Vốn
liếng ít ỏi mà chúng ta có sẽ bị tiêu đi mất, và nếu ta không tích tập
công đức nào mới thì giống như ta tiêu hết tiền để dành mà không có
tiền mới gửi vào. Nếu chúng ta chỉ làm cạn kiệt sự tích lũy công đức
của mình thì sớm muộn gì chúng ta sẽ bị đắm chìm vào một đời sau còn
đau khổ ghê gớm hơn nữa.
Người ta nói rằng nếu không có một sự tỉnh giác đúng đắn về cái chết
thì chúng ta sẽ chết trong sự áp chế của sợ hãi và hối tiếc. Mối xúc
cảm đó có thể đưa chúng ta đi vào các cõi thấp. Nhiều người tránh đề
cập tới cái chết. Họ tránh né nghĩ tới điều tồi tệ nhất, vì vậy khi nó
thực sự xảy tới họ bị bất ngờ và hoàn toàn không sẵn sàng. Sự thực hành
Phật giáo khuyên chúng ta đừng nên không biết tới các bất hạnh và phải
hiểu biết và đối mặt với chúng, chuẩn bị cho chúng ngay từ lúc bắt
đầu. Nhờ đó, khi chúng ta thực sự kinh nghiệm nỗi đau khổ thì nó không
phải là cái gì hoàn toàn không chịu đựng được.
Chỉ né tránh một vấn đề sẽ không giúp giải quyết nó mà thực ra có thể
làm vấn đề tệ hại hơn. Một số người nhận xét rằng thực hành Phật giáo
dường như nhấn mạnh tới sự đau khổ và tính chất bi quan. Tôi cho rằng
điều này thật sai lầm. Thực hành Phật giáo thực sự cố gắng để chúng ta
có được một sự an lạc vĩnh cửu – là điều không thể suy lường nổi đối
với một tâm trí bình thường - và tiệt trừ những đau khổ một lần cho
mãi mãi. Các Phật tử không hài lòng với sự thành đạt chỉ duy trong đời
này hay triển vọng của sự thành đạt trong những đời sau, mà thay vào
đó, họ tìm kiếm một hạnh phúc tối hậu. Vì đau khổ là một thực tại do đó
quan điểm căn bản của Phật giáo cho rằng sẽ không giải quyết được vấn
đề nếu ta chỉ tránh né nó qua quýt. Điều nên làm là đối mặt với đau
khổ, nhìn vào nó và phân tích, khảo sát nó, xác định các nguyên nhân
của nó và tìm ra phương cách tốt nhất để có thể đối phó với nó.
Những người né tránh nghĩ tới điều bất hạnh thực ra lại bị nó tấn công,
họ không được chuẩn bị và sẽ đau khổ hơn những người bản thân họ đã
làm quen với những đau khổ, nguồn gốc của chúng và cách chúng phát
khởi.
Một hành giả của Pháp nghĩ tưởng mỗi ngày về cái chết,
quán chiếu về những nỗi khổ của con người, nỗi khổ của lúc sinh ra, nỗi
khổ của sự già đi, nỗi khổ của bệnh tật, và nỗi khổ của sự chết. Mỗi
ngày, các hành giả Mật thừa trải nghiệm quá trình sự chết trong sự quán
tưởng. Điều ấy giống như trải qua cái chết về mặt tâm thức mỗi ngày
một lần. Vì quen thuộc với nó, họ hoàn toàn sẵn sàng khi thực sự gặp gỡ
cái chết. Nếu bạn phải đi qua một vùng rất nguy hiểm và ghê sợ, bạn
nên tìm hiểu về những sự nguy hiểm và cách xử sự với chúng trước đó.
Không tiên liệu về chúng là ngu dại. Dù có thích hay không bạn cũng
phải đi tới đó, vì thế tốt nhất là chuẩn bị sẵn sàng để biết cách xử sự
khi những khó khăn xuất hiện. Nếu bạn có một sự tỉnh thức hoàn hảo về
sự chết thì bạn sẽ cảm thấy chắc chắn rằng bạn sắp chết một ngày gần
đây.
Như vậy nếu khám phá ra rằng mình sắp chết trong ngày hôm
nay hay ngày mai, nhờ sự thực hành tâm linh, bạn sẽ nỗ lực tự tháo gỡ
mình ra khỏi các đối tượng trói buộc bằng cách vất bỏ những thứ sở hữu
và coi mọi sự thành công thế tục như không có bất kỳ bản chất hay ý
nghĩa nào.
Lợi lạc của sự tỉnh thức về cái chết là nó làm cho
cuộc đời có ý nghĩa và nhờ cảm thấy hoan hỉ khi giờ chết tới gần, bạn
sẽ chết không chút hối tiếc. Khi bạn quán chiếu về sự chắc chắn của cái
chết nói chung và sự bất định của giờ chết, bạn sẽ làm mọi nỗ lực để
tự chuẩn bị cho tương lai. Bạn sẽ nhận ra rằng sự thành đạt và những
hoạt động của đời này không có bản chất và không quan trọng. Như vậy,
sự làm việc cho lợi lạc lâu dài của bản thân bạn và những người khác sẽ
có vẻ quan trọng nhiều hơn nữa, và cuộc đời bạn sẽ được dẫn dắt bởi
nhận thức đó. Như Đức Milarepa đã nói, bởi chẳng sớm thì muộn bạn phải
bỏ lại mọi sự sau lưng, thì tại sao không từ bỏ nó ngay bây giờ?
Mặc dù mọi nỗ lực của chúng ta, kể cả việc dùng thuốc men hay việc cử
hành những lễ trường thọ, không ai có thể hứa hẹn sẽ sống quá một trăm
năm. Có một vài trường hợp ngoại lệ, nhưng sau sáu mươi hay bảy mươi
năm nữa, hầu hết những người đọc quyển sách này sẽ không còn sống. Sau
một trăm năm, người ta sẽ nghĩ về thời đại chúng ta chỉ như một phần
của lịch sử. Khi cái chết đến, điều duy nhất có thể giúp ích là lòng bi
mẫn và sự thấu suốt về bản tánh của thực tại mà người ta đã đạt tới.
Về lãnh vực này, khảo sát xem có một đời sống sau khi chết hay không là
điều hết sức quan trọng.
Những đời quá khứ và tương lai hiện hữu vì những lý lẽ sau đây.
Những kiểu suy nghĩ nào đó từ năm ngoái, từ năm trước nữa, và ngay cả
từ thời thơ ấu có thể được nhớ lại vào lúc này. Điều này chỉ rõ cho ta
thấy là một cái biết đã hiện hữu trước cái biết hiện tại. Khoảnh khắc ý
thức đầu tiên trong đời này không được sinh khởi mà không có một
nguyên nhân, cũng không được sinh ra từ cái gì thường hằng hay vô tri.
Một khoảnh khắc của tâm là cái gì trong sáng và thấu biết. Bởi thế cái
có trước nó phải là cái gì đó trong sáng và thấu biết, là khoảnh khắc
trước của tâm (tiền niệm). Chỉ có thể tin được rằng khoảnh khắc đầu
tiên của tâm trong đời này đến từ không cái gì khác hơn là một đời
trước.
Mặc dù thân xác vật lý có thể hành xử như một nguyên
nhân thứ yếu của những biến đổi vi tế trong tâm, nhưng nó không thể là
nguyên nhân chính yếu. Vật chất không bao giờ chuyển hóa thành tâm
thức, và tâm thức không thể chuyển hóa thành vật chất. Vì thế, tâm thức
phải đến từ tâm thức. Tâm thức của cuộc đời hiện tại này đến từ tâm
thức của đời trước và là nguyên nhân của tâm thức trong đời sau. Khi
bạn quán chiếu về sự chết và thường xuyên tỉnh thức về nó, đời bạn sẽ
trở nên có ý nghĩa. Nhận ra những bất lợi to lớn của việc bám chấp có
tính cách bản năng của chúng ta vào sự thường hằng, ta phải chống trả
lại nó và tỉnh thức miên mật trước cái chết để ta sẽ được thúc đẩy thực
hành Pháp nghiêm cẩn hơn nữa. Ngài Tsong-kha-pa nói rằng tầm quan
trọng của sự tỉnh thức về cái chết không chỉ hạn chế ở giai đoạn bắt
đầu.
Nó quan trọng suốt mọi giai đoạn của con đường; nó quan
trọng ở lúc bắt đầu, ở giai đoạn giữa và cả ở giai đoạn cuối. Sự tỉnh
thức về cái chết mà chúng ta phải nuôi dưỡng không phải là nỗi sợ hãi
thông thường, bất lực về việc phải chia ly với những người thân và tài
sản của chúng ta. Đúng đắn hơn, chúng ta phải học sợ hãi rằng ta sẽ
chết mà chưa chấm dứt được các nguyên nhân của sự tái sinh trong các
cõi thấp của luân hồi và sẽ chết mà không tích tập những nguyên nhân và
điều kiện cần thiết cho sự tái sinh thuận lợi trong tương lai. Nếu
chúng ta chưa hoàn thành được hai mục đích này, thì vào lúc chết, chúng
ta sẽ bị áp chế bởi nỗi sợ hãi và ân hận ghê gớm.
Nếu chúng
ta tiêu phí toàn bộ đời mình để miệt mài trong những hành động xấu xa
phát sinh từ sự oán ghét và ham muốn, thì chúng ta gây nên tai họa không
chỉ nhất thời mà còn dài lâu. Đó là bởi ta tích lũy và tàng trữ một
khối lượng khổng lồ những nguyên nhân và điều kiện (duyên) cho sự đọa
lạc của chính chúng ta trong những đời sau. Nỗi sợ hãi về điều đó sẽ
kích động chúng ta để biến mỗi ngày trong cuộc đời mình thành cái gì có
ý nghĩa. Khi đã có sự thức tỉnh về cái chết, chúng ta sẽ thấy được sự
thành công và mọi sự của cuộc đời này thì không quan trọng, và sẽ làm
việc cho một tương lai tốt đẹp hơn. Đó là mục đích của sự thiền định về
cái chết. Giờ đây, nếu chúng ta sợ hãi cái chết, chúng ta sẽ nỗ lực
tìm kiếm một phương pháp chiến thắng nỗi sợ hãi và hối tiếc của mình khi
chết.
Còn ngay bây giờ, nếu ta cứ tránh né nỗi sợ chết thì
khi chết, chúng ta sẽ bị trói chặt bởi nỗi ân hận. Ngài Tsong-kha-pa
nói rằng khi sự tham thiền của chúng ta về lẽ vô thường trở nên hết sức
vững chắc và kiên cố thì mọi sự chúng ta gặp gỡ đều sẽ dạy chúng ta về
sự vô thường. Ngài nói rằng tiến trình đi đến cái chết bắt đầu ngay từ
khi thụ thai, và khi còn sống, cuộc đời chúng ta thường xuyên bị hành
hạ bởi bệnh tật và sự già yếu. Khi còn khoẻ mạnh và tràn đầy sức sống,
chúng ta không nên bị lừa phỉnh khi nghĩ rằng mình sẽ không chết.
Chúng ta không nên vui thú trong sự quên lãng khi chúng ta còn khoẻ;
cách tốt nhất là chuẩn bị cho số phận tương lai của ta. Ví dụ như người
đang rơi từ một dốc đá thật cao sẽ không sung sướng gì trước khi họ
chạm đất. Ngay cả khi chúng ta còn sống, có rất ít thời gian cho sự
thực hành Pháp. Dù cho chúng ta quả quyết là mình có thể trường thọ, có
lẽ một trăm năm, nhưng ta đừng bao giờ nhượng bộ cái cảm tưởng là ta
sẽ có thời gian để thực hành Pháp sau này. Chúng ta không nên bị chi
phối bởi sự lần lữa, nó là một hình thức của tính lười biếng.
Một nửa đời người bị tiêu mất trong việc ngủ, và phần lớn thời gian còn
lại chúng ta bị phóng tâm bởi những hoạt động thế gian. Khi ta già đi,
sức mạnh thể chất và tinh thần giảm sút, và mặc dù chúng ta có thể mong
muốn thực hành, nhưng đã quá muộn bởi chúng ta sẽ không có năng lực để
thực hành Pháp. Đúng như một bản Kinh nói, nửa đời người tiêu phí
trong giấc ngủ, mất mười năm khi ta còn nhỏ và hai mươi năm khi ta già,
và thời gian ở khoảng giữa thì bị dày vò bởi những lo lắng, buồn
phiền, đau khổ và thất vọng, vì thế khó có thời gian nào để cho sự thực
hành Pháp.
Nếu ta sống một cuộc đời sáu mươi năm và suy nghĩ
về tất cả thời gian ta trải qua khi còn bé, tất cả thời gian dùng để
ngủ, và thời gian khi ta quá già, thì ta sẽ nhận ra rằng chỉ còn khoảng
năm năm để ta có thể hiến mình cho sự thực hành nghiêm cẩn Phật Pháp.
Nếu chúng ta không dùng một nỗ lực cẩn trọng để thực hành Giáo Pháp, mà
cứ sống như ta sống đời thường, thì chắc chắn là ta tiêu phí đời mình
trong sự lười nhác không mục đích. Gung-thang Rinpoche nói, có phần
diễu cợt: “Tôi mất hai mươi năm không nghĩ gì về việc thực hành Pháp,
và sau đó mất hai mươi năm nữa để nghĩ về việc sẽ thực hành sau này, và
rồi mất mười năm nghĩ về việc đã bỏ lỡ cơ may thực hành Pháp như thế
nào".
Trích bài viết của Đạt Lai Lạt Ma về cái chết theo quan điểm Phật giáo