Không thể phủ định rằng giáo dục Phật giáo dựa trên ba phương
diện minh triết Phật dạy bao gồm giáo dục đạo đức (giới), giáo dục
chuyển hóa (thiền) và giáo dục tri thức giải quyết vấn nạn (tuệ). Người
được đào tạo trong trường Phật học, ngoài kiến thức thông thường còn
thực tập chuyển hóa, mang tính ứng dụng thực tiễn và có khả năng giải
quyết các nỗi khổ niềm đau của bản thân và tha nhân.
Để nền giáo dục Phật giáo tại Việt Nam đáp ứng được các mục đích nêu
trên, chương trình đào tạo Phật học tại Việt Nam cần có sự thích ứng với
xu thế giáo dục Phật học trên thế giới là điều không thể bỏ qua. Trong
bài viết này, tôi trình bày vài nét về a) Bản chất đào tạo Phật học, b)
Nền Phật học Tây Tạng và c) Hướng đến cải cách giáo dục Phật học tại
Việt Nam. Các vấn đề trên chỉ được nêu ra một cách khái quát, chưa đi
sâu vào việc phân tích.
I. BẢN CHẤT ĐÀO TẠO PHẬT HỌC KHÁC VỚI ĐÀO TẠO GIÁO SĨ
Khoa Phật học gọi đủ là Khoa nghiên cứu Phật giáo ( Department of Buddhist Studies )
là một ngành học độc lập với cấp đào tạo từ cử nhân đến tiến sĩ. Học
viện đào tạo ngành Phật học như một ngành khoa học, chứ không đào tạo
các giáo sĩ làm công tác truyền đạo như các Chủng viện của Thiên chúa
giáo.
Hiện nay, trên thế giới có trên 100 trường đại học nổi tiếng có Khoa nghiên cứu Phật học (Department of Buddhist Stud ies).
Các trường đại học ở các nước tiên tiến về giáo dục như Hoa Kỳ, châu
Âu, Nhật Bản v.v… đào tạo cấp thạc sĩ và tiến sĩ về Khoa nghiên cứu Phật
học. Trong khi các đại học ở châu Á như Tích Lan, Miến Điện, Trung
Quốc, Nepal, Bhutan đào tạo từ cử nhân đến tiến sĩ.
Các nước Phật giáo Nam tông như Ấn Độ, Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan,
Lào, Campuchia, chương trình Phật học chỉ đào sâu triết học Nguyên
thủy. Trong khi đó, các nước Phật giáo Đại thừa như Trung Quốc, Nhật
Bản, Hàn Quốc chủ yếu đào tạo về triết học Đại thừa.
So với các nước khác, nội dung đào tạo Phật học của các trường Phật
học tại Việt Nam bao quát cả hai truyền thống Phật giáo Nam tông (Nguyên
thủy) và Phật giáo Bắc tông (Đại thừa) với văn hệ Sanskrit.
Hiện có trên 100 trường đại học lớn trên thế giới (gồm hơn 30 đại học
tại Hoa Kỳ) có đào tạo chuyên ngành Phật học với mã đào tạo độc lập
trong hệ thống các trường đại học quốc dân, được hỗ trợ ngân sách của
chính phủ và các đoàn thể phi chính phủ. Ngành P hật học được liệt vào 3
Khoa chính sau đây:
- Khoa nghiên cứu Phật học (Department of Buddhist Studies ): khoảng 70%.
- Khoa nghiên cứu Tôn giáo (Department of Religious Studies ): khoảng 05%.
- Khoa Triết học (Department of Philosophy ): khoảng 25%.
Điều này cho thấy ngành nghiên cứu Phật học có chỗ đứng quan trọng
như ngành Triết học. Ngành Thần học và ngành nghiên cứu Tôn giáo ngày
càng ít trường đào tạo, vì chỗ đứng của nó trong nghiên cứu học thuật
mất dần. Việc cấp mã đào tạo độc lập từ cử nhân đến tiến sĩ cho ngành
nghiên cứu Phật học trong bối cảnh giáo dục trong nước và toàn cầu là
điều rất cần thiết. Nếu vì những lý do khách quan chưa thể cấp mã đào
tạo độc lập thì có thể đặt vào chuyên ngành Phật học vào mã đào tạo
triết học hay nghiên cứu tôn giáo học, như một số các nước đã làm.
Việt Nam là nước mà ảnh hưởng của đạo Phật về phương diện lịch sử,
văn hóa, văn học và triết lý đối với dân tộc rất đáng kể. Truyền thống
ngành nghiên cứu Phật học phát triển khá mạnh trong các HVPGVN trong
nhiều năm qua. Văn bằng cử nhân Phật học do các HVPGVN cấp đã từ lâu
được chấp nhận tương đương với bằng cử nhân nước ngoài và được tuyển học
thạc sĩ ở nhiều trường đại học trên thế giới (bao gồm Hoa Kỳ, Nhật Bản,
Trung Quốc, Đài Loan, Ấn Độ, Thái Lan v.v…). Nếu chưa thể đặt các
HVPGVN vào trong hệ thống các trường Đại học quốc dân trong giai đoạn
này qua việc công nhận văn bằng cử nhân Phật học tương đương với cử nhân
triết học hay cử nhân tôn giáo học thì cũng nên cho phép các HVPGVN
đào tạo Thạc sĩ và Tiến sĩ mang tính đặc thù của Phật giáo. HVPGVN tại
TP.HCM vừa được Văn phòng Chính phủ cho phép đào tạo thí điểm chương
trình Thạc sĩ Phật học từ đầu năm 2012. Đây là dấu hiệu tích cực với
nhiều hứa hẹn cho nền giáo dục Phật học tại Việt Nam.
II. GIÁO DỤC PHẬT HỌC TẠI TÂY TẠNG
Mặc dù có nhiều khuynh hướng giáo dục Phật học trên thế giới, ta có
thể phân loại thành hai nhóm chính. Nhóm một có mối liên hệ hoặc dựa
trên nền giáo dục thế học cộng thông làm căn bản. Nhóm hai không dựa vào
kiến thức thế học về thời gian đào tạo và chương trình đào tạo. Nhóm
một thuộc các truyền thống giáo dục của các nước Phật giáo và các trường
đại học (Universities), cao đẳng cộng đồng (Colleges) khắp thế giới.
Nhóm hai chính là nền giáo dục Phật giáo tại Tây Tạng.[1]
Trong truyền thống giáo dục Tây Tạng, cụ thể là truyền thống Gelug, bằng Geshe[2]
là bằng Phật học cao nhất, tương đương với bằng tiến sĩ trong nền
giáo dục phương Tây. Sự khác nhau căn bản giữa bằng Geshe và bằng tiến
sĩ là để đạt được Geshe chỉ có Tăng được ghi danh học; người tại gia và
ni giới không được theo học; chương trình kéo dài từ 20 -40 năm, nhấn
mạnh đến việc thi học thuộc lòng kinh sách (blo-rgyugs) và tranh biện bằng miệng (rtsod-rgyugs);[3] đang khi bằng tiến sĩ chỉ mất trung bình 8 năm (4 năm cử nhân, 2 năm thạc sĩ, 2 năm tiến sĩ) sau khi tốt nghiệp lớp 12.
Theo Bộ Ngoại giao Trung Quốc, trước năm 1959, có khoảng 2000 tu viện
Phật giáo với khoảng 110,000 Tăng Ni tại Tây Tạng (chiếm 10% dân số
toàn quốc). Trong suốt 1000 năm qua, giáo dục Tây Tạng và mọi phương
diện đời sống và ngành nghề mang đậm nét giáo dục Phật giáo. Ngoài tu
viện Phật giáo, không có trường học đời. Ngoài ngành Phật học, không có
giáo dục nào khác. Không có giáo sư đời, chỉ có các giáo viên là các vị
Lama Tây Tạng.157 Cũng theo Bộ Ngoại giao Trung Quốc, đó là lý có đến
80% Tăng sĩ Tây Tạng thất học, chỉ có số ít các Lama Tây Tạng có được
học đến nơi đến chốn, trở thành các tu sĩ lãnh đạo các tu viện hoặc được
bổ nhiệm làm các nhân viên cao cấp của chính phủ.[4]
Nền giáo dục Tu viện Tây Tạng gồm 5 môn học chính, dựa vào mô hình giáo dục ”ngũ minh”[5] của Ấn Độ, bao gồm: a) Văn học Bát-nhã (Prajnaparamita = phar-phyin), b) Văn học Trung Luận (Madhyamaka = dbu-ma), c) Nhận thức (Pramana = tshad-ma), d) Luận tạng (Abhidharma = mngon-par chos, mdzod), e) Luật tạng (Vinaya =‗dul-ba). Ngoài ra, người học còn được học thêm tư tưởng Phật học của bốn trường phái Phật giáo chính như Kinh lượng bộ (Sautrantika = mDo-sde-pa), Duy thức bộ (Chittamatra =Sems-tsam-pa), Trung Quán bộ (Madhyamaka = dBu-ma) và Tỳ-bà-sa bộ (Vaibhashika =Bye-brag smra-ba).
Kể từ khi lưu vong tại Ấn Độ, đức Dalai Lama đã cải cách chương trình
giáo dục Phật học truyền thống thành mô hình có liên hệ với giáo dục
thế học cộng thông ngày nay. Các Tăng Ni Tây Tạng tại Ấn Độ ngày nay
phải học 8 năm[6] tiểu học và trung học tại các
trường giáo dục cộng thông với các học sinh thế học tại các trường công
hoặc tư, bao gồm tiếng Tây Tạng, tiếng Anh, tiếng Hindi, toán, xã hội
học và khoa học.
Sau đó, Tăng Ni phải học 11 năm về 5 môn học chính nêu trên. 5 năm
đầu c hỉ học văn học Bát- nhã (gồm chương 1, 2, 3, 4 và 8). Năm thứ sáu
học Duy thức. Năm thứ 7 -9 học về Trung Quán luận. Năm thứ 10 học về
Luận tạng. Năm thứ 11 học về giới luật. Trong mỗi năm học, phải có 1
tháng đào tạo về các loại nhận thức. Mỗi năm học đều c ó 2 kỳ thi (rgyugs-sprod) gồm thi học thuộc lòng (blo-rgyugs) và thi tranh biện (rtsod-rgyugs). Với chủ trương cải cách của đức Dalai Lama, các học viên phải thi viết (bri-rgyugs), thi làm thơ (rtsom-bri) và môn lịch sử tôn giáo và văn hóa Tây Tạng (rgyal-rabs chos-byung).
Sau khi hoàn tất 11 năm giáo dục chính, học viên nào đậu kỳ thi tranh biện trước Hội đồng tăng sĩ Jangtsey (gling-bsre dam-bca‘) và phải thuyết trình tranh biện với một Geshe Shartsey trước Hội đồng Ganden sẽ được cấp bằng Geshe (dGe-bshes rDo-ram-pa).
Mỗi năm chỉ có 2 Tăng sĩ được đậu bằng Geshe. Số còn lại phải chờ nhiều
năm mới đến phiên mình. Sau chương trình cải cách của đức Dalai Lama,
người nhận bằng Geshe không còn bị giới hạn số lượng theo năm nữa.
Để đào tạo các chuyên gia về Phật học, chương trình hậu Geshe (Geshe Lharampa hay dGe-bshes Lha-ram-pa) gồm 6 năm. Tăng sĩ tốt nghiệp Geshe phải đậu kỳ thi Gelug ( dGe-lugs rgyugs- sprod).
Suốt sáu năm này, sinh viên hậu Geshe học lại 5 môn học chính trong
chương trình Geshe với hướng chuyên sâu và nâng cao, từ các bản sớ giải
của các luận sư nổi tiếng như Tsongkhapa, Gyeltsabjey và Kaydrubjey.
Mỗi năm sinh viên phải thi tranh biện và thi viết. Sau khi hoàn tất
chương trình, sinh viên phải trình bày tranh biện tại Lễ hội Đại cầu
nguyện ( sMon-lam chen-mo) trước Hội đồng tăng sĩ của 3 tu viện chính của phái Gelug ( gdan-sa gsum)
tại khu vực Lhasa là Ganden, Sera và Drepung. Phải thành công trong
tranh biện trước Hội đồng Ganden của Jangtsey và Shartsey mới đậu bằng
Geshe Dorampa. Trước chương t rình cải cách, chỉ có 2 tăng sĩ được cấp
bằng này/ năm. Nay số lượng không giới hạn nữa.
Chương trình mật tông (Tantra) gồm 1 năm chỉ dành cho các Geshe
Tsogrampas và Geshe Lharampas. Chương trình được đào tạo tại Cao đẳng
Mật tông thấp Gyumay ( rGyud-smad Grva- tshang) và Cao đẳng Mật tông cao Gyuto (rGyud-stod Grva-tshang). Khi học Mật tông, Tăng sĩ theo học được gọi là Geshe Karampa (dGe-bshes bKa‘-ram-pa). Mỗi năm chỉ có 2 tăng sĩ được thi tại các Cao đẳng Mật tông tại kỳ thi Mật tông chính thức ( sngags dam-bca‘). Người thi đậu sẽ được trao bằng Geshe Ngagrampa (dGe-bshes sNgags-ram-pa).
Trước năm 1959, để có bằng Geshe (tương đương tiến sĩ), học viên phải
trải qua gần 40 năm, mỗi năm chỉ có 2 vị. Với chủ trương cải cách của
đức Dalai Lama, người đậu bằng Geshe phải trải qua tối thiểu 17 năm (11
năm học 5 môn chính, 6 năm học chuyên sâu và 1 năm học Mật tông) kể từ
khi hoàn tất trung học. Dưới tác động của nền giáo dục tiên tiến của
phương Tây, nền giáo dục truyền thống Tây Tạng đã thay đổi. Nhờ đó, 40
năm dài đăng đẳng còn lại 17 năm. So với tiến sĩ của phương Tây chỉ mất
trung bình 8 năm (4 năm cử nhân, 2 năm thạc sĩ và 2 năm tiến sĩ), chương
trình Geshe của Tây Tạng vẫn quá dài và lâu. Dù sao, chương trình cải
cách của đức Dalai Lama là đáng trân trọng, thể hiện nhu cầu thích ứng
giáo dục Phật học của Tây Tạng với nền giáo dục chung trên thế giới.
Tại các nước theo Phật giáo Nam tông như Tích Lan, Miến Điện, Thái
Lan, Lào và Campuchia, chương trình Phật học chỉ bắt đầu từ cử nhân (4
năm). Từ lớp 1 đến lớp 12, Tăng sĩ học chung với học sinh đời tại các
trường do Bộ Giáo dục quy định, thường nằm trong khuôn viên Chùa và
trong thời hiện đại độc lập với Chùa. Các Tăng sĩ không phải trải qua
các chương trình Sơ đẳng, Trung cấp và Cao đẳng Phật học như ở Việt Nam.
Nhờ học chung chương trình giáo dục do Bộ Giáo dục quy định, các Tăng
sĩ Phật giáo Nam tông có kiến thức phổ thông vững, không phải cùng lúc
hai chương trình thế học và Phật học. Tuổi trung bình một Tăng sĩ Phật
giáo Nam tông đậu bằng tiến sĩ Phật học hoặc các ngành học khác là 26
tuổi (12 năm trung học từ 7 tuổi, 4 năm cử nhân, 2 năm thạc sĩ và 2 năm
tiến sĩ). Mô hình này rất phù hợp với giáo dục cộng thông dành cho người
đời.
Tại Hoa Kỳ, Canada, châu Âu và châu Úc, chương trình Phật học thường
bắt đầu từ Tiến sĩ. Mấy chục năm trở lại đây, chương trình Phật học bắt
đầu từ Thạc sĩ. Cả hai chương trình vừa nêu đều không bắt buộc sinh viên
phải trải qua Cử nhân Phật học như các ngành học thông thường khác. Chỉ
với thời gian đào tạo 2 năm tiến sĩ, hoặc 4 năm từ thạc sĩ đến tiến sĩ
Phật học, chương trình đào tạo tại phương Tây vẫn đảm bảo chất lượng đào
tạo. Các thạc sĩ và tiến sĩ Phật học ra trường ở các nước tiên tiến
phương Tây đã trở thành các học giả Phật học lỗi lạc trên thế giới,
trước tác và dịch thuật nhiều tác phẩm Phật học có giá trị.
Trong truyền thống Phật học Tây Tạng, có ít ác vị Geshe có năng lực
trước tác các tác phẩm Phật học có tầm vóc quốc tế như các học giả
phương Tây tại các trường nổi tiếng. Nói cách khác, chất lượng đào tạo
Phật học không bị lệ thuộc vào thời gian quá dài lâu như trong mô hình
giáo dục truyền thống tại Tây Tạng, từ 20-40 năm!
Nếu lấy giáo dục Phật học tại Tây Tạng (vốn có tính đặc thù như ở
Việt Nam) làm quy chiếu so sánh, ta thử đặt ra câu hỏi: “Có cần cải cách
hệ thố ng giáo dục của GHPGVN hay không?” Câu trả lời theo tôi là rất
cần thiết và cấp bách. Sau đây là vài ý kiến ban đầu về cải cách giáo
dục Phật học tại Việt Nam.
III. CẢI CÁCH GIÁO DỤC PHẬT HỌC TẠI VIỆT NAM
1. Các cấp học trong nền giáo dục GHPGVN
Nền giáo dục của GHPGVN hiện nay gồm có các cấp học sau đây:
a) Giáo dục Sơ cấp Phật học: Trung bình 2 năm, chủ yếu được áp dụng
tại TP.HCM và một số tỉnh miền Tây. Miền Bắc và miền Trung không bắt
buộc các Sa-di và Sa-di-ni phải học chương trình học này.
b) Giáo dục Trung cấp Phật học: Trung bình 4 năm, được áp dụng bắt
buộc trên toàn quốc. Hiện tại có 33 trường Trung cấp Phật học. Đây được
xem là điều kiện tiên quyết để được dự thi vào các lớp Cao đẳng hoặc Cử
nhân Phật học tại 3 HVPGVN ở Hà Nội, Huế và TP.HCM.
c) Giáo dục đại học và sau đại học Phật giáo (sau đây gọi chung là
giáo dục đại học) đào tạo trình độ Cao đẳng (2-3 năm), Cử nhân (4 năm),
Thạc sĩ (2 năm) và Tiến sĩ Phật học (2-5 năm).
Từ năm 1984 đến nay, tuyển sinh tại các trường Phật học dựa vào tổng
thời gian của toàn khóa hòa. Sơ cấp 2 năm một lần. Trung cấp 4 năm một
lần. Cao đẳng 2 -3 năm một lần. Cử nhân 4 năm một lần. Riêng tại HVPGVN
tại TP.HCM từ khóa VI (2006 -2010), tuyển sinh 2 năm một lần.
Chương trình thạc sĩ Phật học chỉ có tại HVPGVN tại TP.HCM, tuyển
sinh mỗi năm một lần. Cho đến nay (2012) chưa có HVPGVN nào được cho
phép đào tạo Tiến sĩ Phật học.
2. Ưu điểm và khuyết điểm của hệ thống giáo dục Phật giáo tại Việt Nam
Có thể khẳng định đây là mô hình đào tạo Phật học mang tính đặc thù
của PGVN trong mấy thập niên trở lại đây. Mô hình giáo dục Phật học này
có những điểm ưu và khuyết sau đây:
a) Ưu điểm lớn nhất của mô hình giáo dục này là dựa
vào thời điểm xuất gia, bất luận tuổi tác nhỏ, trung niên hay lão niên,
Tăng Ni sinh được đào tạo Phật học nên nắm vững Phật pháp để thực tập
chuyển hóa và làm đạo ở mức độ đơn giản.
b) Kiến thức phổ thông không vững : Do quy định kế
thừa giữa các cấp học (từ sơ cấp, trung cấp, cao đẳng và đại học), các
vị xuất gia ở tuổi thiếu niên sẽ không thể học song song hai chương
trình giáo dục phổ thông và giáo dục Phật học cùng một lúc. Điều này đã
dẫn đến tình trạng phần lớn các Tăng Ni Việt Nam xuất gia từ nhỏ phải
học bổ túc văn hóa (vốn chỉ có ở Việt Nam), thay vì phải theo học các
trường phổ thông thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo để có chất lượng kiến thức
cao hơn. Do vì phải học bổ túc lớp 12 ban đêm song song với chương
trình Sơ cấp hay Trung cấp Phật học (Tăng buổi sáng, Ni buổi chiều),
Tăng Ni phần lớn không có kiến thức thế học vững vàng như các học sinh
tốt nghiệp 12 theo hệ chính quy. Kết quả là năng lực tiếp thu Phật pháp
tại các trường lớp Phật học cũng bị những giới hạn nhất định.
Khi đậu các kỳ thi tuyển cử nhân Phật học tại các HVPGVN, phần lớn
các Tăng Ni sinh có bằng 12 hệ bổ túc văn hóa khó theo kịp chương trình
tín chỉ, nên phải học vất vã hơn các Tăng Ni sinh tốt nghiệp 12 hệ chính
quy, đi tu muộn hơn. Nói cách khác, kiến thức phổ thông là kiến thức
nền mà không vững thì khi lên học ở cấp Cử nhân trở nên, sinh viên gặp
nhiều trở ngại và khó đậu điểm giỏi tại các kỳ thi giữa kỳ và cuối mùa
học.
c) Thời gian đào tạo quá dài lâu: Theo mô hình giáo
dục của GHPGVN hiện tại, để có được một tiến sĩ Phật học, ta phải mất
trung bình 16 năm (2 năm sơ cấp, 4 năm trung cấp, 2 năm cao đẳng, 4 năm
cử nhân, 2 năm thạc sĩ và 2-5 năm tiến sĩ), tính từ lớp 12 (nếu cộng sơ
cấp Phật học vào) và khoảng 14 năm nếu không tính sơ cấp Phật học (như ở
miền Bắc và miền Trung Việt Nam). So với hệ thống giáo dục Phật học tại
các nước Nam tông, Việt Nam được xem là bị tụt hậu. So với các nước
tiên tiến về giáo dục, ta phải mất gấp đôi thời gian mới đào tạo được 1
tiến sĩ Phật học. Phần lớn để có được tiến sĩ Phật học, Tăng Ni Việt Nam
đã đến tuổi U40, U50, nên ít nhiều ảnh hưởng đến năng lực và hiệu quả
Phật sự, ngay cả trong ngành giáo dục Phật học cũng không phải là ngoại
lệ.
d) Bảo hòa kiến thức do học trùng : Vì trải dài
chương trình đào tạo quá nhiều năm như nêu trên, chương trình đào tạo
Phật học của GHPGVN hiện tại không thể không bị trùaijgiuw giữa các cấp
học. Dù có được đào tạo theo mô hình “lớp nhỏ với kiến thức phổ thông và
lớp lớn với kiến thức nâng cao”, các Tăng Ni sinh theo học trình tự từ
thấp đến cao không thể không bị rơi vào cảm giác “đã biết rồi” (mà trên
thực tế thì biết chẳng sâu) nên dẫn đến tình trạng “bị bão hòa”, không
thể tiếp thu cái mới được nữa. Điều này dẫn đến tình trạng ỷ lại trong
học tập nên kết quả học tập không cao như mong đợi.
3. Tiêu chí cải cách giáo dục Phật học tại Việt Nam
a) Tính hệ thống: Chương trình giáo dục Phật học tại
Việt Nam theo chương trình cải cách cần đảm bảo tính hệ thống, từ thấp
đến cao, kế thừa giữa các cấp học, các trình độ đào tạo, theo đó, phải
bảo đảm tính phương pháp đào tạo, tính thống nhất về nội dung giảng dạy,
tính thiết thực hiện tại nhằm khẳng định Phật giáo là nguồn trị liệu
khổ đau có hiệu quả của nhân loại.
b) Tính giáo khoa: Để đảm bảo được chất lượng đào
tạo, kiến thức và kỹ năng cho người học, các chương trình giáo dục Phật
học ở các cấp học phải được cụ thể hóa thành “sách giáo khoa” đối với
giáo dục Sơ cấp Phật học và Trung cấp Phật học, hoặc “giáo trình và tài
li ệu giảng dạy” ở giáo dục đại học Phật giáo. Sách giáo khoa, giáo
trình và tài li ệu giảng dạy tại các cấp học thuộc giáo dục Phật giáo
Việt Nam phải đáp ứng yêu cầu về nguyên lý, tính hệ thống, và phương
pháp giáo dục.
c) Tính phương pháp: Giáo dục Phật giáo phải phù hợp
với đặc điểm của từng môn học; phương pháp tự học, khả năng làm việc
theo nhóm; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức Phật pháp vào thực tiễn
hành trì; giúp Tăng Ni sinh tinh tấn và thành công trong tu học ở hiện
tại và làm Phật sự về sau.
d) Tính tương tục thời gian đào tạo : Hiện nay,
chương trình giáo dục Phật học được tổ chức thực hiện theo khóa học 2
năm một lần đối với Sơ cấp Phật học, 4 năm một lần đối với Trung cấp
Phật học; 2-3 năm một lần đối với Cao đẳng Phật học; 4 năm một lần Cử
nhân Phật học.
Tính tương tục hằng năm trong đào tạo Phật học sẽ đảm bảo được chất lượng đào tạo và đầu ra.
Để đảm bảo tính liên tục, các trường Phật nên tiến đến mô hình đào
tạo 2 năm/ 1 lần, sau đó, mỗi năm một lần. Hiện tại, HVPGVN tại TP.HCM
đang đi đầu về mô hình này, tổ chức tuyển sinh Cử nhân Phật học 2 năm/
lần và Thạc sĩ Phật học mỗi năm/ lần.
e) Tính liên thông: Giữa các chương trình và cấp học
ở các trường Phật học và các HVPGVN, cần có sự liên thông trong đào tạo
Phật học. Theo mô hình đào tạo liên thông, Tăng Ni sinh tốt nghiệp Cao
đẳng Phật học tại các trường Cao đẳng Phật học ở các tỉnh thành không
phải học năm 1-2 của chương trình Cử nhân ở các HVPGVN, mà được học
thẳng từ năm thứ 3 Cử nhân Phật học. Để đảm bảo kiến thức sàn, Tăng Ni
sinh học chương trình liên thông phải bổ túc một số môn học bắt buộc tùy
theo quy định của từng HVPGVN. Với mô hình này, Tăng Ni sinh tốt nghiệp
Cao đẳng Phật học không phải mất 2 năm như trước đây. Đây là mô hình
được bộ Giáo dục và Đào tạo áp dụng đối với các Cao đẳng và Đại học trực
thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo trong nhiều năm qua.
f) Tính hiện đại : Nhằm cập nhật cho người học các
kiến thức mới và các khám phá mới trong ngành Phật học trên toàn cầu,
các môn học và nội dung môn học trong các trường Phật học cần được cập
nhật, chỉnh lý, bổ sung, theo hướng hiện đại, toàn diện và có hệ thống.
g) Quy định về đào tạo liên tỉnh hoặc khu vực
Các trường Phật học trực thuộc GHPGVN về bản chất nên là các trường
đào tạo theo mô hình liên tỉnh hoặc khu vực. Để đảm bảo chất lượng đào
tạo Phật học, duy trì tính liên tục hằng năm và bền vững trong đào tạo,
các Ban Trị sự tỉnh thành hội Phật giáo lân cận trong một khu vực liên
kết thành lập một trường Trung cấp Phật học, trường Cao đẳng Phật học
cho các Tăng Ni sinh trong khu vực của mình. Nếu chính sách này được áp
dụng, các Ban Trị sự Phật giáo tỉnh thành sẽ tiết kiệm được ngân sách
đầu tư giáo dục ở tỉnh mình.
h) Ngôn ngữ giảng dạy: Tiếng Việt là ngôn ngữ chính
thức dùng trong các trường Phật học và cơ sở giáo dục Phật giáo khác.
Tùy theo mục tiêu giáo dục và yêu cầu cụ thể về nội dung giáo dục ở cấp
Cử nhân tại các HVPGVN, Ban Giáo dục Tăng Ni TW cho phép việc dạy và học
bằng tiếng nước ngoài, như khoa Tiếng Anh Phật pháp (Dharma English
Department) và khoa Tiếng Trung Phật pháp (Dharma Chinese Department)
đang được áp dụng từ năm 2010 tại HVPGVN tại TP.HCM.
Nhằm giúp Tăng Ni sinh có khả năng sử dụng và phân tích văn bản, cổ
ngữ quy định trong chương trình giáo dục Phật học nên bao gồm Pali,
Sanskrit, Tạng ngữ và Hán ngữ. Ngoài ra, tại các cấp Phật học, tiếng Anh
Phật pháp nên được đào tạo nhằm giúp Tăng Ni có thể sử dụng ngôn ngữ
thông dụng này tiếp cận các nguồn tài liệu mới được khám phá và công bố
trên thế giới dưới hình thức sách thư viện và online.
4. Cải cách giáo dục phổ thông Phật học
a) Giáo dục Sơ cấp Phật học: Thời gian học là 1 năm.
Đối tượng: Người tập sự xuất gia, các Sa-di, Sa-di-ni và
Thức-xoa-ma-na-ni, bất luận tuổi tác. Bản chất chương trình: Không bắt
buộc, nhằm giúp người mới xuất gia ở các địa phương mà trường Trung cấp
Phật học đã khai giảng rồi, có được cơ hội học Phật, bồi dưỡng chính tín
trong nhưng năm tháng mới đi tu.
b) Giáo dục Trung cấp Phật học: Thời gian học là 2
năm (thay vì 4 năm như hiện nay). Đối tượng: Các Sa-di, Sa-di-ni,
Thức-xoa-ma-na-ni và Tăng Ni trẻ. Bản chất chương trình: Bắt buộc đối
với Sa-di muốn thọ giới Tỳ-kheo và Sa-di-ni muốn thọ giới Thức-xoa và
Thức-xoa muốn thọ giới Tỳ-kheo-ni. Đây cũng là điều kiện tuyển sinh vào
Cao đẳng hay Cử nhân Phật học tại các HVPGVN.
c) Yêu cầu căn bản của giáo dục phổ thông Phật học :
Giúp cho Tăng Ni sinh có những hiểu biết phổ thông cơ bản về cuộc đời
đức Phật, tinh hoa triết lý Phật giáo, các trường phái và tông phái đạo
Phật, các hành trì căn bản về giới định huệ, các kiến thức về khoa học
xã hội, khoa học tự nhiên tương đương với trình độ Trung học phổ thông,
pháp luật, tin học, ngoại ngữ và cổ ngữ Phật giáo.
d) Thống nhất chương trình và sách giáo khoa: Để
đạt được mục tiêu giáo dục phổ thông Phật giáo ở phạm vi toàn quốc, Ban
Giáo dục Tăng Ni TW cần thống nhất chương trình đào tạo Sơ cấp Phật học,
Trung cấp Phật học và Cao đẳng Phật học trên phạm vi toàn quốc. Các
trường này nên dạy cùng chương trình, môn học, thi cùng đề trong cùng
thời điểm tại các địa điểm khác nhau.
Mỗi cấp học và niên học đều có sách giáo khoa, nhằm c ụ thể hóa các
yêu cầu về nội dung kiến thức Phật học, đáp ứng yêu cầu về phương pháp
giáo dục phổ thông, giúp cho giảng viên Phật học thống nhất nội dung
giảng dạy và giúp cho người học dễ dàng nghiên cứu bài trước tại Chùa,
theo dõi bài trên lớp và đảm bảo kết quả tốt trong giảng dạy và học tập.
e) Dự thảo chương trình Trung cấp Phật học cải cách
NĂM THỨ NHẤT, HỌC KỲ I
|
MÔN HỌC
|
SÁCH GIÁO KHOA
|
1
|
Phật học căn bản
|
Phật học cơ bản 1 do Ban Hoằng pháp TƯ soạn
|
2
|
Kinh Pháp cú
|
Thiện Nhựt soạn
|
3
|
Kinh Di giáo
|
TT. Thích Viên Giác soạn
|
4
|
Quy Sơn cảnh sách
|
Kim Đài dịch giải
|
5
|
Việt văn
|
- Việt văn lớp 11 của Bộ Giáo dục và Đào tạo
|
6
|
Hán văn Phật pháp/
Anh văn Phật pháp
|
- Sơ đẳng Phật học giáo khoa thư
- Sangha Talk do Trần Phương Lan soạn
|
NĂM THỨ NHẤT, HỌC KỲ II
|
MÔN HỌC
|
SÁCH GIÁO KHOA
|
1
|
Lược sử Phật giáo Ấn Độ
|
HT. Thích Thanh Kiểm soạn
|
2
|
Kinh Na-tiên Tỳ-kheo
|
Cao Hữu Đính soạn dịch
|
3
|
Giới luật xuất gia
|
TT. Thích Giác Giới soạn
|
4
|
Phát bồ đề tâm văn
|
HT. Thích Trí Quang dịch chú
|
5
|
Việt văn
|
- Sách Việt văn lớp 12 của Bộ GD va ĐT
|
6 |
Hán văn Phật pháp/
Anh văn Phật pháp
|
- Sơ đẳng Phật học giáo khoa thư
- Sangha Talk do Trần Phương Lan soạn
|
NĂM THỨ HAI, HỌC KỲ I
|
MÔN HỌC
|
SÁCH GIÁO KHOA
|
1
|
Lược sử Phật giáo VN
|
HT. Thích Minh Tuệ soạn dịch
|
2
|
Kinh Bát đại nhân giác
|
TT. Thích Viên Giác soạn dịch
|
3
|
Kinh Thập thiện
|
HT. Thích Hoàn Quan dịch
|
4
|
Nhị khóa hiệp giải
|
HT. Thích Hành Trụ dịch
|
5
|
Luận Bách pháp minh môn
|
|
6
|
Hán văn Phật pháp/
Anh văn Phật pháp
|
- Sơ đẳng Phật học giáo khoa thư
- Sangha Talk do Trần Phương Lan soạn
|
NĂM THỨ HAI, HỌC KỲ II
|
MÔN HỌC
|
SÁCH GIÁO KHOA
|
1
|
Kinh Tứ thập Nhị chương
|
TT. Thích Nhật Từ dịch giải
|
2
|
Kinh Hiền Nhân
|
HT. Thích Hành Trụ dịch
|
3
|
Duy thức tam thập tụng
|
HT. Thích Từ Thông soạn dịch
|
4
|
Văn học Phật giáo Lý Trần
|
TT. Thích Phước Đạt soạn dịch
|
5
|
Thiền lâm bảo huấn
|
HT Thích Thanh Kiểm dịch chú
|
6
|
Hán văn Phật pháp/
Anh văn Phật pháp
|
- Sơ đẳng Phật học giáo khoa thư
- Sangha Talk do Trần Phương Lan soạn
|
5) Dự thảo chương chương trình Cao đẳng Phật học cải cách
a) Mô hình Cao đẳng: Có hai chương trình cao đẳng
Phật học. Chương trình 1: Thi tuyển và học 2 năm đầu tại các HVPGVN hoặc
theo chương trình của các HVPGVN. Nếu không có nhu cầu học tiếp, các
Tăng Ni sinh làm luận văn tốt nghiệp. Chương trình 2: Thi tuyển và học
theo chương trình do Ban Giáo dục Tăng Ni TW quy định.
b) Thời gian học: Chương trình học chính quy là 2
năm, gồm 4 học kỳ. Mỗi học kỳ học 6 môn, trong đó, môn ngoại ngữ có thể
lựa chọn hoặc Hán văn Phật pháp hoặc Anh văn Phật pháp. Mỗi môn học 45
tiết và hoàn tất trong một học kỳ, ngoại trừ các môn Hán văn Phật pháp
và Anh văn Phật pháp.
c) Cấu trúc chương trình: Gồm ba khối kiến thức sau đây:
c.1. Khối kiến thức chung
1. Tiếng Việt thực hành (bắt buộc)
2. Lịch sử Việt Nam (bắt buộc)/
3. Lịch sử Văn học Việt Nam
4. Triết học Mác Lê-nin (bắt buộc)
5. Lịch sử tôn giáo thế giới
6. Hán ngữ (4 học kỳ)
7. Anh ngữ (2 học kỳ)
c.2. Khối kiến thức cơ sở Phật học
1. Cương yếu Phật học
2. Đại cương văn học Hán
3. Đại cương giới luật Phật giáo
4. Đại cương thiền học Phật giáo
5. Văn học Phật giáo Việt Nam
6. Lịch sử Phật giáo Ấn Độ
7. Lịch sử Phật giáo Việt Nam
8. Lịch sử Phật giáo Trung Quốc
c.3. Khối kiến thức chuyên ngành Phật học
1. Tư tưởng Trung bộ Kinh/ Trung A-hàm
2. Tư tưởng Trường bộ Kinh/ Trường A-hàm
3. Kinh Pháp Hoa
4. Kinh Kim Cang
5. Thắng pháp tập yếu luận
6. Trung Quán luận
d) Chương trình Cao đẳng Phật học dự kiến
NĂM THỨ NHẤT, HỌC KỲ I
|
MÔN HỌC
|
SÁCH GIÁO KHOA
|
1
|
Cương yếu Phật học
|
Phật học khái luận của HT. Thích Chơn Thiện
|
2
|
Lịch sử Phật giáo Ấn Độ
|
TT. Thích Viên Trí
|
3
|
Đại cương giới luật Phật giáo
|
Luật học cương yếu của HT. Thánh Nghiêm
|
4
|
Lịch sử Việt Nam
|
Sách giáo khoa của Bộ GD và ĐT
|
5
|
Tiếng Việt thực hành
|
Giáo án HVPGVN tại TP.HCM
|
6
|
Hán văn/ Anh văn Phật pháp
|
Giáo án HVPGVN tại TP.HCM
|
NĂM THỨ NHẤT, HỌC KỲ II
|
MÔN HỌC
|
SÁCH GIÁO KHOA
|
1
|
Đại tạng kinh Phật giáo TQ
|
Giáo án HVPGVN tại TP.HCM
|
2
|
Đại cương thiền học Phật giáo
|
Giáo án HVPGVN tại TP.HCM
|
3
|
Lịch sử Phật giáo Việt Nam
|
Lê Mạnh Thát
|
4
|
Văn học Việt Nam
|
Giáo án của Bộ GD và ĐT
|
5
|
Triết học Mác Lê-nin
|
Giáo án của Bộ GD và ĐT
|
6
|
Hán văn/ Anh văn Phật pháp
|
Giáo án HVPGVN tại TP.HCM
|
NĂM THỨ HAI, HỌC KỲ I
|
MÔN HỌC
|
SÁCH GIÁO KHOA
|
1
|
Tư tưởng Trung bộ Kinh/ A-hàm
|
HT. Thích Chơn Thiện soạn
|
2
|
Tư tưởng Kinh Kim Cang
|
HT. Thích Chơn Thiện soạn
|
3
|
Thắng pháp tập yếu luận
|
HT. Thích Minh Châu dịch
|
4
|
Văn học Phật giáo Lý Trần
|
TT. Thích Phước Đạt soạn
|
5
|
Lịch sử tôn giáo thế giới
|
Mười tôn giáo lớn trên thế giới của Hoàng Tâm
Xuyên, NXB. Chính trị Quốc gia
|
6
|
Hán văn/ Anh văn Phật pháp
|
Giáo án HVPGVN tại TP.HCM
|
NĂM THỨ HAI, HỌC KỲ II
|
MÔN HỌC
|
SÁCH GIÁO KHOA
|
1
|
Tư tưởng Kinh Trường Bộ
|
HT. Thích Minh Châu dịch
|
2
|
Tư tưởng Kinh Pháp Hoa
|
HT. Thích Trí Quảng
|
3
|
Trung Quán luận
|
Giáo án HVPGVN tại TP.HCM
|
4
|
Lịch sử Phật giáo Trung Quốc
|
TT. Thích Viên trí
|
5 |
Văn học PGVN hiện đại |
TT. Thích Phước Đạt soạn
|
6
|
Hán văn/ Anh văn Phật pháp |
Giáo án HVPGVN tại TP.HCM
|
6) Cải cách giáo dục đại học Phật giáo
a) Các cấp và thời gian đào tạo
a1. Cao đẳng Phật học: Từ hai đến ba năm, đối với Tăng Ni sinh tốt nghiệp Trung cấp Phật học.
a2. Cử nhân Phật học: Bốn năm đối với Tăng Ni sinh có bằng tốt nghiệp
cấp 3 và Trung cấp Phật học, hoặc từ hai năm đến hai năm rưỡi đối với
người có bằng tốt nghiệp Cao đẳng Phật học, theo cơ chế đào tạo liên
thông.
a3. Thạc sĩ Phật học: Từ hai năm đến ba năm học đối với người có bằng tốt nghiệp Cử nhân Phật học hoặc tương đương.
a4. Tiến sĩ Phật học: Từ hai năm đến năm năm học đối với người có bằng tốt nghiệp Thạc sĩ Phật học hoặc tương đương.
b) Phương pháp đào tạo: Phương pháp đào tạo trình độ
đại học Phật giáo coi trọng kiến thức phương pháp luận, ý thức tự giác
học tập, rèn luyện thói quen nghiên cứu khoa học, phát triển tư duy sáng
tạo, nhằm giúp Tăng Ni sinh viên trở thành các nhà nghiên cứu giỏi, ứng
dụng hành trì giỏi và dấn thân làm Phật sự có hiệu quả.
c) Quy định về chương trình khung : Các trường Cao
đẳng Phật học độc lập ở các tỉn thành hoặc các HVPGVN cần tuân thủ
chương trình khung do Ban Giáo dục Tăng Ni TW quy định cho từng ngành
đào tạo đối với trình độ Cao đẳng Phật học, Cử nhân Phật học, Thạc sĩ
Phật học và Tiến sĩ Phật học, bao gồm cơ cấu nội dung các môn học, thời
gian đào tạo, tỷ lệ phân bổ thời gian đào tạo giữa các môn học. Căn cứ
vào chương trình khung nêu trên, các Trường cao đẳng Phật học và các
HVPGVN có thể gia giảm tối đa 20% các môn học cho phù hợp và mang tính
đặc thù của trường mình.
d) Chương trình đào tạo: Hai năm đầu có 80-90% giống
với chương trình Cao đẳng Phật học nêu trên. Năm thứ 3 và thứ 4 có thể
đào tạo theo chuyên khoa, bao gồm: khoa bao gồm: 1) Khoa Pāli (Department of Pāli), 2) Khoa Phạn Tạng (Department of Buddhist Sanskrit and Tibetan Studies), 3) Khoa Phật học Trung Quốc (Department of Chinese Buddhism), 4) Khoa Phật giáo Việt Nam (Department of Vietnammese Buddhism), 5) Khoa Lịch sử Phật giáo (Department of History of Buddhism), 6) Khoa Triết học Phật giáo (Department of Buddhist Philosophy ), 7) Khoa Phật học tiếng Anh (Department of Dharma English ) và 8) Khoa Phật học tiếng Trung (Department of Buddhist Chinese) và 9) Khoa hoằng pháp (Department of Dharma Propagation) và 10) Khoa đào tạo từ xa (Department of Distance Learning ).
Các HVPGVN nào không đủ giảng viên để mở các khoa độc lập thì có thể
chọn khoa Triết học Phật giáo làm nội dung của năm thứ 3 và thứ 4.
***
Nói tóm lại, phác họa trên đây chỉ mang tính gợi ý, chưa đi chuyên
sâu vào việc phân tích các lý do cải cách hệ thống giáo dục Phật học tại
Việt Nam một cách có hệ thống và toàn diện. Tôi tin tưởng rằng chương
trình cải cách giáo dục Phật học tại Việt Nam trong bối giáo dục hiện
đại, khi thực hiện được, sẽ góp phần không nhỏ trong việc mang lại một
bộ mặt mới cho nền giáo dục Phật học Việt Nam trong xu thế toàn cầu hóa
về giáo dục hiện nay.
TT. THÍCH NHẬT TỪ
Phó Viện trưởng HVPGVN tại TP.HCM
[1] Tham khảo chi tiết tại địa chỉ s au đây:
http://www.berzinarchives .com/web/en/archives /s tudy/his
tory_buddhis m/buddhis m_tibet/gelug/overview_gelug_monas
tic_education.html
[2] Ges he (Tib. dge bshes, viết đủ là dge-ba'i bshes-gnyen, có nghĩa đen là “thiện hữu” vốn dịch từ chữ kalyāņamitra trong Sans krit, có nghĩa là “thiện hữu tri thức”) là bằng cấp Phật học cao nhất của Tây Tạng.
3. Rinpoche II, Ts enzhab Serkong; Berzin, Alexander (trans lator). "Overview of the Gelug Monas tic Education Sys tem" .
The Berzin Archives, trans lated and compiled by Alexander Berzin, September 2003:
http://www.berzinarchives .com/web/en/archives /s tudy/his tory_buddhis m/buddhis m_tibet/gelug/overview_gelug_monas tic_
education.html. Retrieved 2010-02-04.
[3] Nguyên văn như s au: " Outside the monastery, there was no
school. There was no education except for Buddhist studies, and there
was no teachers except lama teachers." Trích từ trang Web của Bộ
Ngoại giao, chính phủ Trung Quốc, tại địa chỉ sau đây:
http://www.fmprc.gov.cn/eng/ljzg/3585/3586/3588/ 3589/t17939.htm
[4] Như trang web đã dẫn ở trên.
[5] Ngũ minh, năm ngành học tại Ấn Độ cổ gồm: a) Y phương minh
(Cik itsvidya) tức Y học, b) Công xảo minh (Silpak armasthanavidya) tức
Nghệ thuật và Công nghệ, c) Thanh minh (Sabdavidya —Thanh minh) tức ngôn
ngữ Tây Tạng và ngữ pháp, d) Nhân minh (Hetuvidya) tức Logic Phật giáo,
và e) Nội minh (Adhyatmavidya) tức kinh điển Phật giáo.
[6] Từ lớp 4 đến lớp 8, học sinh phải học thêm 3 môn Phật pháp. Đến lớp 5, học s inh phải học thêm môn các chuyên đề Phật học (bsdus-grva, dura), học kỷ năng tranh biện và các cách nhận thức (blo-rig, lorig). Từ lớp 6 đến lớp 8, học s inh học về logic (rtags-rig, tarig).