Một thời đại Phật pháp hưng thịnh
thì số lượng người cư sĩ Phật tử phát triển đông đảo. Một quốc gia được gọi là
quốc giáo thì dân số theo đạo Phật quyết định tiêu chuẩn đó.
Đạo Phật là con đường tu học theo hệ thống mở, đối
tượng đạo Phật là con người. Mọi người có quyền trở thành một người Phật tử
theo tinh thần tự nguyện trở về nương tựa Chánh pháp và thăng hoa đời sống của
mình. Vị cư sĩ là người quy y Tam bảo, thành tựu về giới, thành tựu chánh tín,
thực hành bố thí và phước tuệ song tu, chứng quả giải thoát, thì đó là người cư
sĩ gương mẫu trong đạo Phật.
Cư sĩ, GĐPT là lực lượng hùng hậu góp phần cho đạo pháp hưng thạnh - Ảnh tư liệu
Vì muốn nhận thức rõ vai trò và mục đích của người
cư sĩ, vị cư sĩ tên là Mahànàma, đã mạnh dạn hỏi trực tiếp đến Đức Phật về vấn
đề liên quan người cư sĩ như sau: “Cho đến như thế nào, bạch Thế Tôn, là người
cư sĩ? Cho đến như thế nào, bạch Thế Tôn, là người cư sĩ đầy đủ giới? Cho đến
như thế nào, bạch Thế Tôn, là người cư sĩ đầy đủ tín? Cho đến như thế nào, bạch
Thế Tôn, là người cư sĩ đầy đủ lòng bố thí? Cho đến như thế nào, bạch Thế Tôn,
là người cư sĩ đầy đủ trí tuệ?". Phật dạy:
“Ai quy y Phật, này Mahànàma, quy y Pháp, quy y
chúng Tăng. Cho đến như vậy, này Mahànàma, là người cư sĩ.
Này Mahànàma, người cư sĩ từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy
của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ đắm say rượu
men, rượu nấu. Cho đến như vậy, này Mahànàma, là người cư sĩ đầy đủ giới.
Ở đây, này Mahànàma, người cư sĩ có lòng tin, tin
tưởng ở sự giác ngộ của Như Lai: “Ðây là bậc A-la-hán, Chánh Biến Tri, Minh
Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên
Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn”. Cho đến như vậy, này Mahànàma, là người cư sĩ đầy đủ
tín.
Ở đây, này Mahànàma, người cư sĩ trú ở gia đình,
tâm thoát khỏi cấu uế của xan tham, bố thí dễ dàng, bàn tay rộng mở, thích thú
từ bỏ, đáp ứng điều yêu cầu, thích thú chia sẻ vật bố thí. Cho đến như vậy, này
Mahànàma, là người cư sĩ đầy đủ bố thí.
Ở đây, này Mahànàma, người cư sĩ có trí tuệ, thành
tựu trí tuệ về sanh diệt (các pháp), trí tuệ các bậc Thánh thể nhập (các pháp),
cho đến chân chánh đoạn tận khổ đau. Cho đến như vậy, này Mahànàma, là người cư
sĩ đầy đủ trí tuệ.”1
Quy y Tam bảo là khởi đầu cho lộ trình tu học và tiếp nhận khả
năng chuyển hóa vận mạng của cả đời người. Vì khi quy y Tam bảo, người cư sĩ có
nhiều cơ hội thực hành phương pháp tu dưỡng có hiệu quả. Từ đó, họ cảm nhận sự
an lạc và lợi ích lớn trong đời sống bản thân. Nương tựa Phật, Pháp và Tăng là
thừa hưởng sức mạnh đạo đức của đại chúng và vận dụng được kinh nghiệm quý báu
trong việc tu học.
Người cư sĩ đã quy y Tam bảo thực sự là con của Phật, là
thành viên trong căn nhà Phật pháp. Do vậy mà một người khi quy y thường có cái
tên mới, gọi là Pháp danh. Lâu nay sống ở nhà, tên mình do cha mẹ đặt. Nay trở
về với đạo, vị thầy hướng dẫn đặt pháp danh. Pháp danh cũng là tên gọi kể từ
khi sinh ra trong giáo pháp của Phật, làm mới đời sống của mình bằng cách thực
tập theo lời Phật dạy.
Thành tựu về giới: Người cư sĩ phải thành tựu về giới, tức thực hành
Ngũ giới nghiêm túc. Ai không như pháp thọ trì giới thì chướng ngại kết quả tu
học. Thọ giới, giữ giới và đắc giới là diễn tiến quá trình tu học tích cực.
Giới là khuôn vàng thước ngọc để chúng ta rèn luyện đạo đức cá nhân, gia đình,
và xã hội. Ai giữ giới trong sạch thì có đời sống lành mạnh và trí tuệ sáng
suốt, mạng chung tâm không sợ hãi, sanh vào cõi lành. Thành tựu giới để thành
tựu định và tuệ giải thoát.
Thành tựu chánh tín: một yếu tố quan trọng trong phụng sự Tam bảo của
người cư sĩ Phật tử là niềm tin. Niềm tin là sự tịnh tín với Phật, Pháp và
Tăng. Niềm tin phát khởi thì có sự tu học tinh tấn. Phật tử luôn tư duy ân đức
của Tam bảo mà khởi tâm gìn giữ căn nhà Phật pháp. Vì lý do nào đó mà có người
làm tổn hại đến Tam bảo, người cư sĩ tịnh tín cảm nhận được sự đau xót giống
như trăm ngàn mũi kim đâm vào thân mình. Đó là nỗi đau của người biết tôn trọng
chân lý và lợi ích đời sống tha nhân. Phát huy đạo Phật cần có những người Phật
tử tịnh tín như vậy.
Phật dạy: “Ví như, này các Tỳ kheo, trên khoảnh đất tốt,
tại ngã tư đường, có cây bàng to lớn là chỗ nương tựa cho các loài chim. Cũng
vậy, này các Tỳ kheo, các thiện nam tử có lòng tin là chỗ nương tựa cho quần
chúng, cho các Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, cho nam và nữ cư sĩ”2. Người cư
sĩ Phật tử phải khẳng định mình là chỗ nương tựa cho những đệ tử Phật hành đạo,
ví như cây bàng cho các loài chim nương tựa và sinh sống. Đạo Phật từ bao đời
nay tồn tại và phát triển tốt đẹp trong xã hội là nhờ lòng tịnh tín của người
cư sĩ Phật tử.
Thực hành bố thí: Bố thí có nghĩa là cho ra bằng tình thương, bằng
trí tuệ. Bố thí không chỉ dựa trên giá trị vật chất mà còn nhiều giá trị khác.
Tục ngữ có câu: “Cách cho hơn đem của cho”. Người cho với tấm lòng vui vẻ, dù
của cải (vật bố thí) ít nhưng người thọ nhận cảm thấy an lạc. Kinh Phật dạy: Bố
thí có ba phương diện, đó là: Tài thí, Pháp thí và Vô úy thí.
Một trong tứ chúng đồng tu - Ảnh tư liệu
Tài thí là dùng tiền tài, phẩm vật bố thí, như cúng
dường Tam bảo, cúng dường cha mẹ, giúp đỡ người nghèo khó và tham gia làm từ
thiện. Khi cúng dường hay bố thí, quan trọng với tâm rộng mở, không bị trói
buộc. Không dùng tiền của bố thí mà sanh lòng tự cao, ỷ lại hay khoe khoang
theo thói hư danh. Dù tài vật nhiều hay ít nhưng cho ra với tâm giải thoát.
Phật dạy: “Nhưng ở đây, này Sàriputta, có người bố thí với tâm không mong cầu,
bố thí với tâm không trói buộc, bố thí không với ý nghĩ “ta sẽ hưởng thọ cái này
ở đời sau”, chỉ bố thí với ý nghĩ “lành thay sự bố thí”. Vị ấy bố thí để trang
nghiêm tâm. Do bố thí như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú
với chư Thiên ở cõi trời Phạm Chúng. Khi nghiệp lực đoạn tận, thần lực, danh
tiếng và uy quyền đoạn tận, vị ấy trở thành vị Bất lai, không trở lui lại trạng
thái này”3. Bố thí để trang nghiêm tâm, dù người nghèo hay giàu, bố
thí với tấm lòng vô ngã vị tha thì có phước báo to lớn.
Bố thí pháp là học giáo lý từ bi trí tuệ của Phật
để chia sẻ cho mọi người biết vận dụng tu học và sống có ý nghĩa. Đạo Phật là
đạo chung cho người đã đến tu học, chung cho người đang đến tu học, chung cho
những ai sẽ đến tu học. Đức Phật vì chúng sanh và nhân loại mà truyền bá giáo
lý giải thoát. Do vậy, dù tu sĩ hay cư sĩ đều có trách nhiệm chung về việc
hoằng dương Phật pháp. Người cư sĩ Phật tử tùy duyên bố thí pháp, như cúng dường ấn tống kinh sách, báo chí
Phật giáo để mong mọi người hiểu rõ giáo lý của Phật thì đó là một cách bố thí
pháp.
Vô úy thí là giúp người vượt qua sợ hãi. Người con
Phật, luôn kiên trì nhẫn nại truyền bá Chánh pháp vào dòng đời khổ đau thì cần
có đức vô úy. Chúng ta đang thực hành chân lý tự do và giải thoát trên đời,
những người đau khổ cần sự giúp đỡ thì chúng ta sẵn lòng. Chúng ta dùng lời ái
ngữ an ủi mọi người lúc tai ương hoạn nạn, giúp người vượt qua sự khó khăn và
bế tắc trong đời sống bằng tình thương và sự hiểu biết.
Đức Phật thường khuyên các đệ tử cư sĩ không những
nỗ lực tu các thiện pháp mà còn khích lệ tu tuệ giải thoát. Pháp thực hành cụ
thể là thiền quán trên mọi hiện tượng để thấu đạt lý sanh diệt. Sanh diệt là ý
nghĩa của giáo lý duyên khởi, pháp mà Đức Phật đã thực hành và chứng đắc quả vị
giải thoát.
Phật dạy rằng: “Ai thấy duyên khởi là thấy pháp. Ai thấy pháp là
thấy Ta (Phật)”4. Quán các pháp tùy duyên sanh, tùy duyên diệt thì
tâm chấp thủ và phiền não sẽ đoạn trừ. Từ đó tâm ly dục, ly bất thiện pháp xuất
hiện, an trú vào trạng thái thanh tịnh của bậc Thánh. Mọi hành động tu tập đều
chỉ đạo bằng trí tuệ, làm phước thiện với tâm không chấp thủ đều là yếu tố đưa
đến chứng ngộ quả vị giải thoát.
Phẩm hạnh của cư sĩ Phật tử được Đức Phật thuyết
trong các bản kinh thuộc hệ Nikàya này rất chi tiết và dễ hiểu. Từ khởi đầu quy
y, tu tập Năm giới, giữ lòng tịnh tín với Tam bảo, thực hành bố thí và thành
tựu trí tuệ chứng ngộ Thánh quả liên quan trong sự tu học của người cư sĩ mà
nhiều kinh điển khác thường nhắc đến. Chúng ta thấy bổn phận và trách nhiệm to
lớn của người cư sĩ trong việc tu học và truyền bá Chánh pháp trong đời sống
nhân gian.
Thiết nghĩ rằng, nếu mọi người đều đón nhận và thực hành đúng theo
tôn chỉ của Phật dạy thì đạo Phật sẽ phát triển vô cùng mạnh mẽ trong mọi hoàn
cảnh, mọi thời đại, và cũng đem đến hạnh phúc an lạc cho tất cả mọi người.
Thích Đức Trí (NGGN)
_____________
(1) Kinh Tương ưng V.55.37, bản dịch của HT.Thích Minh Châu.
(2) ĐTKVN,Tăng chi bộ II, chương 5, phẩm Sumana, phần Sự lợi ích của lòng tin, VNCPHVN, ấn hành 1996, tr.369.
(3) ĐTKVN, Tăng chi bộ III, chương 7, phẩm Tế đàn, phần Bố thí, VNCPHVN ấn hành 1996, tr.355.
(4) Tiểu bộ kinh I, tr.48, bản dịch của HT. Minh Châu, ÐTKVN.