Thầy
cho chúng tôi biết: Thầy dạy Phật giáo nguyên thỉ
bằng tinh thần của đại thừa. Tôi thì tôi nghĩ rằng: cho đến hôm
nay, tôi chưa gặp được ai có thể dạy những điều dạy chính thống của Bụt
một cách sáng sủa và mạnh mẽ như thầy trình bày về đạo Phật. - Melvin
McLeod.
Tại sao Chánh Niệm là chìa khóa của hạnh phúc?
Chánh niệm đưa đến định. Định
đưa đến cái thấy thâm sâu là tuệ giác. Tuệ
giác giúp ta thoát khỏi cái thấy mê mờ của mình, thoát khỏi cái
giận và tham đắm. Khi mà ta thoát khỏi được phiền não, hạnh phúc có thể
có mặt.
Làm sao ta có thể hạnh phúc được khi ta đã đầy ắp nào là giận hờn,
nào là si mê và tham lam? Thế nên cái thấy sâu sắc - tuệ giác - mới cởi
trói cho ta những ràng buộc khổ lụy ấy và mới là chìa khóa cho hạnh
phúc.
Thường thì có rất nhiều điều kiện hạnh phúc đang có mặt. Nhưng ít khi
nào ta để ý, nhận diện nó, bởi vì chúng ta không chánh niệm, không ý
thức được những hạnh phúc đang có mặt. Khi thân và tâm đang cùng có mặt
trong giây phút hiện tại, ta thật sự sống động, tỉnh táo. Ta thật sự có
mặt, ta thật sự sống và tiếp xúc được khá sâu sắc sự sống trong lúc này
và tại đây. Thành ra ta không chỉ tu tâm mà thôi, ta còn tu với thân của
ta nữa. Thân và tâm phải là một, không hai được. Trên căn bản ấy, bạn
sẽ thấy những gì bạn đang tìm cầu đã có mặt từ lâu rồi, cho dù đó là
giác ngộ, niết bàn, giải thoát, Phật, Pháp, Tăng hay là hạnh phúc, nó
đều đang có mặt ở ngay bên bạn đó. Thật ra phút giây hiện tại, đó là
giây phút duy nhất mà bạn có thể tìm được những cái trên.
Ngược lại khi tâm và thân bị phân tán, khi mà ta chìm sâu vào suy
tính tư duy... và ta không có mặt trong phút giây hiện tại, ta hành xử
như là một cái xác, như người mộng du.
Có thể mọi người đều đồng ý rằng ta phải sống trong phút giây hiện
tại đó, nhưng cái thói quen để cho tâm bị trôi lăn phân tán nó đã hiện
diện trong ta lâu lắm rồi, cứ đẩy ta đi vòng vòng cho nên ta đánh mất
khả năng có mặt sâu sắc trong phút giây hiện tại. Vì thế sự tu luyện
đúng mức rất quan trọng. Nghe thuyết pháp và đọc sách không chưa đủ. Ta
phải thực tập đủ lâu để có tập khí mới, tập khí dừng lại được cái tâm
rong chạy tán loạn của ta để ta có thể an trú thân tâm trong phút giây
hiện tại. Đó là sự thực tập đầu tiên: dừng lại, dừng lại, nhìn kỹ hơn,
nhìn rõ hơn, nhìn sâu hơn và nhận diện những điều kiện hạnh phúc đang có
mặt, thoát ra khỏi ngục tù của sự bị kéo đi bởi thói quen chê trách,
than van, lúc nào cũng không vừa ý. Đó là con đường của Bụt.
Thưa Thiền Sư, Thầy nhấn mạnh nhận diện niềm vui, sự hạnh phúc và
sự hài lòng trong khi tu tập - niềm vui khi đặt những bước chân trên
mặt đất, niềm vui khi hít vào một hơi thở chánh niệm. Có thể vì cái quá
khứ học Phật quá cứng ngắt và nghiêm khắc của chúng tôi mà chúng tôi
thấy dễ chấp nhận hơn khi nghe rằng “mình tu theo Phật thì tu làm sao
cho cứng cỏi, không có vui. Đối với tôi, gần như là mình đi sai đường
nếu trộn lẫn tôn giáo với thú vui và ăn mừng sự sống”.
Tôi nghĩ rằng, phần đông khi lắng nghe Bụt dạy về bốn sự thật mầu
nhiệm (Tứ Diệu Đế) - nhất là sự thật thứ nhất, họ nghe những chữ như khổ
đau như phiền não và vì thế nên họ nghĩ rằng đạo Phật là
đạo chỉ nói đến khổ đau thôi. Nhưng họ không nhớ rằng sự thật thứ ba là
để nói về hạnh phúc, cái ngược lại của sự thật thứ nhất là phiền não khổ
đau. Bốn sự thật mầu nhiệm mà Bụt dạy là: 1/ Có khổ đau, phiền não, 2/
nhận diện con đường đưa ta đến chỗ khổ đau, 3/ Có thể làm khổ đau vắng
mặt, nghĩa là có hạnh phúc và 4/ có con đường dẫn tới hạnh phúc. Có lẽ
chúng ta nên trình bày đạo Phật bắt đầu bằng hai sự thật thứ 3 và thứ 4
trước: 1/ Có thể có hạnh phúc ngay. 2/ Có con đường đưa tới hạnh phúc.
3/ Có thể ở tình trạng triền miên trong khổ đau. 4/ Có cách nhận diện
những nguyên nhân của khổ đau.
Khi có chánh niệm, ta khám phá ta có nhiều niềm vui nhưng đồng
thời cũng khám phá ra nhiều niềm đau và thương tích trong ta, đó là
những kinh nghiệm khó xử khi thực tập chánh niệm. Xin Thiền Sư chỉ cách
cho chúng tôi trong những trường hợp nầy khi khổ đau nổi dậy?
Khổ đau và hạnh phúc liên hệ chằng chịt với nhau lắm. Chúng ta chỉ
nhận diện được hạnh phúc khi có một quá khứ khổ đau. Ví dụ như ta thấy
rõ hơn những chữ trắng nếu nó nằm trên nền đen. Nếu ta đã từng đói ta
mới thắm thía được niềm hạnh phúc khi có ăn. Nếu ta đã từng khổ đau vì
chiến tranh ta mới thấy tất cả giá trị của hòa bình. Nếu không bạn sẽ
không trân quý hòa bình, bạn chỉ muốn đánh giặc thôi.
Thành ra kinh nghiệm của ta về những khổ đau không lường được của
chiến tranh sẽ giúp ta tìm nhiều cách để gìn giữ hòa bình. Vì thế nếu có
được những kinh nghiệm đau buồn là điều rất tốt, nhờ thế mà trên nền
tảng ấy ta nhận diện được hạnh phúc.
Phần đông chúng ta, ai cũng có một khuynh hướng thâm sâu là tìm về
khoái lạc và tránh khổ đau. Điều này có nguyên nhân sâu xa trong tàng
thức của ta, phần này của tâm ta gọi là mạt-na thức. Tiếng Bắc
Phạn Sanskrit là Manas, là một phần trong tâm
mỗi người, chỉ muốn tìm về chỗ hưởng thụ và tránh khổ đau. Mạt-na
thức không ý thức cái hiểm nguy của các sự hưởng thụ ấy. Như con cá
đã được báo trước là hãy coi chừng những miếng mồi ngon đó, bên trong
có thể có lưỡi câu móc họng nhưng nó vẫn không cưỡng được sự cuốn hút
của miếng mồi. Mạt-na cũng không thấy được cái lợi lạc của bài học khổ
đau. Chúng ta cũng nên tập chấp nhận khổ đau bởi vì khi ta đau, muốn
vượt được khổ đau ấy ta phải tập hiểu sâu hơn vấn đề và mới thương và
chấp nhận được để thoát ra khỏi niềm đau ấy. Bởi vì tâm ta vốn không
biết cái hiểm nguy của dục lạc và cái lợi lạc của bài học khổ đau
nên chúng ta phải chuyển vào tàng thức cái tuệ giác đó. Bởi vì chỉ để
một mình ý thức tu tập thôi thì chưa đủ để chuyển hóa tận gốc những nỗi
khổ niềm đau. Cái mà ý thức có thể làm là quán chiếu để đạt tới cái thấy
sâu sắc đó và tải xuống tàng thức cái tuệ giác kia. Cái tuệ giác đầu là
sự tìm kiếm dục lạc rất là hiểm nguy và sau đó là nếu đang khổ đau thì
phải học cho được bài học là khổ đau, nó cũng có cái lợi lạc của nó. Nếu
ta chánh niệm, nếu ta đủ can đảm để trở về với chính ta và ôm ấp cái
nỗi khổ của chúng ta, ta sẽ học được nhiều lắm. Khuynh hướng thông
thường là tránh cái nỗi khổ niềm đau nhưng ta nên làm ngược lại, nhận
diện nó, nhìn sâu và tìm cách chuyển hóa. Nếu ta chỉ biết trốn chạy nỗi
khổ thì ta sẽ không có cơ hội chuyển hóa. Bởi thế cho nên Bụt dạy ta,
trước nhất là chấp nhận sự thật thứ nhất, sự thật là mình đang có khổ
đau, nhìn sâu vào nó để có thể tìm ra sự thật thứ hai là nguyên nhân đưa
ta đến cái khổ đó. Đó là cách duy nhất để cho cái sự thật thứ tư, con
đường hành trì để chuyển hóa khổ đau, đưa tới hạnh phúc có thể xuất hiện
được. Vì thế ta nên nhấn mạnh đến vai trò của khổ đau. Nếu ta quá sợ
khổ đau thì chúng ta không có cơ hội thành tựu những khám phá ấy.
Tôi nghĩ là ai ai trong chúng ta cũng từng có thương một người
trong cuộc đời và ta sẽ sẵn sàng gánh chịu hết những khổ đau của người
kia và sẵn sàng trao tặng cho người đó những hạnh phúc ta có. Nhưng làm
sao để trải rộng ra cái tình thương đó với mọi người. Làm như thế thì
cuối cùng mới chuyển được thế giới. Làm sao nhân lớn lên và làm lan rộng
ra cái tình thương mà mỗi người trong ta đều có?
Khi ta mới lọt khỏi lòng mẹ, vừa tách rời cung điện ấm áp (tử cung)
của mẹ, ta bắt đầu sợ hãi, cái sợ đầu tiên đó nó thật lớn và thật sâu
bởi vì ta có thể chết trong giây phút trọng đại nguy ngập ấy. Rồi người
ta lại cắt mình ra khỏi cái cuống rún đã nuôi nấng mình khá lâu trong
bụng mẹ. Giờ đây thì mình phải tự thở lấy. Phổi mình trong bụng mẹ thì
có nước, nhưng trong giây phút trọng đại này, ta phải đẩy chất nước ấy
ra để tự hít vào hơi thở đầu một mình và nếu làm không được thì mình sẽ
chết. Thành ra kinh nghiệm đầu tiên của ta về cái sợ là lúc đó và cái
ước muốn ban đầu muốn được sống sót nó cũng được sinh ra lúc ấy. Cái ước
muốn đầu tiên được sống còn cũng được phát sinh từ lúc ấy. Kinh nghiệm
sợ hãi ban đầu được phát sinh từ lúc ấy. Là một em bé mới sinh, mình
thấy mình thật bất lực. Mình sẽ không sống sót nổi nếu không có ai đến
chăm sóc mình. Khi mình nghe bước chân của ai đó đên gần để chăm sóc
mình thì mình hạnh phúc. Cả ngày mình chỉ chờ đợi tiếng chân đến gần
mình bởi vì mình biết sau khi tiếng chân đến gần là có sữa, có sự ấm áp,
có mọi thứ… Đó là cái sợ ban đầu và cái thèm
khát ban đầu được phát sinh. Rồi khi mình lớn lên, cái
thèm khát có một người yêu cũng là sự tiếp nối từ cái thèm khát ban đầu
đó. Mình thấy cần có một người để chăm sóc mình, nếu phải sống một mình
thì thiếu thiếu gì đó và mình thấy hơi bất lực, mong manh, mình không tự
thấy yên tâm nếu chỉ sống một mình. Vì vậy cứ tìm cách có một người yêu
cùng sống bên nhau, đó cũng chứng tỏ là cái thèm khát ban đầu (khi mới
sơ sinh) vẫn còn đó, rằng mình không cảm thấy an tâm nếu không có ai bên
cạnh. Thế nên người yêu, người hôn phối cũng là một loại tiếp nối sự
thỏa mãn cái thèm khát ban đầu, cái nhu yếu có mẹ có bố kề bên. Ta thấy
có sự an ổn ngay, tại vì có mẹ một bên, có bố kề bên. Thật ra không phải
sự có mặt thật sự của bố, của mẹ mới làm cho mình an tâm. Thật ra chính
cái ý niệm là “mẹ đang ở đây” hay là “bố đang ở đây mà” đã
khiến cho mình có cảm giác an ổn. Nhưng sau một thời gian thì mình thấy
người ở kề bên mình ấy làm phiền mình quá và mình muốn ly dị. Thế nên
thật ra không phải vì sự hiện diện của anh chàng hay cô nàng ấy cho mình
có cảm tưởng thoải mái nhưng chính cái ý niệm trong đầu mình
và cái thèm khát ban đầu khi còn bé thơ nó đã sai khiến. Tình
yêu, trong đạo Bụt lúc nào cũng bắt đầu bởi chính mình trước khi có sự
xuất hiện của những người khác trong cuộc đời mình. Tình thương theo Bụt
dạy là khi mình trở về “nhà” (thân và tâm) của chính mình. Mình nhận
diện được nỗi khổ trong tâm mình, cái sợ ban đầu, cái thèm khát ban
đầu... Sự hiểu biết sâu sắc cái nỗi khổ của mình khiến mình nhẹ ra và
biết thương mình hơn, bởi vì mình quyết định đạt tới trọn vẹn tiềm năng
của mình. Và vì thế không cần phải có một người nào khác để mà bắt đầu
thương. Ta nên bắt đầu bằng chính ta. Tình thương chân thật không phải
là phải chọn một người. Khi tình thương có mặt, mình tỏa rạng ra như một
ngọn đèn. Đèn không chỉ chiếu lên trên một vài người trong phòng này,
đèn sáng lên thì tất cả mọi sự vật xung quanh đều được hưởng. Cũng thế,
nếu thật tình ta có tình thương trong ta thì mọi người quanh ta đều thừa
hưởng - chẳng những con người được hưởng mà ngay cả cầm thú, cỏ cây và
đất đá cũng được ân triêm. Tình thương, tình thương chân thật là như
vậy. Tình thương chân thật là xả, là bao trùm tất cả.
Thành ra trải tình thương ra thật rộng, thật xa là ít hơn là nên
tập thấy thương và thực hiện tu tập hoàn tất sự trọn vẹn viên thông nơi
chính mình.
Đúng thế.
Sư cô Chân Không hướng dẫn chúng tôi để thấy được nhiều nguyên
nhân và điều kiện như bố mẹ, tổ tiên huyết thống và tổ tiên tâm linh,
nhiều yếu tố văn hóa đã làm nên con người ta và những thứ ấy vẫn đang
sống trong ta. Làm như thế thì có giúp đỡ gì không?
Cái ngã của mỗi người được thành lập bởi những yếu tố không phải là
ngã và cái tuệ giác vô ngã ấy sẽ giúp ta thoát ra khỏi những mặc cảm hơn
thua. Chúng ta được cấu tạo bởi những điều kiện không phải là ta. Khi
ta nhìn sâu ta sẽ thấy trong ta có tất cả những đường nét và tập khí của
tổ tiên, cha mẹ, văn hóa, xã hội, bạn bè và tất cả quanh ta.
Rất nhiều giảng sư Phật giáo giảng dạy về giáo lý tương tức bằng
những danh từ rất trừu tượng nhưng tôi thấy cái cách nhìn vào chính bản
thân ta với từng yếu tố rõ rệt đến từ đâu đã ảnh hưởng ta ra sao, về mặt
tích cực cũng như tiêu cực nó giúp đỡ ta nhiều lắm.
Nhiều học giả đã làm cho Phật giáo trở nên rắc rối, biến đạo
Phật thành một loại siêu hình học một loại triết học. Một số sinh viên
Phật học đã bỏ quá nhiều thì giờ cho những hệ thống tư duy này và không
có thì giờ tu tập.Tôi nghĩ rằng giáo lý Bụt dạy rất đơn giản,
ta cần trình bày cho đơn giản để trẻ em cũng hiểu được. Sáng nay chúng
tôi đã hướng dẫn một buổi thiền tập quán chiếu vào gia đình mình và
những yếu tố vẫn còn có mặt trong ta “Thở vào tôi thấy cha tôi lúc mới
lên năm, yếu đuối và mong manh. Tôi mỉm cười với đứa bé lên năm (vốn là
bố tôi) với lòng từ bi.” Cái cách quán chiếu như vậy có thể giúp ta tiếp
xúc với cái sự thực của vô ngã, với các yếu tố không phải là ta đang
nằm trong ta. Thì khi ta thấy được cha ta có những yếu tố bị xâm nhập từ
tuổi thơ - không phải là cha - khiến cha dữ dằn bạo động như thế thì ta
có thể sẽ hiểu và thương được cha, dù cha có tệ bạc. Và ta cũng thấy
được cha đang có mặt trong từng tế bào trong ta với những khổ đau, những
tập khí và cả những tài năng của cha trong ta. Nếu ta có tài năng thì
cũng là sự tiếp nối của bố mà thôi. Thực tập như vậy sẽ đem tới tuệ giác
tương tức rất cụ thể, tuệ giác vô ngã cũng cụ thể. Nó sẽ giúp ta thoát
khỏi giận hờn, giận trách cha mà lại còn biết tri ân v.v... Tại sao mình
không quán chiếu những yếu tố không phải là ta trong ta không những
bằng tuệ giác mà còn bằng tình thương nữa? Tuệ giác và tình thương là
một. Tuệ giác đưa tới tình thương và tình thương không thể nào có được
nếu không có hiểu, không có tuệ giác. Nếu ta không hiểu thì không thể
nào ta thương được. Tuệ giác này là cái hiểu trực tiếp, không phải chỉ
là những khái niệm, những tư tưởng trừu tượng. Trong thiền quán ta phải
ta cho phép ta được soi sáng bởi ánh sáng của tuệ giác này. Thỉnh thoảng
ta phải cần sử dụng một hình ảnh để ta có thể hiểu rõ hơn. Ví dụ tôi
hay giải thích cho các cháu bé rằng rất khó cho một cây bắp nhớ nổi,
tưởng tượng nổi nó từng là một hạt bắp. Thế nhưng đó là sự thật, nếu các
cháu và người lớn thấy được sự tương tức giữa hạt bắp và cây bắp thì
mọi người cũng thấy được sự tương tức giữa cha và con, mẹ và con. Nếu sự
thật đó được tiếp xúc qua tuệ giác của thiền quán thì giận hờn trách
móc sẽ tan biến và tình thương có thể phát sinh.
Thiền Sư là thầy của một truyền thống Thiền, với một hiểu biết
sâu xa về các truyền thống Phật giáo khác, vậy mà suốt chương trình huấn
luyện cho thiền sinh trong năm ngày liên tiếp thầy chỉ nói phớt qua chữ
Thiền. Ngược lại thầy dạy rất kỹ về những phương pháp căn bản để tu tập
chánh niệm, về tứ diệu đế (bốn sự thật mầu nhiệm). Vì sao thầy chọn
cách giáo dục này?
Có loại Phật giáo nguyên thỉ từ hồi Bụt còn tại thế, đạo Phật của
chính Bụt giảng dạy và nhiều trường phái Phật giáo đã phát sinh bởi
những thế hệ đi sau. Nhưng cho dù là Phật giáo nguyên thỉ, Thiền, Thiên
Thai tông hay Kim Cương Thừa thì đó cũng là những điều Bụt dạy. Sự hành
trì của Bụt đã được tiếp nối bởi các vị đệ tử của ngài - tuệ giác và sự
dạy dỗ của ngài được chuyển tiếp qua nhiều thế hệ dù ngài đã nhập niết
bàn từ lâu. Ta thấy được Bụt qua nhiều thế hệ các đại sư và đệ tử của
họ. Điều mà tôi đang làm là trình bày những cách hành trì nguyên thỉ
ngay từ hồi Bụt còn tại thế, trong tinh thần Phật giáo đại thừa. Phật
giáo đại thừa có cái nhìn rất cởi mở, không gò bó và thật là mầu nhiệm
mà được học Phật giáo từ hồi Bụt còn tại thế bằng tình thần thoáng rộng
này. Khi ta sử dụng Phật giáo đại thừa để tìm hiểu, nhìn sâu vào Phật
giáo nguyên thỉ, ta có thể khám biết bao là kỳ diệu, sâu sắc hơn nhiều.
Ta ý thức rằng những điều dạy sâu sắc nhất của Phật giáo đại thừa có thể
tìm ra trong các kinh điển nguyên thỉ. Những tư tưởng phóng khoáng của
đại thừa đã có rành mạch trong các kinh nguyên thỉ.
Những hạt giống của Phật giáo đại thừa đầy dẫy trong Phật giáo nguyên
thỉ. Thành ra khi ta dùng từ Phật giáo nguyên thỉ điều đó không có
nghĩa là ta loại ra ngoài những Phật giáo khác, những truyền thống mới
khai triển sau này. Tôi chỉ muốn đem tất cả các truyền thống về tận gốc
nguyên thỉ của họ, Phật giáo nguyên thỉ được xem như mẫu số chung của
tất cả các truyền thống khác, mẫu số chung của mỗi truyền thống Phật
giáo. Thế nên tôi đã cống hiến những điều Bụt dạy ngay từ những năm đầu
của quá trình dạy dỗ của ngài, trong tinh thần đại thừa. Phật giáo Bụt
dạy những năm đầu rất đơn giản - mà cũng rất thâm sâu. Nhiều học giả đã
làm cho Phật giáo trở nên rắc rối, biến đạo Phật thành một loại siêu
hình học một loại triết học. Một số sinh viên Phật học đã bỏ quá nhiều
thì giờ cho những hệ thống tư duy này và không có thì giờ tu tập. Cũng
như thiền sư Lâm Tế (Trung quốc gọi là Linji, Nhật gọi là Rinzai) ngài
học Phật quá nhiều nhưng sau đó cảm thấy không đủ. Vì thế ngài bỏ hết
những học thuyết và bắt đầu thực hành..
Bởi vì Phật giáo ở phương Tây còn quá sơ khai, trong giai đoạn
đầu, Thầy có nghĩ rằng có thể Phật giáo nguyên thỉ sẽ hạp với người Tây
Phương hơn là những điều dạy dỗ đã được khai triển về sau phải không?
Tại sao mình không quán chiếu những yếu tố không phải là ta trong ta
không những bằng tuệ giác mà còn bằng tình thương nữa? Tuệ giác và tình
thương là một. Tuệ giác đưa tới tình thương và tình thương không thể nào
có được nếu không có hiểu, không có tuệ giác. Nếu ta không hiểu thì
không thể nào ta thương được.
Tại sao mình không quán chiếu những yếu tố không phải là ta
trong ta không những bằng tuệ giác mà còn bằng tình thương nữa? Tuệ giác
và tình thương là một. Tuệ giác đưa tới tình thương và tình thương
không thể nào có được nếu không có hiểu, không có tuệ giác. Nếu ta không
hiểu thì không thể nào ta thương được.
Không phải là một giáo lý riêng biệt nào mới thích hợp với thời đại
nào mà quan trọng là cách ta hiểu điều đó và cách
ta sử dụng nó. Nếu ta là một học giả và ta chỉ sử dụng trí năng của
ta mà thôi thì ta có thể giải thích giáo lý theo cách này, trong khi
nếu ta là một hành giả thực tập thật tình thì có thể ta sẽ khám phá được
chiều sâu của giáo lý và tiếp xúc được với tuệ giác phát sinh từ sự
thực tập của ta và nhờ thế ta có thể trình bày cái giáo lý kia một cách
hoàn toàn khác hẳn với người chỉ dùng trí năng. Thành ra vấn đề là không
phải giáo lý này hay hơn hay giáo lý kia, thích hợp hơn, vấn đề là biết
cách áp dụng thật tình điều mình học và trình bày ra sự tu tập của mình
cho thích hợp và giúp người nghe hành trì cho có hiệu quả. Tuy nhiên
tôi rất là ngạc nhiên mà thấy bài pháp thoại đầu tiên do Bụt thuyết vẫn
còn thích hợp cho thời đại chúng ta. Sau 2500 năm, bài thuyết pháp đầu
tiên vẫn có giá trị vững chãi. Trong bài thuyết pháp đầu tiên ta tìm
được đầy đủ những điều Bụt dạy mà ta có thể sử dụng suốt đời. Điều đó
thật đáng kinh ngạc.
Trong những điều Thiền Sư dạy, Thầy nhấn mạnh đến yếu tố tăng
thân, yếu tố phải có một nhóm người cùng tu tập chung, Thầy dạy điều đó
nhiều hơn các thầy khác. Tại sao điều đó lại quan trọng như thế đối với
Thầy?
Xây dựng tình huynh đệ, tình chị em thật là thiết yếu trong tăng
thân, nếu tăng thân hạnh phúc thì họ có thể là nơi nương tựa cho nhiều
người. Chúng tôi bắt đầu xây dựng tăng thân của chúng tôi từ nhiều năm
rồi, nhiều thập niên trước và nó đã trưởng thành làm một tăng thân chính
chắn và vững chãi. Có nhiều người đã từng tu tập lâu năm đến tham dự
một khóa tu thì khóa tu ấy sẽ có năng lượng vững chãi của tăng thân. Có
một câu chuyện được ghi trong kinh về quốc vương Ba Tư Nặc của thành Xá
Vệ, ngài gặp đức Thế Tôn lần chót khi hai người cũng đã 80 tuổi và nói:
“Bạch đức Thế Tôn, mỗi khi con gặp tăng thân của ngài thì con thấy
được ngài rõ hơn và con càng quý ngài hơn lên.” Tôi thấy thật ý
nghĩa khi thiên hạ có thể thấy được Bụt qua tăng thân của người. Tăng
thân là công trình, là tác phẩm lớn nhất của Bụt. Bụt là một nghệ sĩ và
tăng thân là công trình nghệ thuật của người nghệ sĩ kia. Thành ra Bụt
vẫn còn đang sống cho đến ngày hôm nay trong tăng thân. Khi mà bạn thấy
các thầy, các sư cô cùng các bạn cư sĩ tu tập nghiêm túc, thảnh thơi và
an lạc là các bạn có thể thấy được sự hiện diện của Bụt.
Gần đây Thầy đã kêu gọi tăng thân cũng như những người đã ủng hộ
những nguyên tắc hoà bình nên ủng hộ Tổng thống Obama. Vì sao mà Thầy
làm như vậy?
Nếu ta đã từng đói ta mới thắm thía được niềm hạnh phúc khi
có ăn. Nếu ta đã từng khổ đau vì chiến tranh ta mới thấy tất cả giá trị
của hòa bình.
Chắc anh biết, tôi gặp Mục sư Martin Luther King Jr. từ năm 1966.
Chúng tôi bàn với nhau về sự cần thiết của một cộng đồng cùng tu tập
chung để đối kháng lại thế giới bạo động, tôi đã dùng từ tăng thân
(theo ngôn từ Phật giáo) còn Martin thì dùng chữ cộng đồng dễ
thương (beloved community). Chúng tôi bàn về nhân quyền,
về hòa bình, về bất bạo động và v.v.. Những điều ngài và tôi đang làm
rất gần gũi nhau - xây dựng một nhóm người, nhiều nhóm người cùng sống
bên nhau, hợp nhất và làm cho hài hòa những hạt giống trí tuệ, từ bi và
bất bạo động của nhau. Lời tuyên bố này của tôi về Obama chỉ là sự tiếp
nối của công trình ấy. Chúng tôi đã cùng gieo trồng những hạt giống ấy
và khi Obama biểu hiện, chúng tôi thấy Obama có khả năng nói lời ái ngữ,
lời hiểu biết và không kỳ thị. Nhưng Obama cũng rất mong manh - ông
không thể nào tiếp tục là Obama nếu ông không được sự ủng hộ của một
cộng đồng khá vững chãi, của những người đã tin tưởng nơi những nguyên
tắc hoà bình, bất bạo động như ông… Có thể trong tương lai những cố vấn
quân sự và kinh tế của ông sẽ kéo ông đi về nẻo khác. Vì lẽ đó nên tôi
kêu gọi tăng thân phải ủng hộ Obama, để cho ông tiếp tục còn là ông, giữ
vững lập trường mà trước đó ông đã chứng minh là ông đã làm được, như
là dùng lời ái ngữ và giúp lấy ra những tri giác sai lầm giữa Mỹ Châu và
thế giới của người A Rập. Có rất nhiều dấu hiệu chứng minh rằng Obama
đã có ý định, đã có khát khao thực hiện hòa bình, muốn xây dựng tình
huynh đệ và có sự không kỳ thị v.v.. Ủng hộ Obama không phải là
ủng hộ một đảng phái chính trị nhưng là ủng hộ cách làm
chính trị mà hiện tại ta không thường thấy trong thế giới các chính trị
gia nơi chính trường. Obama đại diện cho một loại tỉnh thức
mới, một loại thao thức mới, một loại hành động mới. Điều
đó thật đẹp nhưng làm sao mà giữ cho cái thao thức mới ấy được tiếp tục
lâu dài? Hiện tại chung quanh Obama có quá nhiều yếu tố dường như đang
kéo Obama đi về nẻo khác. Thế nên ta phải động viên tối đa các cộng đồng
tu tập đang đi về hướng hòa bình nhân bản đó, ta phải giúp che chở ông
Obama để Obama còn có thể tiếp tục là Obama càng lâu càng tốt. Điều
đó không phải là ủng hộ một đảng phái mà là ủng hộ một ước vọng thâm
sâu, một thao thức hướng về nẻo chân thiện mỹ.
Thầy sắp cho một pháp thoại ở thị xã Nữu Ước với đề tài: "Xây
dựng một Xã Hội hòa bình và Từ Bi” Thế nào là con đường đưa tới một xã
hội lành mạnh và từ bi? Năm phép tu tập chánh niệm mà Thầy sử dụng từ
Năm giới của người Phật tử truyền thống để biến thành những điều phát
nguyện thích hợp với tình huống hiện thời của thế giới. Đó có phải là
phương châm không?
Nghe thuyết pháp và đọc sách không chưa đủ. Ta phải thực tập
đủ lâu để có tập khí mới, tập khí dừng lại được cái tâm rong chạy tán
loạn của ta để ta có thể an trú thân tâm trong phút giây hiện tại.
Thường thì tuệ giác tương tức sẽ giúp đẩy lui sự kỳ thị, sợ hãi và
cách nhìn nhị nguyên sự việc. Chúng ta liên hệ thâm sâu với nhau dù
trong khổ đau hay trong hạnh phúc, vì thế cho nên tuệ giác tương tức
(liên hệ thâm sâu) phải được xem là nền tảng cho bất cứ hành động nào có
thể đem tới hòa bình, tình huynh đệ và giúp lấy ra bạo động, tuyệt
vọng. Tuệ giác này có mặt trong tất cả các truyền thống tâm linh. Ta chỉ
cần trở về nhà với chính truyền thống của ta và gắng làm sống lại với
những hạt giống ấy. Năm cách tu tập chánh niệm là những pháp môn rất là
cụ thể để thực tập thương yêu. Trong truyền thống Phật giáo của chúng
tôi, chúng tôi cứ pháp đàm để tìm cách làm sao áp dụng Năm giới một cách
hữu hiệu trong đời sống hằng ngày. Năm giới quý báu ấy là để hành động,
không phải để suy luận và ức đoán. Ghi tên để giữ gìn Năm phép tu tập
chánh niệm ấy không phải là ký tên ủng hộ một kiến nghị mà là làm cho nó
trở thành sự sống của chính mình, nó là con đuờng lý tưởng của mình. Và
bạn sẽ rất hạnh phúc vì bạn biết bạn đã có một con đường của hiểu biết
và thương yêu. Nếu mà mình biết là mình đã có con đường của hiểu và
thương rồi thì mình không có lý do gì mà sợ hãi về tương lai của mình
nữa cả. Và mình có thể chia sẻ con đường lý tưởng của mình, chia sẻ cái
cách mình tu tập để nuôi dưỡng và phát triển hiểu biết và tình thương
với các bạn thuộc truyền thống khác. Họ không cần trở thành Phật tử, họ
chỉ cần trở về truyền thống tâm linh của họ, sống cho sâu sắc và tìm cho
ra những gì tương đương với Năm phép tu chánh niệm của Phật tử nơi
truyền thống các bạn. Mục đích của ta không phải là để thay đổi niềm tin
của các bạn và biến họ thành Phật tử, mà chỉ là chia sẻ con đường của
hiểu biết và thương yêu. Bạn đó vẫn tiếp tục là tín hữu Do Thái giáo, Cơ
Đốc giáo hay Hồi giáo. Và bạn cứ làm như chúng tôi đang làm. Chúng tôi
dùng ngôn từ Phật giáo, còn bạn thì nên dùng ngôn từ Hồi giáo mà tu tập
và chúng ta sẽ cùng đi đến một kết quả như nhau. Thế nên ta mới có thể
gọi là một đường hướng tâm linh toàn cầu hay là một nền đạo đức toàn
cầu.
Quả thật là mầu nhiệm nếu tất cả các vị lãnh đạo tâm linh từ
nhiều truyền thống khác nhau có thể đến cùng nhau và bàn bạc làm thế nào
để có một nền đạo đức toàn cầu để mọi người đều có thể cùng tu tập
chung.
Có thể họ cũng không cần đến với nhau cùng ngồi chung một chỗ. Họ chỉ
cần ngồi yên nơi chốn của họ và tu tập làm khơi dậy cái hiểu cho thâm
sâu và mở rộng tình thương cho mọi người mọi loài. Đó là cách gặp nhau
sâu sắc nhất.
Cám ơn thầy vô cùng. Thầy thật là từ bi, Thầy cho chúng tôi từng
ấy thì giờ. Đây là một danh dự lớn cho tôi và tôi cũng biết đọc giả
chúng tôi sẽ vô cùng lợi lạc.
Melvin McLeod - SHAMBHALA SUN
Theo: daophatngaynay.com