Từ khi con người có mặt
trên quả địa cầu nầy, dưới một hình thức nào đó, ở bản thể tự nhiên, con người
đã sinh sống trong cuộc đời này ở hai dạng thức khác nhau. Đó là đời sống tinh
thần và đời sống vật chất. Dưới cái nhìn của một nhà triết học nó khác với nhà
tôn giáo học. Nhà tôn giáo học phải có cái nhìn về cuộc đời khác hơn nhà chính
trị học, phân tâm học v.v… Nhưng dẫu cho ở một thể loại nào đó, con người cũng
không thể chỉ sống đơn thuần bằng sự lớn khôn của gạo cơm rau nước, mà còn
phải có sự lớn mạnh của tinh thần nữa. Do vậy Phật Giáo định nghĩa là trong
cái này nó có cái kia và trong cái kia có tồn tại cái này. Nghĩa là ngoài vật
chất sẽ không có sự tồn tại của tinh thần và ngoài tinh thần, vật chất không
thể tồn tại đơn điệu được. Trong phạm trù này vấn đề giáo dục giữ một vị trí
rất quan trọng. Vậy giáo dục là gì?
Chữ Giáo ở đây có
nghĩa là dạy dỗ, chỉ bày. Chữ Dục có nghĩa là mong muốn, để trở thành.
Định nghĩa chung lại chữ giáo dục có nghĩa là: chỉ bày cho ai đó (một
điều gì) và (mong người đó) trở thành (người hữu dụng) cho đời, cho đạo. Đó
gọi là giáo dục.
Có mấy loại giáo dục như
thế? Thật ra phải trả lời rằng có vô số hình thức giáo dục. Ví dụ như giáo dục
nhi đồng, giáo dục thiếu niên, giáo dục thanh niên, giáo dục người lớn, giáo
dục tâm lý học, giáo dục học đường, giáo dục xã hội, giáo dục luân lý, giáo
dục luận lý, giáo dục sinh lý, giáo dục thống kê, giáo dục hành chánh, giáo
dục tài chánh v.v... và cứ thế mỗi một loại giáo dục sẽ có một chuyên đề khác
nhau. Ở đây người viết chỉ muốn đề cập đến một số vấn đề có liên quan đối với
tuổi trẻ Việt Nam đang sống và lớn lên tại hải ngoại ngày nay.
1. Hoàn cảnh giáo dục:
Nói đúng hơn và cho đủ
nghĩa là môi trường giáo dục. Ở các xã hội Á châu ta ngày xưa và ngay cả ngày
hôm nay cũng vậy, người học trò chỉ cần học những cái gì từ Thầy giáo dạy mình
là đủ. Người học trò chỉ có bổn phận học thuộc lòng sau đó trả bài cho Thầy,
thế là xong bổn phận. Trong khi đó tại ngoại quốc ngày nay, bối cảnh ở đây hẳn
nhiên khác biệt; người học trò không những chỉ học những điều của Thầy giáo
truyền trao, chỉ bày mà còn phát triển thêm phần năng khiếu của mình thông qua
các trò chơi, máy tính (computer) hay thư từ giao dịch và các loại hình
khác.v.v... tầm hiểu biết của trẻ con ngày nay tiến rất xa so với một thế hệ
đi trước; nghĩa là cách nhau chỉ hai mươi năm mà mọi hoàn cảnh đều được đổi
thay.
Thường thì những nước nông
nghiệp phát triển về giáo dục rất chậm. Vì lẽ thông tin không cập nhật hoá
hằng ngày, hẳn nhiên trong đó có Việt Nam của chúng ta và các nước chậm tiến
khác trên thế giới. Trong khi đó tại các xứ phát triển về kỷ nghệ, con người
có khả năng dùng thời giờ nhanh hơn, nhiều hơn và bén nhạy hơn. Có lẽ do hoàn
cảnh và môi trường chung quanh, mà sự giáo dục được phát triển thuận chiều như
thế.
Đứa trẻ tại Á châu nhìn
cha mẹ và thầy giáo gần như một vị Thần. Do vậy, đứa trẻ chỉ sợ ông Thần kia
hành hạ, chứ ít có sự liên hệ mật thiết giữa cha mẹ và thầy trò. Ngược lại, ở
các xã hội Âu Mỹ ngày nay, vị thầy giáo ở học đường hay cha mẹ tại nhà, đứa
trẻ rất thân thiện và tự tin và dưới cái nhìn của nó là một người bạn chứ
không phải là một vị Thần mà nó thường phải nơm nớp lo sợ khi vào lớp. Ở đấy
người ta dạy cho chúng tự tin hơn, để khi lớn khôn lên khi chúng đứng trước
bạn bè cử toạ, chúng sử dụng hết năng khiếu của mình và khả năng tự chủ của
chúng; vì được huấn luyện thực tập từ nhỏ nên rất dạn dĩ, tự nhiên. Còn con em
Việt Nam chúng ta thì sao?
Nếu nói hoàn toàn ngược
lại thì cũng không đúng hẳn. Vì cũng có nhiều người có lối biện tài vô ngại
trước một số cử toạ đông đảo; nhưng số này rất tiếc lại không có nhiều. Trong
khi đó đa phần đều bị động. Khi nào kêu đến tên mình thì phát biểu ý kiến;
nhưng không phải tự đáy lòng, chỉ nói thoáng qua, nội dung không sâu sắc lắm.
Thế mà có những câu chuyện bên lề, ngoài lớp học, chốn ngao du sơn thủy lại
“nổ dòn hơn bắp rang„. Có phải hoàn cảnh và môi trường giáo dục của con em
Việt Nam chúng ta ứng dụng vào thực tế không đúng lúc, đúng thời chăng?
Nói về Gia Đình Phật Tử
Việt Nam là một tổ chức đã có mặt hơn 50 năm tại quốc nội và hơn 25 năm tại
ngoại quốc. Tuy số đoàn sinh có đông đó; nhưng những nhà giáo dục của Gia Đình
Phật Tử hay nói đúng hơn là những anh chị Huynh Trưởng vẫn còn rập khuôn giống
như hoàn cảnh của Việt Nam trước đây 50 năm. Do vậy mà phải thành thật nói
thẳng: Tuy có hiệu quả đó nhưng không nhiều. Đất nước của Việt Nam chúng ta là
một nước nông nghiệp; không phải là một đất nước kỹ nghệ và hoàn toàn dân chủ
như Hoa Kỳ, kể từ khi lập quốc đến nay hơn 200 năm chưa có một vị Vua nào
thống trị tại đó, mà chỉ toàn là Tổng Thống. Do vậy vấn đề giáo dục cho thanh
thiếu niên của Gia Đình Phật Tử phải được cập nhật hoá lại qua sự đóng góp của
các Huynh Trưởng đã qua các đại học sư phạm hoặc giáo dục. Nếu không, tiếng
vọng ấy chỉ một chiều và khó còn có tiếng hoà âm để phát triển trong một không
gian bao la vô tận và đầy hứa hẹn ấy.
2. Phương pháp giáo dục:
Các người Mẹ Á châu của
chúng ta thể hiện sự thương con của mình bằng cách khi nào con khóc thì liền
cho bú, hoặc dỗ ngọt; nhưng xét ở một góc độ nào đó thì điều ấy không có lợi.
Vì lẽ chỉ để làm thoả mãn cái tự ngã của đứa bé mà thôi. Chẳng lợi ích gì cho
nó cả. Nếu có, đó là lợi cho người lớn. Vì lẽ, để người lớn có nhiều thì giờ
hơn để đi làm việc khác khi biết rằng đứa bé đã được ngủ yên. Như thế là một
sự giáo dục không cân bằng. Ở Âu Mỹ nầy khi đứa bé khóc, hãy để cho nó tự khóc
và tự nín. Điều này mới nhìn vào thấy bà Mẹ có vẻ nhẫn tâm thế, nhưng điều ấy
rất hay cho thế tự chủ của đứa bé, cứ khóc cho đã, sau đó ắt phải nín thôi.
Người Á châu chúng ta khi
thấy con mình té; điều trước tiên là chạy lại đỡ liền; nhưng ở Âu Mỹ lại
không; hãy để cho đứa trẻ tự đứng dậy để nó sẽ tự lập cho cuộc đời của chính
nó về sau nầy. Người Á châu của chúng ta khi đi thi thường hay xem lén bài của
người bên cạnh; nhưng ở Nhật và ở các xứ Âu Mỹ ngày nay hầu như không có. Vì
sao vậy? Vì chép được kết quả của kẻ khác để thi đậu đó không phải là tự lực
về sự phát triển năng khiếu của chính mình.
Người Mẹ Á châu ít khi hỏi
ý kiến chồng hay con cái trong nhà là thứ hai mẹ sẽ nấu món gì, thứ ba, thứ tư
mẹ nấu món gì? Con có thích không? Mà Mẹ cứ nấu món của Mẹ thích; còn con có
ăn không là chuyện của con chứ không còn là chuyện của Mẹ nữa. Ở đây người ta
khác hoàn toàn, vào mỗi cuối tuần cả gia đình có buổi họp mặt để bàn luận với
nhau về những sinh hoạt của gia đình trong tuần tới và kiểm điểm những ưu
khuyết trong tuần rồi. Thế mà đa phần gia đình Việt Nam ít có tổ chức được như
vậy.
Ở Gia Đình Phật Tử cũng
thế, có nhiều Huynh Trưởng không tốt nghiệp những khoa tâm lý học của tuổi trẻ
và quần chúng mà ra cầm đoàn là hỏng. Vì chỉ làm theo những gì cổ xưa trong
sách vở, chứ không có sáng kiến. Nếu ai đó có hỏi thì bảo rằng: Đây là nội quy
của Gia Đình Phật Tử Việt Nam. Trả lời như vậy không sai, nhưng không hoàn
toàn đúng. Vì lẽ nội quy do một tập thể soạn ra thì mấy mươi năm sau một tập
thể khác cũng có quyền sửa đổi kia mà. Đâu phải là một định luật, như định
luật vô thường mà phải sợ nhân quả của nó.
Như ta thấy hiến pháp của một nước
còn có thể sửa đổi được, nếu phải thông qua quốc hội hoặc trưng cầu dân ý.
Ngay cả giới luật của người tu, trước khi tịch Niết bàn, Đức Thế Tôn còn căn
dặn Ngài A Nan rằng: Những giới luật nào không cần thiết cũng cần nên loại bỏ.
Đó là những điều căn bản. Tuy nhiên có nhiều Huynh Trưởng và nhiều Tăng Sĩ cứ
khư khư giữ cái cũ như giữ vàng bạc, đá quý không chịu thay đổi phương pháp
giáo dục để hợp với hoàn cảnh ở ngoại quốc ngày nay. Trong khi các anh chị
Trưởng trung niên hoặc lão niên mới chỉ tốt nghiệp trung học hoặc đại học mà
các em của ngành thanh của Gia Đình Phật Tử Việt Nam ngày nay tại hải ngoại
đang tốt nghiệp tiến sĩ, cao học v.v... vì vậy phương pháp giáo dục của Gia
Đình Phật Tử cũng cần phải nghiên cứu lại. Có nhiều em than với tôi rằng: Bạch
thầy sao con thấy vào Gia Đình Phật Tử giống như đi lính quá! Tôi trả lời
rằng: Thì một tổ chức phải có kỷ cương chứ sao. Nhưng câu trả lời ấy có lẽ
không giải đáp được thắc mắc của các em thanh thiếu niên nầy. Vì có lẽ nơi tự
thâm tâm của các em tổ chức Gia Đình Phật Tử là một tổ chức phải tự do hơn,
cởi mở hơn; không có những người không có kinh nghiệm về tâm lý mà đi hướng
dẫn về tâm lý.
Tuy Gia Đình Phật Tử Việt
Nam chúng ta có các cấp Tập, Tín, Tấn và Dũng để định vị cho kết quả của mình
qua các khoá huấn luyện và các kỳ trại; nhưng phải thành thật mà nói các thế
hệ thanh thiếu niên Việt Nam ở hải ngoại ngày nay đòi hỏi các anh chị Trưởng
ấy phải trải qua sự huấn luyện của giáo dục để hội nhập với đời sống cũng như
văn hoá tại xứ người, mới có thể hướng dẫn các thế hệ đi sau, làm cho họ tin
tưởng và có vui thú để lui tới sinh hoạt với Gia Đình Phật Tử.
Cây Bồ đề nếu mọc tại
các xứ Á châu nhiệt đới không cần tưới nước và trồng ở bất cứ nơi nào ngoài
trời nó cũng có thể sống được. Nhưng ở Âu Mỹ và các xứ lạnh thì ngược lại.
Phải trồng nó trong nhà có sưởi ấm; nếu không cây Bồ đề ấy không có lá mà cũng
chẳng có cành. Đây là
phương pháp giáo dục của Gia Đình Phật Tử Việt Nam và ngay cả giáo dục cho
Tăng Ni sinh, các thế hệ trẻ ngày nay tại hải ngoại mà các bậc Tôn Túc cũng
như các anh chị Trưởng cần phải lưu tâm đến.
3. Giáo dục quần chúng:
Khi bảo một người Nhật hát
một bài dân ca, họ có thể hát từ đầu đến cuối một cách thông suốt dịu dàng hay
ho và đúng theo nhịp điệu. Bảo mười người họ cũng hát như thế và một trăm
người họ cũng ca bằng một nhịp điệu như thế. Trong khi đó người Việt Nam chúng
ta thì khác hẳn. Trong quần chúng có rất ít người thuộc trọn vẹn một bài dân
ca. Mỗi người hát mỗi vẻ và kẻ thuộc đoạn nầy lại quên đoạn kia và nhiều khi
bỏ dở nửa chừng và để được an ủi xen vào đó là những tràng pháo tay tán thưởng
không trọn vẹn.
Ngay cả những tổ chức Phật
Giáo thuần thành tại hải ngoại ngày nay khi hát quốc ca còn tương đối được;
nhưng khi hát đến Phật Giáo ca thì rất ít khi thấy đươc sự trang nghiêm nhịp
điệu. Đây là hậu quả của giáo dục quần chúng không nghiêm chỉnh vậy. Đó là
chưa nói những buổi tụng kinh tập thể của Gia Đình Phật Tử hoặc của các Đạo
Hữu tại các chùa, ngay cả các chùa có các thầy trụ trì. Thầy hoặc Huynh Trưởng
mới bắt chữ “Nam“ là ở dưới đại chúng đã hoà theo chữ “Mô“ rồi; nhưng Nam Mô
gì tiếp theo, làm sao ông chủ lễ có thể cưỡng giọng lại được của đại chúng bên
dưới lớn hơn; trong khi ông ta muốn tụng là Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni
Phật, chứ không phải là Nam Mô A Di Đà Phật.
Người Âu Mỹ khi đi vào nơi
tôn nghiêm rất lịch sự, cử chỉ trang trọng thành kính. Người Việt Nam mình
cũng không thiếu những người như thế; nhưng chưa được quần chúng hoá. Ví dụ
như khi đi đám tang, người mình chưa mặc được một loại đồng phục, khi vào nơi
tôn nghiêm hoặc nơi thuyết pháp, hoặc khi sinh hoạt Đoàn vẫn cứ nói chuyện
riêng, gây nên rất nhiều phiền hà cho những người bên cạnh, chính mình đã
không được lợi ích gì, mà người khác cũng bị ảnh hưởng lây. Khi vào nơi trang
nghiêm đôi khi lại hút thuốc, cười giỡn, không lưu ý những lời kinh hoặc những
lời giảng của các vị Thầy v.v… Đây là một lối giáo dục quần chúng có tính cách
đại trà, khó khăn vô cùng. Một người không thể tạo nên một cảnh giới thanh
tịnh được, mà mọi người phải tự tạo nên hoàn cảnh tốt thì hoàn cảnh mới đổi
thay. Điều ấy do chính con người phải thay đổi hoàn cảnh; chứ hoàn cảnh tuyệt
nhiên không thể thay đổi con người được.
4. Giáo dục tu học:
Đây có thể là một đề tài
mới do chính tôi đặt ra. Theo tôi nghĩ cũng có thể áp dụng cho cả Tăng sĩ và
Cư sĩ, trong đó có Gia Đình Phật Tử. Tôi cũng thường hay nói với Tăng chúng
của chùa Viên Giác tại Đức rằng: Sự học không làm cho con người ta tự giải
thoát được; nhưng nếu muốn mở cánh cửa giải thoát kia không thể thiếu sự tu và
sự học được. Vậy phải biết rằng mục đích chính là sự giải thoát, mà muốn giải
thoát thì phải có tu và có học. Có người chỉ có học mà không tu. Có kẻ lại có
tu mà chẳng học. Do vậy nó không có sự bổ sung cho nhau. Nếu muốn cho một con
tàu chạy nhanh, không những chỉ cần một đầu máy tốt, mà toa tàu cũng không
phải là vấn đề không quan trọng. Làm sao để đảm bảo được chuyến tàu tốc hành
về Tây phương Cực lạc, người Huynh Trưởng phải tự trang nghiêm mình bằng lời
nói và việc làm, chứ không phải chỉ lý thuyết không.
Ngày nay tại Âu châu này,
có nhiều đoàn sinh Gia Đình Phật Tử đã thọ Bồ Tát giới tại gia, ăn chay
trường, có bằng cấp như Kỷ sư, Bác sĩ, tham gia rất đều đặn trong các khoá tu
học Phật Pháp Âu châu cho đến nay đã 13 kỳ, mỗi kỳ tổ chức 10 ngày tại mỗi
quốc gia vào mỗi năm khi hè đến và nhiều người đã tham dự các khóa tu gieo
duyên 14 ngày tại Úc châu, Âu châu hay Mỹ châu. Trong khi đó thì nhiều anh chị
Trưởng về trình độ Phật Pháp còn rất giới hạn, chỉ còn nằm trong chương trình
Phật Pháp của Gia Đình Phật Tử chứ chưa làm quen với các bộ kinh lớn như Hoa
Nghiêm, Bát Nhã, Đại Bát Niết Bàn v.v… Gần đây trong nước Gia Đình Phật Tử
Việt Nam đã cố gắng soạn ra một bộ sách về Phật Pháp tương đối cao hơn; nhưng
cũng chỉ mới nằm ở ngưỡng cửa Đại học chứ chưa vào sâu nơi Hậu Đại Học. Cũng
mới chỉ là lý thuyết chứ chưa phải là thực hành.
Về mặt nổi của Gia Đình
Phật Tử có nhiều ưu điểm là đồng phục, kỷ cương; nhưng về mặt sâu thẳm của nội
tâm và sự tu học, Gia Đình Phật Tử cần phải hoà nhập vào với các khoá tu khác
của các Chùa và các Giáo Hội khác tổ chức, chứ không phải chỉ khư khư giữ kỹ
nội dung huấn luyện của 50 năm trước mà không có một sự uyển chuyển nào đối
với sự tiến bộ của thế giới ngày nay. Sự tu học cũng giống như một dòng nước
chảy, không tiến ắt phải bị vật cản khác chi phối. Do vậy phải tự trang bị cho
chính mình một sự tu học chín chắn hơn để phục vụ cho lý tưởng của một người
Huynh Trưởng Phật Tử, đồng thời mình phải là một nhà mô phạm cho các em trong
cả sự tu lẫn sự học.
Ngày nay người ngoại quốc
tìm hiểu và theo Phật Giáo rất nhiều. Vì họ biết rằng chỉ có giáo lý của đức
Phật mới có thể giải phóng họ ra khỏi những giáo điều cứng nhắc và vô ý vị của
các Tôn Giáo khác. Nói như nhà Bác học Albert Eintein đã từng nói: Một tôn
giáo trong tương lai thích hợp và hướng dẫn cho khoa học, không Tôn Giáo nào
khác hơn là Phật Giáo. Phật học cao cả như thế mà một người Huynh Trưởng không
thông thạo giáo lý, một vị Tăng Sĩ chỉ thực hành giáo lý một chiều, thì không
cách nào mà mang đạo vào đời được và nhất là mang chuông đi đánh xứ người,
tiếng chuông ấy phải thanh, phải vang vọng vào lòng người, chứ không thể và
nhất định là đạo đời hai ngã khác nhau được. Muốn như vậy người Huynh Trưởng,
người Tăng Sĩ lãnh đạo đó phải rành ngoại ngữ và phải tu học nghiêm chỉnh để
trang nghiêm cho tự thân mình thì mới có thể trả lời thông suốt những câu hỏi
mà người ngoại quốc đã đặt ra và hỏi mình.
Nhân việc Gia Đình Phật Tử
Việt Nam tại Hoa Kỳ thuộc miền Quảng Đức muốn ra một lưu tập có liên quan đến
vấn đề giáo dục tuổi trẻ Việt Nam và anh Quảng Pháp Trần Minh Triết có nhờ tôi
viết bài nầy và tôi chỉ viết trong 4 phạm trù đã nêu trên. Nếu có được lợi lạc
nào thì xin trang trải cho tuổi trẻ Việt Nam hải ngoại ngày nay mà các anh chị
trưởng lãnh phần trách nhiệm chính. Nếu không, nó cũng chỉ là một đóng góp
khiêm nhường của một người Tăng sĩ Việt Nam đã sống tại ngoại quốc hơn 30 năm
nay, đã trải qua các Đại học danh tiếng tại Nhật và tại Đức về ngành giáo dục
tâm lý học quần chúng mà nhiều khi sự giáo dục đó nó chỉ thích hợp cho người
ngoại quốc, chứ không phải cho người Việt Nam thì đây chỉ là một đề tài để
tham khảo mà thôi.
Trong cương vị là Điều hợp
cũng như liên lạc viên của các Gia Đình Phật Tử Việt Nam ở hải ngoại cũng như
quốc nội, ngày hôm nay tôi rất hãnh diện để nói lên những quan tâm của mình
cho tuổi trẻ mà chính thời kỳ niên thiếu của tôi cách đây gần 40 năm về trước
khi đi xuất gia, nếu không có sự hiện hữu của Gia Đình Phật Tử Việt Nam tại
một làng quê xứ Quảng, thì ngày nay tôi đã không có cơ hội để gởi gắm những tư
tưởng của mình cho các thế hệ đàn anh và các thế hệ chuyển tiếp về sau.
Mỗi một thế hệ chỉ có thể
bắc được một nhịp cầu từ quá khứ đến hiện tại mà thôi. Tôi đoan chắc rằng thế
hệ tương lai phải do nhịp cầu trong hiện tại bắc tiếp tục, chứ chiếc cầu quá
khứ không thể bắc tiếp quá khứ sang tương lai được. Nếu cố bắc, cũng sẽ bị hụt
hẫn. Vì mỗi một con người chỉ làm được một số công việc nhất định mà thôi.
Cầu nguyện cho tổ chức Gia
Đình Phật Tử Việt Nam ngày nay ở trong cũng như ở ngoài nước luôn luôn dũng
mãnh tinh tấn và tiến bước dưới ánh sáng nhiệm mầu của chư Phật.
Mong lắm thay!
Từ Đức quốc xa xôi khi
mùa xuân đã đến.
THÍCH NHƯ
ĐIỂN