1. Một thí dụ
Giả dụ tôi đang đi trên đường, thấy người kia rớt cái bóp, tôi
lượm lên.
- Nếu ý định, động cơ của tôi là
trả lại cái bóp, tôi cúi xuống nhặt cái bóp mà không lo sợ gì cả, lại
còn thấy vui vui. Nhưng thình lình người ấy quay lại, cho là tôi định
lấy cái bóp hay tôi đã móc túi, người ấy la mắng tôi, tát tai tôi. Tôi
có đau, có gặp phiền phức, nhưng không khổ. Cuối cùng thì cái bóp ấy
cũng được trả về chủ nhân của nó.
Ý định, động cơ là thiện. Dù có khó
khăn, trắc trở trong khi thực hành ý định, động cơ ấy, nhưng ý định vẫn
thành, có kết quả tốt. Tôi có bị hiểu lầm, bị đau nhưng tôi vui vì việc
thiện đã hoàn thành.
- Nếu ý định, động cơ của tôi là muốn lấy luôn cái bóp, tôi vừa làm vừa
lo sợ, khổ sở bắt đầu ngay với hành động này. Người đó quay lại và la
mắng, tát tai tôi. Cái bóp vẫn được trả về với người sở hữu nó, nhưng
việc bị la mắng, bị tát tai gây cho tôi khổ vì tôi không có một cái gì
để nương dựa, chống đỡ cho sự nhục nhã, đau đớn của mình. Ý định, động
cơ là bất thiện, kết quả là khổ đau từ tâm đến thân.
Trường hợp trên là một cái tôi làm thiện, làm đúng thì dẫu có bị va chạm
nặng nề cũng không sao. Trường hợp này là một cái tôi làm điều bất
thiện, điều không đúng thì cũng cùng một sự va chạm ấy làm nó tổn thương
và khổ đau nặng nề. Một cái tôi làm thiện làm đúng thì mạnh mẽ hơn, khó
vỡ hơn một cái tôi làm điều bất thiện điều không đúng.
- Nếu tôi có ý định, có động cơ là muốn lấy luôn cái bóp, khi làm tôi lo
sợ, nhưng rồi tôi thành công, người ấy không biết gì cả. Tôi lấy số
tiền trong bóp, khoảng nửa tháng lương, mua cho gia đình một bữa ăn
ngon, cho con một món đồ chơi. Khi ăn ngon, khi thấy con vui vẻ với món
đồ chơi, tôi chợt thấy khó chịu. Biết đâu số tiền ấy người kia dùng cho
việc chữa bệnh cho người thân đang nằm bệnh viện? Ít nhất, con của người
ấy mất một món đồ chơi. Đồ chơi con tôi đang chơi phải là của con người
kia. Tôi đã kéo cả gia đình mình vào một điều bất thiện, không đúng. Từ
một động cơ ý định bất thiện đã dẫn đến một kết quả không đúng, không
hợp lý. Sự ‘không phải’ này làm tôi khó chịu, phiền não.
- Nếu ý định, động cơ của tôi là trả lại cái bóp, công việc suôn sẻ,
người ấy vui mừng cám ơn và tôi cũng hạnh phúc. Đây là một ý định thiện,
kết quả là cái thiện ấy được thành tựu và kèm với nó là cái đúng, cái
hợp lý, cái phải là như vậy, nhờ thế mà cái thiện ấy càng rộng lớn thêm.
Tôi vui vẻ vì được hưởng thụ thành quả của cái thiện, cái đúng và cả
cái đẹp nữa (hành động đẹp).
Chúng ta có thể nhớ lại, suy nghĩ lại
về tất cả những hành động trong đời mình để nhận thấy sự thật này: một
hành động bắt đầu bằng động cơ, ý định thiện, thực hiện một cách thiện
và kết quả là cái thiện được thành tựu thì đó là hạnh phúc cho mình và
cho người. Hơn thế nữa, cái thiện, cái tốt còn đi liền với cái đúng và
cái đẹp. Kết quả là hạnh phúc càng lớn rộng hơn, sâu sắc hơn vì chúng ta
đã hưởng thụ được một hành động Chân Thiện Mỹ.
Ngược lại, một hành động xấu ác, từ ý định cho đến lúc thực hiện được sẽ
đưa đến kết quả là khó chịu, phiền não khổ đau. Chúng ta khổ đau vì
chúng ta đã xâm phạm, hủy hoại chính thiện căn trong tâm chúng ta, chính
một phần làm nên tâm hồn chúng ta. Sự khổ đau ấy càng lớn, càng sâu
sắc, kéo dài vì khi xâm phạm cái tốt, cái thiện nơi chúng ta, chúng ta
cũng đã đồng thời xâm phạm cái đúng và cái đẹp nơi chúng ta. Cảm thấy
mất mát một cái gì nơi mình đó là một phần của sự hối hận, của khổ đau.
Phá hoại cái thiện, cái đúng và cái đẹp trong chúng ta phải là sự khổ
đau, vì ba cái đó là những tiềm năng cho tâm chúng ta để có được một đời
sống hạnh phúc.
Ở trên chúng ta chỉ mới nói đến quá trình tâm lý của chính mình mà không
nói đến những luật lệ của xã hội như luật pháp và nhất là định luật phổ
quát nhân quả. Nhưng chúng ta có thể tư duy thêm một chút về luật nhân
quả. Luật nhân quả không thể thấy ở cấp độ giác quan. Ở cấp độ giác quan
chúng ta chỉ thấy nhân quả của vật lý. Nhưng chỉ một ít suy nghĩ, chúng
ta có thể thấy rằng nếu không có luật nhân quả thì không xã hội nào có
thể tồn tại, không có một học thuyết nào về con người có thể đứng vững.
Chẳng hạn, pháp luật là cái giữ gìn trật tự xã hội. Nhưng pháp luật phải
y cứ vào luật nhân quả, làm tốt thiện thì được tưởng thưởng, làm xấu ác
thì phải bị trừng phạt.
Tôi gieo nhân gì thì xã hội bắt tôi
phải chịu quả ấy. Chẳng lẽ nguyên nhân là việc xấu ác phạm tội mà kết
quả là được thưởng sao? Pháp luật là sự thực thi luật nhân quả ở cấp độ
con người xã hội. Sự xét xử cũng y cứ vào luật nhân quả. Tìm kiếm nguyên
nhân phạm tội, động cơ hay ý định là vô tình hay cố ý.
Kết quả đã thực hiện nghiêm trọng,
tai hại đến mức nào. Sự xử tội là việc xem xét một quá trình nhân quả ở
tâm và thân người phạm tội, mặc dù sự tái lập quá trình đó chỉ giới hạn
trong một thời gian và không gian hữu hạn, với sự hữu hạn của các giác
quan có thể thấy nghe và ý thức có thể tưởng tượng ra. Tóm lại, mọi thái
độ hợp lý của con người trong xã hội đều y cứ vào luật nhân quả. Cảm
thức về sự vận hành của luật nhân quả có vẻ như đã được cài đặt vào số
phận con người, để nó có thể xây dựng chính mình và xây dựng xã hội.
2. Tại sao chúng ta khổ
Có người sinh ra ở thôn quê và họ cũng chẳng cực khổ gì, nhưng họ có mặc
cảm với hai chữ ‘thôn quê’. Khi ngồi với nhau, có ai đó nhắc đến ‘thôn
quê’, dù có ca ngợi nó, họ đều cảm thấy khó chịu. Họ khổ vì mặc cảm của
họ, mặc dù có rất nhiều người lại rất hãnh diện vì tuổi nhỏ đã ở thôn
quê. Ở Việt Nam hầu hết các người nổi tiếng trong thế kỷ 20 đều hãnh
diện vì quê hương nông thôn của mình.
Trong báo chí, chúng ta thấy có em học sinh, vì tự ái, tức giận, rồi cầm
dao đâm bạn. Khi ở cơ quan thẩm vấn, em đã không ngờ mình có thể là kẻ
giết người. Thậm chí em và những người chung quanh, chỉ một giờ trước
đó, không ai có thể ngờ và nghĩ đến một chuyện như vậy. Tự ái, tức giận
đã làm cho một học trò phải khổ cả đời.
Chúng ta không thể kể hết những thứ gì là nguyên nhân khổ đau dẫn đến
kết quả khổ đau. Mặc cảm, tự ái, tức giận, đố kỵ, ghen tuông, kiêu căng,
tham lam, mê mờ… Tất cả những cái ấy chúng ta có thể gồm vào hai chữ
phiền não. Phiền não là những cái làm tâm chúng ta loạn động, không kiểm
soát được, làm khổ sở, đau đớn, làm méo mó, bóp thắt và dẫn đến những
hành động sai lầm làm cái khổ càng lớn hơn.
Những phiền não ấy thường núp kín
trong tâm, nhưng khi có duyên, có hoàn cảnh, chúng bùng lên chiếm đoạt
cuộc đời chúng ta, và chúng ta có khổ đau, từ tâm đến thân. Phiền não là
những cái tiêu cực đối với tâm, phiền não chính là cái bất thiện. Và
ngược lại, tâm không có những phiền não tiêu cực, độc hại, tâm không có
bệnh, đó là thiện, đó là hạnh phúc.
Chúng ta khổ đau vì có quá nhiều phiền não, và phiền não là bất thiện,
là độc hại. Chúng ta sẽ bớt khổ đau khi chúng ta có ít phiền não, có ít
những cái bất thiện làm độc hại tâm. Trạng thái không có khổ đau, dù
hoàn cảnh có như thế nào, là trạng thái của tâm hoàn toàn lành mạnh,
trạng thái không có cái bất thiện và trạng thái không có cái bất thiện
này được gọi là cái thiện rốt ráo.
Khi đạo Phật được nói là đạo diệt khổ, có nghĩa là đạo Phật là con đường
diệt những phiền não, diệt những bất thiện. Đó là con đường tích cực để
đi đến chỗ hết mọi khổ đau, cho mình và cho người. Và khi không có khổ
đau, đó là cái thiện rốt ráo, cái hạnh phúc tự tại không do duyên, không
do hoàn cảnh để hiện hữu.
Khổ đau không đến từ hoàn cảnh, mà đến từ tâm, đến từ những phiền não,
những bất thiện, những vết thương của tâm:
Nếu tay không vết thương
Có thể cầm thuốc độc
Không vết thương, không bị nguy hại
Xấu ác không thể hại người không có lầm lỗi
(Kinh Pháp Cú, phẩm Ác, 9)
Thấy rõ như vậy, chúng ta đi đến một
kết luận cụ thể: bất cứ khi nào cảm thấy khổ, chúng ta biết ngay là
trong tâm ta đang có cái bất thiện, cái xấu ác đang trỗi dậy do sự kích
thích của hoàn cảnh bên ngoài. Sự tự chữa lành vết thương này là công
việc đối với chính tâm ta, nếu chúng ta thật sự muốn có hạnh phúc.
Ngay cả những nhân vật điển hình trong tiểu thuyết thế giới thế kỷ 20,
phần nhiều những nhân vật đó đều khổ đau, không lối thoát. Khi thấy họ
khổ, chúng ta cũng phải đi đến kết luận rằng: họ đang có cái xấu ác, cái
bất thiện trong tâm. Cái xấu ác, cái bất thiện này là tà kiến, ác kiến.
Cái tà kiến, ác kiến này chính là hư vô chủ nghĩa. Chủ nghĩa hư vô đoạn
kiến và ngày nay còn được cháy bùng thêm bởi sự dư dả vật chất là bi
kịch tâm hồn của con người hiện đại, không chỉ trong tiểu thuyết, mà ở
đời thường, trên khắp thế giới. Chúng ta cần nhớ lại điều thiện thứ mười
trong Thập Thiện là phải xa lìa tà kiến, ác kiến.
Trong quan kiến về đời sống, khuynh tả (đoạn kiến) hay khuynh hữu
(thường kiến) là sự khởi đầu cho việc đánh mất nền tảng của hạnh phúc.
3. Không khổ đau là hạnh phúc
Nếu phiền não, bất thiện là khổ đau thì ngược lại, không phiền não,
thiện là hạnh phúc. Một ý tưởng thiện (một động cơ, ý định thiện) được
phát ra thành hành động qua lời nói thiện (khẩu) và qua việc làm thiện
(thân), thì dù thành công hay không thành công về mặt xã hội (điều này
còn tùy thuộc vào cộng nghiệp xã hội), ít nhất nó cũng là một quá trình
nhân quả của hạnh phúc cho người có ý, khẩu, thân như vậy. Một ý khẩu
thân tương tục trong cái thiện đương nhiên là một thân tâm tương tục
hạnh phúc.
Chữ thiện và những chữ đồng nghĩa với nó được nói đến nhiều trong kinh
Pháp Cú. Bất cứ câu nào trong kinh Pháp Cú đều nói về cái thiện này và
phương cách để thực hiện cái thiện này, cái thiện của không phiền não,
cái thiện của hạnh phúc:
Tâm khó thấy, vi tế
Theo các dục quay cuồng
Người thiện trí hộ tâm
Hộ tâm, hạnh phúc đến.
(phẩm Tâm, 4)
Nay vui, mai sau vui
Hai trạng thái đều vui
Hành thiện, rất hoan hỷ
Hành động đều thanh tịnh.
(Song Yếu, 16)
Đây hạnh phúc, sau hạnh phúc
Hai trạng thái đều hạnh phúc
Hành thiện có hạnh phúc
Về sau hạnh phúc hơn.
(Song Yếu, 18)
Đạo Phật là con đường của hạnh phúc.
Hạnh phúc bằng cách chuyển hóa tâm thức phiền não thành trí huệ không
phiền não, chuyển hóa tâm bất thiện thành tâm thiện, chuyển hóa khổ đau
thành an lạc.
Người ta không thể chuyển hóa xã hội mà không chuyển hóa con người. Nếu
số vốn, tư bản của chúng ta chỉ là phiền não, bất thiện và khổ đau, sự
đầu tư của chúng ta cho một xã hội hạnh phúc là điều không thể, dù ở mặt
bên ngoài xã hội đó có đầy dẫy của cải. Nếu trong chúng ta có nhiều vết
thương phiền não, bất thiện và khổ đau, sự cầm nắm của cải lại càng
thêm nguy hại vì sự cầm nắm ấy sẽ làm tăng thêm vết thương, thêm nhiễm
độc. Cái không có gì là độc hại sẽ là độc hại đối với một bàn tay có
nhiều vết thương.
Thật ra không có cái gì là độc hại
cả, chỉ có vết thương nơi bên trong mình sẵn sàng cho nhiễm trùng nhiễm
độc mới là vấn đề. Một trái cây tốt lành nhất được người khác trao tặng
mình cũng sẽ trở thành đau đớn, gây nhiễm trùng khi cầm lấy, nếu bàn tay
mình có vết thương. Để mọi cái không trở thành độc hại mà trở thành
hạnh phúc vật chất và tinh thần, điều kiện tiên quyết là bàn tay chúng
ta không có vết thương, nghĩa là tâm chúng ta không có phiền não, bất
thiện và khổ đau.
VHPG số
89 năm 2009