Từ
khi còn là một Thái tử cho đến khi thành tựu đạo Vô thượng Bồ đề, đức
Phật đã trải qua đủ mọi lạc thú ở thế gian, kể cả những lạc thú cao cấp
trong Thiền định như Vô sở hữu xứ và Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Nhưng
tất cả những lạc thú đó cuối cùng để lại cho Ngài một ưu tư lớn về tính
chất vô thường, và không thể nào tìm thấy hạnh phúc chân thật trong các
lạc thú đó. Và thật sự có một hạnh phúc chân thật không bị quy luật vô
thường chi phối được, Ngài tìm thấy ngay sau khi giác ngộ, đó là Giải
thoát bất động. Nhờ kinh nghiệm tự thân và kinh nghiệm chứng ngộ ấy, đức
Phật đã trình bày năm hạng người điển hình đang tìm cầu hạnh phúc qua
“Đại kinh Ví dụ lõi cây”.
Qua bài
kinh này, người học Phật có thể nhận thức được đâu là chân giá trị hạnh
phúc và đâu là hạnh phúc vô thường tạm bợ. Nếu không có được nhận thức
như thế thì chúng ta khó có thể đạt đến mục đích mong muốn, khó có thể
đạt được hạnh phúc chân thật của sự giải thoát và giác ngộ. Năm hạng
người này được đức Phật trình bày trong bài Kinh này đều có cùng ước
muốn là đi tìm cầu hạnh phúc, họ sống phạm hạnh để mong giải thoát mọi
khổ đau ở cuộc đời: “Ở đây, có Thiện nam tử do lòng tin xuất gia, từ bỏ
gia đình, sống không gia đình: “Ta bị chìm đắm trong sanh, già, chết,
sầu, bi, khổ, ưu, não, bị chìm đắm trong đau khổ, bị chi phối bởi đau
khổ. Rất có thể toàn bộ khổ uẩn này có thể chấm dứt”.
Tuy
nhiên, việc thành đạt mục đích giải thoát mọi đau khổ hay không là hoàn
toàn tuỳ thuộc vào nhận thức của chính mỗi người qua các giai đoạn
thành đạt trong việc tu tập của người ấy. Thông thường, các giai đoạn
thành đạt ấy đem lại sự hỷ lạc cho vị hành giả, và nếu say mê, tham đắm,
tự mãn đối với sự thành đạt này thì vị ấy sẽ bị dừng lại ở đó, khó có
thể đạt đến cứu cánh giải thoát. Các hỷ lạc trong lộ trình tu tập giải
thoát của vị hành giả được đức Phật phân ra như là năm hạng người, và
cũng chính là năm trạng thái hạnh phúc từ phàm tục cho đến giải thoát
hoàn toàn:
1.
Có người được lợi dưỡng, cung kính, danh vọng. Do lựoi dưỡng, cung
kính, danh vọng, vị ấy khen mình, chê người: “Ta được lợi dưỡng như vậy,
được tôn kính như vậy, được danh vọng như vậy. còn các Tỳ kheo khác ít
ai được biết đến, ít có uy quyền”. Vì vậy, vị ấy trở thành mê say, tham
đắm, phóng dật. Do sống phóng dật, vị ấy bị đau khổ.
2.
Có người do không tự mãn với lợi dưỡng, danh vọng nên thành tựu Giới
đức. Do thành tựu Giới đức này, vị ấy hoan hỷ, tự mãn và khen mình, chê
người: “Ta là người trì giới, theo thiện pháp. Các Tỳ kheo khác phá
giới, theo ác pháp”. Do thành tựu Giới đức này, vị ấy trở thành mê say,
tham đắm, phóng dật. Do sống phóng dật, vị ấy bị đau khổ.
3.
Có người do không tự mãn với lợi dưỡng, danh vọng, không tự mãn với
Giới đức nên thành tự Thiền định. Do thành tựu Thiền định này, vị ấy
hoan hỷ, tự mãn và khen mình, chê người: “Ta có Thiền định nhất tâm, các
Tỳ kheo không có Thiền định, tâm bị phân tán”. Do vậy, vị ấy trở thành
mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống phóng dật, vị ấy bị đau khổ.
4.
Có người không tự mãn với lợi dưỡng, danh vọng, không tự mãn với Giới
đức, không tự mãn với Thiền định nên thành tựu Tri kiến. Vì tri kiến
này, vị ấy hoan hỷ, tự mãn và khen mình, chê người: “Ta sống thấy và
biết; các Tỳ kheo khác sống, không thấy và biết”. Vị ấy do Tri kiến này,
trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do phóng dật, vị ấy bị đau khổ.
5.
Có người do không tự mãn với lợi dưỡng, danh vọng, không tự mãn với
Giới đức, không tự mãn với Thiền định, không tự mãn với Tri kiến nên
thành tựu thời và phi thời giải thoát, và vị ấy có thể từ bỏ thời và phi
thời giải thoát. Như vậy, phạm hạnh này không phải vì lợi ích lợi
dưỡng, danh vọng, không phải vì lợi ích thành tựu Giới đức, không phải
vì lợi ích thành tựu Thiền định, không phải vì lợi ích thành tựu Tri
kiến, mà tâm Giải thoát bất động chính là mục đích của phạm hạnh này, là
lõi cây, là mục tiêu cuối cùng của phạm hạnh.
Như
vậy, tâm Giải thoát bất động là mục đích của phạm hạnh, là lõi cây, là
hạnh phúc chân thật không hề có sự khổ đau; còn lợi dưỡng, danh vọng,
Giới đức, thiền định, Tri kiến đều không phải mục đích của phạm hạnh,
không phải lõi cây, là hạnh phúc tạm thời của thế giới vật chất vô
thường.
Thế
nhưng lòng tham muốn khiến con người chỉ tìm kiếm và chấp nhận chút
hạnh phúc tạm bợ mong manh mà không biết thú vui đó là nguyên nhân của
khổ. Hạnh phúc ấy luôn bị phụ thuộc vào sự đối đãi của tầng số tăng giảm
vè lạc thú. Hôm nay ta ăn cơm với xì dầu sướng hơn ngày hôm trước,
không có xì dầu mà ăn; nhưng xì dầu lại là sự chán bỏ đối với những món
ăn khác ngon hơn. Phương tiện xe đạp là một lạc thú so với đi bộ, nhưng
lại là sự chán bỏ đôi với xe máy; và xe máy là sự chán bỏ đối với xe gắn
máy đời mới hơn v.v… Vì thế, đức Phật dạy hạnh phúc con người thường
thọ hưởng không ngoài sự tham muốn và tưởng nhớ các dục. Kinh Xà Dụ
(Trung bộ số 29) ghi: “Người ta thọ dụng các dục không ngoài các dục,
không ngoài các dục tưởng, không ngoài các dục tầm”. Thọ dục các dục
nghĩa là thọ hưởng hạnh phúc do thoả mãn lòng tham muốn khi các giác
quan tiếp xúc với các trần cảnh; thọ dục các dục tưởng là thọ hưởng hạnh
phúc do tưởng nhớ những cảm thọ trong quá khứ; thọ dụng các dục tầm là
thọ hưởng hạnh phúc do ước mong về tương lai. “Quá khứ đã đoạn tận, còn
tương lai thì chưa đến”, nên hạnh phúc của dục tưởng và dục tầm là hạnh
phúc do vọng tưởng tạo nên, không thật có. còn hạnh phúc do các giác
quan đưa đến thì lại vô cùng phức tạp. Hạnh phúc này hoàn toàn phụ thuộc
vào ý thích riêng của mỗi người, nó không tuỳ thuộc vào thế giới vật
chất. Cái này là thứ vui thích của ngời này nhưng đồng thời là cái người
kia bực bội, chán ghét. Một ly cà phê anh thích, còn tôi thì ghét.
Thích là hạnh phúc, ghét là khổ đau. Phải chăng một ly cà phê vô tri ấy
mà lại chứa đựng cả hạnh phúc lẫn khổ đau? Thật ra, hạnh phúc hay khổ
đau là chính thái đọ của con người đối với đối tượng nhận thức, chứ
không phải là đối tượng nhận thức. Vả lại đối tượng nhận thức thuộc thế
giới khách quan, luôn luôn vận hành theo quy luật duyên sinh, vô thường,
vô ngã, trong khi đó thì thú vui (hạnh phúc) mà con người thọ dụng
thuộc chủ quan tự ngã. Sự mâu thuẫn giữa thế giới khách quan và tâm lý
chủ quan đã tạo ra biết bao khổ đau trên cuộc đời. Thế nhưng, do ý thức
chỉ muốn sống (hay kiết sanh thức) đã khiến cho loài hữu tình bất chấp
mọi khổ đau để tìm kiếm chút hạnh phúc tạm bợ trong cuộc sống này. Vô
minh là thế.
Do
vậy, vấn đề nhận thức đúng đắn về bản chất và giá trị của hạnh phúc là
vấn đề rất quan trọng. Đại kinh Ví dụ lõi cây cho chúng ta thấy rõ giá
trị hạnh phúc qua năm phần của một cây đại thọ, gồm lõi cây, giác cây,
vỏ trong, vỏ ngoài và cành lá.
Hạnh
phúc cành lá là lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng; hạnh phúc vỏ ngoài là
thành tựu Giới đức; hạnh phục vỏ trong là thành tựu Thiền định; hạnh
phúc giác cây là thành tựu Tri kiến; và hạnh phúc lõi cây là thành tựu
Giải thoát bất động. Đối chiếu năm phần của một cây đại thọ như thế,
chúng ta có thể dễ dàng thấy được giá trị hạnh phúc của lợi dưỡng, cung
kính, danh vọng, thấy được giá trị hạnh phúc của Giới đức, của Thiền
định, của Tri kiến và của Giải thoát bất động; và qua đó chúng ta có thể
biết được chúng ta đang sống và cảm thọ ở mức độ hạnh phúc nào, đồng
thời biết định hướng cho mình một hướng đi đúng đắn.
Trong
bài kinh này, đức Phật hướng dẫn cho chúng ta thấy rằng mục tiêu cuối
cùng của phạm hạnh là Giải thoát bất động. Tuy nhiên, trên chặng đường
đi đến mục đích ấy, chúng ta không thể không trải qua bôn giai đoạn
trước. Điều quan trọng ở đây là chúng ta không nên để cho lạc thú của
các giai đoạn đó chi phối bước tiến của mình, không dừng lại và chấp thủ
tự mãn những gì mình đã đạt được. Lời dạy của đức Phật trong Đại kinh
Ví dụ lõi cây thật là cao siêu. Những gì đức Phật dạy từ bỏ thì những
thứ đó con người đang ngưỡng vọng và hướng đến. Thật vậy, chỉ cần thành
tựu Giới đức thôi thì đã đến biệt giải thoát rồi, huống nữa là thành tựu
Thiền định và thành tựu Tri kiến. Do đó, con đường đi đến ở đây thật là
dài, và lạc thú ở trong đó cũng không cũng không phải là ít, không khéo
thì chúng ta khó có thể đạt được mục đích mà đức Phật mong muốn chúng
ta thành tựu. Lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng, giới đức, thiền định, tri
kiến rất cần thiết cho những ai chưa đạt đến, nhưng lại là mối nguy hiểm
cho những ai tự mãn, say mê, tham đắm và dừng lại ở đó.
Giáo
lý đức Phật trình bày trong kinh này không phải là một pháp môn tu tập
cụ thể, mà ở đây Ngài mở ra cho chúng ta một Chánh tri kiến, một cách
nhìn đúng đắn về lộ trình tu tập đưa đến giải thoát giác ngộ. Tuy được
hướng dẫn cho người xuất gia tu phạm hạnh, bài kinh vẫn có giá trị thiết
thực bất cứ ai muốn tìm cầu hạnh phúc chân thật mà không sợ bị sai
đường lạc lối, không sợ bị rơi vào tà kiến khổ đau. Giải thoát bất động
là ngọn hải đăng soi sáng cho những con thuyền đang lênh đênh đi tìm bờ
cập bến, đang đi tìm kiếm hạnh phúc chân thật. Có ngọn đèn, có con
đường, đoàn lữ hành lướt sóng vượt qua mà không bị phong ba làm chướng
ngại, không bị dòng tục luỵ cuốn trôi.
Hành
giả tin chắc phía ngọn đèn là bờ, thấy được rằng vượt qua những hạnh
phúc tầm thường không thật thì sẽ đạt đến hạnh phúc chân thật than cao,
vượt qua được cành lá, vỏ cây, giác cây thì sẽ đạt đến lõi cây. Hãy tin
rằng chỉ có lõi cây, chí có Giải thoát bất động mới là hạnh phúc vững
bền và chắc thực, bởi “Cái gì là lõi cây, cái ấy sẽ tồn tại lâu dài” (Yo
sàro so titthati).