Việc
bố trí hòm công đức hay khuyến khích khách tham quan, hành lễ không
nhét tiền vào lễ vật, đặc biệt là nhét tiền vào tay các thánh tượng, kể
cả tượng Phật; không biết việc này thực hiện như thế nào đây? Cách làm
thì sẽ có, có nhiều nữa. Nhưng hiệu quả thì thế nào chắc khó có được như
ý là loại bỏ việc làm vô ý thức kiểu “lấy bụng ta suy ra bụng thánh
thần” đó.
Hòm công đức vẫn sẵn có ở hầu hết các cơ sở tín ngưỡng, kể cả nhiều
di tích văn hóa/lịch sử được người dân xem là chốn để cầu duyên, cầu
phúc, cầu tài, cầu lộc..., thậm chí là cầu... giữ và thăng chức, ban
quản lý vẫn có đó nhưng người đến lễ (không phải là tất cả) đều muốn
trao vật phẩm, đặc biệt là “tận tay thánh thần”. Tại sao như thế? Phải
chăng điều đó xuất phát từ “cái bụng mình” là không tin vào người trung
gian, người quản lý? Dẫu nếu bình tĩnh mà suy xét thì vật phẩm ấy, tiền
bạc ấy cuối cùng cũng đến tay... con người, thần thánh chẳng thể cất giữ
riêng được. Phải chăng niềm tin giữa con người với nhau đã mất mát?
Nhìn cảnh tượng các thánh tượng bị người ta nhét tiền lẻ vào mà xót
xa. Thánh thần là hình ảnh đại diện cho lực lượng siêu nhiên bảo hộ cuộc
sống, có khả năng hơn hẳn con người, vượt lên thất tình lục dục thường
tình của con người, vậy mà... lại bị nhét những tờ tiền lẻ, như thể là
tiền bố thí! Không biết ai trong những người đã từng làm như thế suy
nghĩ lại không? Việc làm ấy, nếu xét ở sự lòng thành dâng lên thánh thần
thì lại trở nên thất lễ, thiếu sự tôn kính với đối tượng mà mình tín
ngưỡng, cầu khấn để xin ban ơn phước. Nếu xét ở việc ứng xử văn hóa thì
lại góp phần làm tổn hại đến các hiện vật, đôi khi là bảo vật quốc gia.
Lý trí là vậy, không phải là quá khó nhận thức, thế nhưng tại sao sự
việc khó chấp nhận đó lại tái diễn? Nếu không nói là ngày càng diễn ra
nhiều. Câu trả lời có thể sẽ nhiều, đến từ các góc độ tiếp cận khác
nhau. Chung quy, vấn đề xuất phát từ nhận thức của con người, nói thẳng
ra là bắt nguồn từ sự mê tín, từ việc thiếu giáo dục về những quy tắc
ứng xử tôn giáo, trong tín ngưỡng tôn giáo.
Chúng ta không thể dùng chỉ thị để điều chỉnh những hành vi đó, thậm
chí nếu sử dụng cả biện pháp chế tài cũng sẽ không có tác dụng, mà muốn
giảm bớt hay loại bỏ, chúng ta nhất định phải có cách để các cá nhân có
sự tự điều chỉnh. Sự tự điều chỉnh trước hết đến từ nhận thức, biết thế
nào là đúng, đâu là chưa đúng với các quy tắc tín ngưỡng, để ứng hợp với
lòng thành của sự cầu khấn trước đối tượng tín ngưỡng. Việc làm này, ở
góc độ trách nhiệm chung, nếu không có sự phối hợp với các tổ chức tôn
giáo để chính các tổ chức tôn giáo ấy hướng dẫn tín đồ, người có tín
ngưỡng hay có nhu cầu tín ngưỡng, thì mọi giải pháp chỉ dừng lại ở hình
thức mà thôi, chẳng bao giờ có mặt trong thực tế và tác động lên thực
tiễn vốn rất sinh động.