
không vui, không bằng lòng những gì người ta nói trái với ảo tưởng của
mình. Người không dám nhận lẽ thật, gọi là si mê. Sao chúng ta lại si mê
như vậy? Bây giờ có ai nói chị si mê quá, mình chịu không? Nghe thế,
quí vị nên nói “phải, tôi còn mê lầm nhiều chuyện lắm”. Nói như vậy thì
gan biết mấy. Còn nghe người ta nói si mê, nổi giận lên muốn đánh người
ta, đó là càng thêm si mê.
Quí vị kiểm lại cuộc sống của chúng ta hiện giờ si mê nhiều ít? Tu theo
đạo Phật, đức Phật không cho si mê. Phật dạy phải tỉnh giác, không được
si mê. Nếu tỉnh giác chúng ta mới gỡ được si mê. Gỡ được si mê là thoát
mọi đau khổ. Con người vì si mê mà phải chịu đau khổ triền miên. Bây giờ
muốn hết si mê phải làm sao sáng suốt, nhìn đúng như thật tất cả những
sự vật chung quanh mình.
Trong kinh Phật dạy quán thân này nhơ nhớp bất tịnh. Tại sao phải quán
nhơ nhớp bất tịnh? Bởi vì ta tưởng mình đẹp quí, tưởng mình hơn thiên hạ
nên sanh tâm ngạo mạn, đắm mê theo hình dáng bên ngoài. Phật bắt chúng
ta phải nhìn sâu, nhìn thật kỹ bản thân mình ra sao. Thấy đúng như thật
rồi sẽ không còn ngã mạn nữa, ai chê hôi mình không giận. Thấy được lẽ
thật, tất nhiên những sai lầm không còn lôi kéo chúng ta được. Vì vậy
người tu nên quán thân bất tịnh để thấy đúng như thật từ con người mình
cho tới mọi vật bên ngoài. Muốn thấy như vậy chúng ta phải can đảm nhìn
thẳng, không nên dùng những tưởng tượng để che đậy. Khi si mê thì bao
nhiêu tội lỗi, sai lầm dồn tới. Nếu hết si mê thì hết sai lầm, hết sai
lầm thì hết tội lỗi.
Ví dụ biết thân là nhớp nhúa, quí vị có đòi hỏi trang sức cho đẹp, đòi
hỏi mọi thứ nhu cầu quan trọng cho nó không? Không đòi hỏi thì đơn giản,
nhẹ nhàng, khỏe khoắn. Còn người quá tưởng tượng thân mình đẹp quí nên
đòi hỏi đủ thứ, nào việc ăn mặc cho tới trang sức, đều muốn hơn người
ta. Rốt cuộc khi nhắm mắt thì sao? Lúc sống ai chê hôi nhớp giận người
ta, tới chừng nhắm mắt để trong phòng năm bảy ngày không chôn, thiên hạ
bịt mũi sao không giận đi? Nếu thật nó tốt đẹp, thì lúc sống thế nào,
chết cũng thế ấy. Chết rồi tồi tệ như vậy, cho nên chúng ta phải thấy
rõ bản chất của nó là bất tịnh.
Chúng ta thấy từng bước tu theo đạo Phật là từng bước vươn lên, tìm đến
chỗ an vui, cao cả, chớ không phải tầm thường. Càng tu càng vui, càng
thấy chung quanh mình đều là những người đáng thương, đáng giúp đỡ. Tại
sao? Vì họ si mê quá nên mình thương, muốn giúp đỡ. Đó là nảy sanh lòng
từ bi.
Trên đường tu Phật tử tiến lên từng bước, từ thọ Tam qui, giữ năm giới,
tới tu Thập thiện, đó là còn tu trong vòng luân hồi. Nhưng luân hồi
trong con đường tốt hơn, sung sướng hơn những người không biết tu. Nếu
quí vị muốn tốt hơn nữa, muốn vui đẹp hơn nữa thì phải làm sao? Bước qua
chặng này, hơi xa xôi một chút. Quí vị muốn được tốt hơn nữa, nếu tu
Tịnh độ thì phải niệm Phật nhất tâm. Nhất tâm rồi sẽ về Cực Lạc đẹp hơn
cõi trời, sống lâu hơn cõi trời, tất cả đều hơn.
Nhưng có những người muốn tiến lên mà không niệm Phật thì phải làm gì?
Phải tu thiền. Tu thiền mới nhìn có vẻ buồn hơn, về Cực Lạc cảnh đẹp
vui, cái gì cũng thích. Tu thiền phải dùng trí tuệ quán chiếu, thấy đúng
như thật. Tới được chỗ cứu kính là tới Niết-bàn. Niết-bàn là giải thoát
sanh tử. Đó là chỗ của người tu thiền tiến tới.
Nếu nói theo thiền Tổ sư thì người tu nhận và sống được Tự tánh mình gọi
là giác ngộ giải thoát. Nói giải thoát là ra khỏi vòng sanh tử trong
sáu đường. Ra khỏi đó gọi là vô sanh, là giải thoát, là Niết-bàn. Chúng
ta có thể làm được điều đó không? Có thể tu được giải thoát sanh tử
không? Điều này hơi khó. Quí vị biết gốc của sanh tử là gì không? Chúng
ta cứ ngỡ rằng sanh tử ở đâu đến, mình không biết đầu đuôi gốc ngọn của
nó. Nhưng sự thật Phật dạy rõ lắm.
Chúng ta bị sanh tử luân hồi tiếp nối do tâm hơn thua, phải quấy, tốt
xấu, thương ghét v.v… những tâm đó là mầm để đi trong luân hồi không
dứt. Như mình thương ai có muốn gặp lại không? Thương thì muốn gặp lại.
Mà ta thương nhiều người hay ít người? Ít nhất là cha mẹ, anh em, thân
bằng quyến thuộc… thương nhiều quá. Như vậy tất nhiên phải tìm gặp lại
nhau, đó là nhân của luân hồi. Ghét cũng là nhân đi trong luân hồi. Sao
ghét lại luân hồi? Cứ nhìn trong tâm, chúng ta sẽ thấy rõ. Khi ngồi yên
tĩnh, mình nhớ ai nhiều? Nhớ người thương mà cũng nhớ người ghét, chỉ có
người không thương không ghét thì không nhớ thôi. Còn thương, còn ghét
là còn nhớ. Nhớ tức đã ăn sâu trong tâm rồi, nên nhắm mắt những hình ảnh
ấy dẫn mình tìm gặp lại nhau.
Gốc luân hồi sanh tử từ tâm thương ghét mà ra, chớ không có gì lạ. Bây
giờ dẹp hết mấy tâm đó thì sao? Thì nhẹ nhàng. Bởi vậy đức Phật rất đầy
đủ phương tiện, muốn chúng sanh bớt khổ, Ngài diễn tả cảnh Cực Lạc tuyệt
vời, rốt cuộc bảo làm sao? Ráng niệm Phật đi. Niệm Phật chừng nào được
nhất tâm bất loạn từ một ngày đến bảy ngày, Phật rước về ở bên ấy sung
sướng lắm. Nhưng nhất tâm bất loạn thì còn mầm thương ghét không? Không
còn mầm thương ghét, lúc đó giả sử Phật quên rước, mình cũng giải thoát
sanh tử rồi. Điểm kỳ đặc trong đạo Phật là thế. Đức Phật khéo tùy trình
độ, tùy căn cơ mà giáo hóa chúng sanh, đưa họ cùng đến chỗ an vui vĩnh
viễn.
Người tu thiền phải tu thế nào, cửa vào thiền là cửa gì? Lâu nay chúng
ta nghe nói cửa thiền là cửa không. Quí vị tụng Bát-nhã nhớ Phật dạy,
chiếu kiến ngũ uẩn giai không, cho tới pháp Tứ đế, Mười hai nhân duyên
cũng không, không có Bồ-đề, Niết-bàn, không cả chứng đắc. Vậy không là
gì mà chúng ta phải lấy đó làm cửa bước vào? Lâu nay con người cứ cho
thân này thật, muôn sự muôn vật đều thật nên mê chấp khổ đau. Bây giờ
nhìn vào thân thấy nó do đất, nước, gió, lửa tụ hợp lại thành, không có
chủ thể riêng biệt. Cái nhà cũng thế, tự nó không có, phải tập hợp vật
liệu nào cát, xi măng, gỗ, đá… đủ thứ kết hợp lại mới thành cái nhà. Tất
cả pháp thế gian bản chất nó là không, đủ duyên hợp mới có. Do đủ duyên
hợp mới có, nên có là có trên giả tướng, chớ thật tánh nó vốn không. Vì
vậy Phật dạy chiếu kiến ngũ uẩn đều không. Nếu chiếu kiến ngũ uẩn đều
không thì qua hết các khổ nạn. Hết sức đơn giản. Tánh không duyên hợp
giả có, đã là giả thì còn mất là sự thường, không quan trọng. Như vậy
dùng Trí tuệ Bát-nhã quán chiếu, chúng ta bớt mê lầm nên bớt khổ rất
nhiều.
Nhìn bằng con mắt trí tuệ nên không còn chấp thân thật, cảnh thật, nhờ
thế tâm yên. Ngày nay chúng ta buồn thương giận ghét là do chấp thật,
khen thật nên được khen cười, chê thật nên bị chê quạu. Rõ ràng lời nói
không thật, qua rồi như gió qua tai kiếm lại không được. Vậy mà khen thì
chịu, chê lại giận buồn. Đó là chúng ta sống với ảo tưởng hư giả.
Ví dụ người mặt mày đen đúa xấu xí, chợt có ai khen chị đẹp quá, thật là
dễ thương, khi ấy người được khen dám tát tai kẻ khen không? Bản thân
xấu trăm phần trăm, mà nghe khen cũng vui mừng. Nếu người hơi dễ coi một
chút, gặp ai nói chị xấu quá, liền nổi giận đùng đùng, có thể tát tai
người chê. Như vậy người khen không đúng sự thật mình chịu, người chê
trái sự thật mình giận. Có phải chúng ta bị kẹt trong ảo tưởng không?
Các nhà tâm lý học dạy muốn được lòng người, khi bước vô nhà thấy cái
bàn cũng khen, cái bàn này đẹp quá, thấy cái tủ cũng khen, cái tủ này
quí quá… khen một hồi chủ nhà nở lỗ mũi nên họ ưa thích mình. Ngược lại,
bước vô nhà thấy cái gì cũng chê xấu xí, chắc chủ nhà không cho mình
uống nước. Rõ ràng con người bị lệ thuộc vào khen chê. Do lệ thuộc như
thế nên chúng ta sống trong ảo tưởng, không có lẽ thật thành ra khổ
hoài.
Phật chỉ cho chúng ta thấy lẽ thật. Mỗi sự vật không có tự thể, duyên
hợp tạm có. Biết nó giả nên không quyến luyến, cũng không bực bội. Từ
trí tuệ quán chiếu chúng ta không còn bị khổ lụy trong thương ghét thế
gian. Do đó tâm dễ an. Tâm an thì mầm sanh tử theo đó hết, vào Niết-bàn
vĩnh viễn an vui.
Phật dạy chúng ta tu là để đi tới hết tâm hơn thua, phải quấy, buồn
thương, giận ghét. Vì nó là mầm dẫn đi trong luân hồi sanh tử. Ai dẹp
được mấy tâm đó thì ra khỏi sanh tử. Như vậy gốc đức Phật dạy tất cả đều
từ tâm mình. Tu cốt làm sao tâm phải yên, phải lặng. Tâm lặng gọi là
định, là nhất tâm. Nhưng tâm lặng còn mình không? Mình ra sao? Đa số
chúng ta bị một mê lầm lớn, là bỏ quên cái chân thật, chạy theo cái giả
dối hoài. Cho nên kinh Pháp Hoa dụ chàng cùng tử có cha mẹ giàu sang lại
không chịu ở, bỏ đi lang thang khổ sở. Khổ đáo để chịu hết nổi quay đầu
trở về tìm cha mẹ. Khi tìm được rồi không dám nhận mình là con Trưởng
giả, chỉ xin làm kẻ làm thuê. Đức Phật diễn tả tâm trạng si mê của chúng
ta cũng thế, quên cái thật đuổi theo cái hư ảo, nên đau khổ vô cùng vô
tận.
Cái thật hiện giờ trong chúng ta có người nào thiếu đâu. Khi quí vị ngồi
chơi một cách bình tĩnh, trong đầu không có một ý niệm nào, lúc đó có
mình không? - Có. Khi khởi nghĩ chuyện này chuyện kia, lúc đó có mình
không? Chỗ này mới khó trả lời. Chúng ta thường tưởng lúc đó có mình
nhưng thật ra lúc đó lại mất mình.
Tất cả chúng ta đều có lầm lẫn lớn, cứ cho cái suy nghĩ là mình. Suy
nghĩ hay dở, tốt xấu gì cũng mình hết. Nếu cái nghĩ đó là mình thì khi
hết nghĩ mình cũng hết sao? Không phải vậy. Lúc ngồi lặng lẽ tỉnh táo
không suy nghĩ gì hết, mình vẫn hiện tiền, vẫn thấy, vẫn nghe, vẫn biết.
Cái đang thấy, đang nghe, đang biết đó là mình, còn cái suy nghĩ lung
tung kia không phải mình. Nhưng chúng ta cứ nhận cái hư dối là mình,
trăm người như một. Có phải mê quá không?
Chúng ta nhận những ý niệm hơn thua phải quấy tốt xấu là tâm mình, nên
Tâm chân thật bị ẩn khuất. Bây giờ ta buông bỏ hơn thua, phải quấy thì
Tâm chân thật hiện ra. Niệm hơn thua, phải quấy là tướng sanh diệt tạm
bợ, nhìn lại nó mất mà chấp là tâm mình. Nói chuyện với ai, làm gì cũng
nói tâm tôi thế đó, cứ lầm chấp như vậy. Cho nên Phật bảo chúng ta mê
muội, đáng thương!
Bây giờ tu là gì? Là đừng lệ thuộc cái hư dối nữa, sống lại với cái chân
thật. Trở lại cái chân thật thì hết tạo nghiệp, hết luân hồi. Cái chân
thật không hình tướng, làm sao có sanh diệt. Còn tâm lăng xăng là gốc
sanh diệt, đang mừng liền buồn, đang thương thành ghét. Cái hằng thấy,
hằng biết không buồn thương giận ghét nên không khổ.
Chúng ta tu để đi đến chỗ cứu kính chân thật. Cứu kính chân thật từ bên
ngoài đến hay trong nhà ra? Kinh Bát-nhã nói: “Vì không có chỗ được nên
Bồ-tát xa rời khủng bố, điên đảo chứng Niết-bàn. Chư Phật cũng nương
Bát-nhã đó mà được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.” Như vậy bỏ hết tất
cả cái được, không có sở đắc, sẽ được Niết-bàn. Quí vị thấy mâu thuẫn
không? Nếu không có cái gì được, làm sao được nữa. Nhưng thật ra chúng
ta quen thói làm gì cũng muốn được. Tu phải đắc phải chứng, thành ra
chẳng được gì cả.
Như chúng ta đi thấy món đồ đẹp rơi dưới đất, lượm bỏ vô túi, nói tôi
lượm được món đồ quí. Được món đồ quí vì nó ở ngoài mình. Nếu món đồ quí
trong túi mà ta quên, lâu lâu sờ gặp thì không nói được, mà nói nó sẵn
đây nè. Chư Phật thấy rõ chúng ta sẵn có cái chân thật mà quên, chạy
theo những cái bên ngoài. Bây giờ bỏ hết tất cả cái được ở ngoài, chừng
đó chúng ta mới nhận lại cái chân thật của chính mình. Việc tu siêu
thoát như vậy chớ không phải thường.
Lục tổ Huệ Năng khi bị các đệ tử của Ngũ Tổ đuổi theo giành y bát lại,
Ngài để nó trên tảng đá, rồi chui vào lùm cây. Đến khi Thượng tọa Minh
chạy tới lấy lên không nổi, mới gọi Ngài: “Hành giả, hành giả! Tôi đến
đây vì pháp chớ không phải vì y bát.” Lục Tổ từ trong bụi chui ra thong
thả bảo: “Nếu ông vì pháp thì đứng yên lặng ta sẽ nói cho nghe.” Thượng
tọa Minh đứng yên lặng, Ngài nói: “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái
gì là Bản lai diện mục của Thượng tọa Minh?” Ngay câu này Thượng tọa
Minh liền ngộ. Nghĩ thiện nghĩ ác là hai bên, tâm không còn hai bên thì
cái chân thật hiện ra, đơn giản thật là đơn giản.
Bài pháp này thấy không có gì xa lạ với chúng ta. Rất tiếc tại mình quá
mê, không bỏ được cái giả nên đành chôn vùi cái thật. Chúng ta tu từ
những bước thấp cho tới bước tuyệt đỉnh, đó là việc làm thực tế hay viển
vông? - Quá thực tế. Tu thấp thì có lợi ích thấp, tu cao có lợi ích
cao, tuyệt cao thì có lợi ích tuyệt cao. Chúng ta tu để trở về cái chân
thật có sẵn của mình, chớ đâu phải chuyện ở trên trời trên mây. Trở về
được là người giác ngộ, hết mê. Như vậy trên đường tu chúng ta bước được
bước nào cũng đều hữu ích, đều có lợi lạc, càng cao thì lợi lạc càng
lớn, càng sâu dày.
Chúng ta có duyên gặp được Phật pháp tu hành, đó là phước lớn nhiều đời
chớ không phải chuyện thường. Người nào biết được đạo lý này, hiểu được
giá trị của sự tu thì chắc rằng không ai không cố gắng. Việc tu hành
không ở đâu xa, không có gì huyền hoặc cả, mà rất cụ thể, chân thật. Nếu
chúng ta chịu khó phăng tìm, sẽ bươi ra được hòn ngọc quí của mình.
Mong tất cả quí vị can đảm, cái gì si mê hư giả thì loại ra, đừng nuôi
dưỡng. Phải cố gắng trở về được cái chân thật của chính mình, để khỏi
uổng đi một đời tu. Đó là mục đích của đức Phật ra đời, cũng là mục tiêu
tất cả chúng ta nhắm tới.