Midas
là một vị vua xứ Lydia. Nhờ phục vụ cho thần Dionysus, ông được thần
ban cho bất cứ điều gì ông muốn. Mặc dù rất giàu có, lòng tham của ông
vẫn không thỏa mãn, ông xin thần ban cho khả năng biến bất cứ vật gì ông
chạm đến đều trở thành vàng, và Midas vui sướng biến mọi thứ thành
vàng...
Rồi đến bữa ăn tối. Ông gắp một miếng thức ăn, thức ăn biến thành
vàng. Ông nhắp một hớp rượu, hớp rượu biến thành vàng. Ông nựng người
con gái, người con biến thành một tượng vàng... Quá thất vọng, Midas xin
Dionysus cho ông được giải lời nguyền và trở lại với cuộc sống bình
thường.
So với xã hội Hy Lạp ngày xưa, câu chuyện đơn giản nhưng sâu sắc đó
còn thích hợp hơn trong thế giới ngày nay. Thế giới chúng ta đang sống
là thế giới hướng về tiền. Trong thế giới này, Midas được cả xã hội chấp
nhận. Và sự thật, trong mỗi chúng ta đều có ít nhiều Midas. Sống trong
một thế giới mà khả năng biến đổi liên tục là tính chất nổi bật, chúng
ta đã nhận chìm những cảm quan, làm tê liệt khả năng thưởng thức cuộc
sống của chúng ta, tập trung vào những con số lên xuống trong tài khoản
ngân hàng. Thay vì đánh giá phẩm chất mùi vị của một ly rượu vang, chúng
ta chú trọng hơn đến giá tiền của nó và tìm cách chứng tỏ rằng chúng ta
là một người uống rượu cầu kỳ. Vì sống trong một xã hội coi những con
số ma lực kia là quan trọng nhất, hầu hết chúng ta lo lắng cho việc có
đủ tiền, và cho rằng sự lo lắng đó là điều thích đáng. Nhưng thế nào là
đủ, và đến khi nào thì việc hoạch định tài chánh và sự mưu cầu chân thật
về hạnh phúc gặp nhau? Tập trung vào một thứ trừu tượng không có giá
trị tự thân, chúng ta coi thường đời sống cụ thể, coi thường sự xúc chạm
trực tiếp của chúng ta với thế gian. Chúng ta không còn biết giá trị
chân thật của sự vật và ý nghĩa của cái không.
Phật giáo có thể giúp chúng ta hiểu vì sao chiếc bẫy đó lại quá quyến rũ đối với chúng ta.
Ngày nay, tiền có ít nhất bốn chức năng trong việc phục vụ con người. Dù tốt hay xấu, nó là một phương tiện trao đổi
không thể thiếu trong xã hội hiện tại. Điều này làm cho tiền trở nên có
giá trị hơn bất cứ thứ gì khác vì nó có thể tạo ra hầu hết những thứ
khác. Và vì cách xã hội đồng thuận trong việc định nghĩa thế nào là giá
trị, tiền trở thành biểu tượng của giá trị thuần túy.
Là một phương tiện trao đổi, tiền trở thành kho chứa giá trị.
Đó là chức năng thứ hai của tiền. Nhiều thế kỷ trước, khi tiền chưa được
sử dụng rộng rãi, sự giàu có của một người được đánh giá trên số lượng
trâu bò, lúa thóc, người làm và con cái. Ưu thế của vàng và bạc - và
ngày nay là tài khoản ngân hàng - là không bị hư hại, ít nhất là trên
nguyên lý, và không bị hủy hoại do chuột, mối, lửa… Đặc biệt với vàng,
con người say mê nó vì dưới mắt họ, vàng không bị xỉn rỉ và không bị hủy
hoại. Và điều này thật sự hấp dẫn đối với một thế giới luôn bị ám ảnh
bởi tính chất vô thường và biến hoại.
Chủ nghĩa tư bản còn đem đến cho tiền một chức năng thứ ba. Đó là thứ
mà chúng ta được hưởng ngày nay, nhưng đối với nhiều người trong quá
khứ thì không đáng tin cậy. Chủ nghĩa tư bản đặt nền tảng trên tư bản,
là tiền được sử dụng để tạo ra nhiều tiền hơn. Đầu tư số tiền
thặng dư và nhìn nó tăng trưởng. Điều đó khuyến khích sự năng động và
tăng trưởng của kinh tế. Nó đã dẫn đường cho nhiều phát triển hữu ích.
Nhưng đồng thời nó cũng đem đến sự tiêu cực khi chúng ta tiếp tục tái
đầu tư bất cứ thứ gì chúng ta có được, cho rằng chúng ta không bao giờ
có quá nhiều. Tư bản luôn luôn được dùng để tích lũy thêm tư bản. Và
điều này có khuynh hướng làm cho chúng ta không bao giờ thấy đu.
Cách tiếp cận với tiền này rõ ràng tương phản với những xã hội ngày xưa,
trong đó tài sản thường được phân phối lại khi đạt đến một mức độ chênh
lệch nào đó. Những xã hội đó dường như nhạy cảm hơn về mối tương quan
xã hội, cố gắng tránh sự đổ vỡ mối tương quan xã hội do sự chênh lệch
tài sản gây ra.
Một điểm đáng chú ý về sự đầu tư trong nền kinh tế tư bản là nợ. Nền
kinh tế tư bản là một nền kinh tế vận hành trên nợ, đòi hỏi một xã hội
yên tâm với sự mắc nợ. Nợ ít nhất lớn hơn tiền vay ban đầu một chút:
Những người đầu tư kỳ vọng lấy lại được nhiều hơn tiền đầu tư ban đầu.
Khi mà toàn bộ nền kinh tế vận hành theo cách đó, kết quả xã hội là một
sự thúc ép toàn diện cho sự phát triển liên tục, vì đó là con đường duy
nhất để trả những món nợ chồng chất. Dưới sức ép liên tục cho sự phát
triển đó, con người đã không đoái hoài đến những hậu quả khác về xã hội
và môi sinh. Điều xã hội hướng đến là sự kỳ vọng về tương lai: hiện tại
không bao giờ đủ nhưng tương lai sẽ (hoặc phải) khá hơn.
Vì sao chúng ta rơi vào tình trạng đó? Với giáo lý vô ngã (anatta),
Phật giáo cho chúng ta một tầm nhìn đặc biệt về khổ (dukkha), trong đó
bao hàm sự vướng mắc vào tiền. Khổ không chỉ là một ngày nào đó chúng ta
sẽ bệnh, già và chết. Không có cái ngã (vô ngã) cũng có nghĩa là ngay
lúc này đây, chúng ta đang cảm nhận điều gì đó không ổn nơi chính mình.
Chúng ta cảm thấy một lỗ hổng ngay trong nền tảng hiện hữu của chúng ta,
một cảm giác về sự thiếu hụt, không trọn vẹn. Và để phản ứng lại cảm
giác đó, chúng ta lao vào sự bận rộn với những dự án, nghĩ rằng chúng sẽ
giúp chúng ta cảm thấy mình là “thật” hơn. Thiên Chúa giáo cũng đã tìm
cách giải thích và đưa ra giải pháp tôn giáo cho cảm giác hụt hẫng này,
nhưng nhiều người trong chúng ta không còn tin vào tội nguyên thủy nữa.
Vậy có cái gì không ổn nơi chúng ta? Trong những xã hội phát triển hay
“kinh tế hóa” ngày nay, giải thích phổ biến nhất là chúng ta không có đủ
tiền. Đó là “tội nguyên thủy” đương đại của con người.
Đến đây, chúng ta thấy ngoài những chức năng như là một phương tiện
trao đổi, nơi tích lũy giá trị, và tư bản để đầu tư, tiền còn một chức
năng nữa: Tiền trở thành biểu tượng của thực tại. Ngày nay tiền
được phần đông tin là một phương tiện nhận diện tốt nhất để cảm nhận về
chính mình, để chống lại cảm giác dày vò rằng con người thật sự không
hiện hữu. Hoài nghi về sự hiện hữu thật sự của ngã, con người đã tìm đến
tôn giáo để thiết lập nền tảng cho ngã bằng sự kết nối với Thượng đế
hay thần linh. Ngày nay, chúng ta đầu tư vào “chứng khoán” và “tín dụng”
để tạo nền tảng cho chúng ta trong kinh tế. Những tổ chức tài chánh trở
thành những điện thờ cho chúng ta.
Và càng được coi trọng, tiền càng được sử dụng để định giá trị con
người chúng ta. Tiền đi sâu vào đời sống, và cái biểu tượng do chúng ta
tạo ra đó trở lại điều động chúng ta hầu như về mọi mặt. Có người cho
rằng xã hội ngày nay của chúng ta quá thiên về vật chất, nhưng thật sự
phải nói rằng chúng ta không thiên đủ về vật chất. Gắn bó quá
chặt với biểu tượng, chúng ta đã xem nhẹ đời sống. Chúng ta say mê sức
mạnh và giá trị của tiền hơn là những thứ mà tiền mua được. Chúng ta say
mê sở hữu một chiếc Mercedes-Benz để nói về cái tôi hơn là sự tiện nghi
và sức mạnh của chiếc xe. “Tôi là hạng người lái xe Mercedes/ sở hữu
căn nhà ở Maui / và có chứng khoán giá trị triệu đô…”.
Tất cả điều này không ra ngoài câu châm ngôn cổ xưa “không dây tự
trói” của thiền. Chúng ta bị tù hãm bởi cách chúng ta suy nghĩ về tiền.
Dưới cái nhìn của Phật giáo, vấn đề thật sự của chúng ta chính là ở
nơi chúng ta, ở cách chúng ta cố gắng để xác định mình. Chúng ta tìm
cách xác định mình bằng những thứ ở bên ngoài, những thứ không bao giờ
có thể ban cho chúng ta cảm nhận về thực tại mà chúng ta mong muốn để
lấp vào cảm giác “rỗng không”. Chúng ta cố gắng để có được một trương
mục ngân hàng có nhiều tiền và mọi thứ mà xã hội dạy cho chúng ta rằng
sẽ làm cho chúng ta hạnh phúc, để rồi cuối cùng chúng ta không hiểu vì
sao chúng ta vẫn không tìm thấy hạnh phúc, không hiểu vì sao những thứ
đó không giải quyết được cảm giác thiếu thốn nơi chúng ta.
Chúng ta có thể hiểu về tiền bằng một ẩn dụ Phật giáo. Đó là tánh không,
“sự rỗng không” trong bản chất của mọi hiện tượng. Đó là một cách diễn
tả về tính chất tương quan giữa sự vật, không có thứ gì hiện hữu một
cách độc lập. Mỗi sự vật đều là một phần của tất cả những sự vật khác.
Nhưng dù bản chất là rỗng không, trong xã hội ngày nay, tiền vẫn là
một thứ không thể thiếu. Vấn đề chỉ xảy ra khi chúng ta nắm con rắn ở
phần đuôi. Nói như Bát Nhã Tâm Kinh, mọi sắc tướng đều rỗng
không, nhưng không có tánh không tách rời ngoài sắc tướng. Sự bận tâm về
tiền của chúng ta là chỉ bám vào một thứ không có ý nghĩa thật sự từ
chính nó, chúng ta bám vào một thứ hoàn toàn nằm ngoài sắc tướng mà
chúng ta càng ngày càng mất đi khả năng đánh giá một cách như thật.
Có thể nói một cách khác rằng tiền không phải là sự vật nhưng là một
tiến trình. Chúng ta có thể hiểu nó như một thứ năng lượng không thật sự
là của tôi hay của anh. Nếu chúng ta hiểu được rằng tiền chỉ là một
biểu tượng rỗng không được xã hội tạo dựng nên, chúng ta có thể sử dụng
nó với trí tuệ và từ bi để có thể làm giảm sự đau khổ của thế
gian. (Từ Money, Sex, War, Karma)
David R. Loy - Thị Giới lược dịch (GNO)