Để chứng minh tình yêu có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với hạnh
phúc của chúng ta ra sao, ta hãy xem xét một ví dụ thông thường. Đôi khi ta
thấy có một cặp vợ chồng rất nghèo khó về vật chất, thế nhưng đời sống của họ
có vẻ hạnh phúc vô cùng. Giữa họ với nhau có vẻ rất tâm đầu ý hiệp. Khi xét cái
căn bản của mối quan hệ giữa hai vợ chồng ấy, ta nhận thấy rằng hạnh phúc của
họ căn cứ trên nền tảng của tình yêu. Một cặp vợ chồng có thể có được tất cả
những tiện nghi vật chất mà họ mong ước, nhưng nếu không có cái nền tảng là
tình yêu đối với nhau thì họ vẫn có nỗi bất mãn, sự tương giao tồi tệ và nhiều
mối khổ tâm.
Nếu
giữa người ta không có tình thương yêu, thì điều chắc chắn là rắc rối sẽ xảy
đến. Bằng kinh nghiệm bản thân, ai trong chúng ta cũng có thể thấy rằng điều
này không những áp dụng cho quan hệ giữa vợ chồng, mà còn giữa những người
trong gia đình, bè bạn và cả đến các quốc gia nữa. Ví dụ nếu một nhóm người
sống với nhau thành một cộng đồng, mà biết thương yêu nhau thì kết quả là họ sẽ
hưởng được hạnh phúc. Nhưng nếu họ không thương yêu nhau chút nào, thì nhiều
vấn đề sẽ phát sinh. Những tâm trạng giận hờn hay ganh tị sẽ khởi lên, đôi khi
còn đưa đến chuyện thù hằn nhau nữa.
Nếu con người ta không bao giờ có tâm giận dữ, thì
đã không có cơ sở cho những cuộc giành giựt đấu tranh xảy ra. Đức Phật dạy rằng
nếu chúng ta không thực hành tâm từ đối với nhau thì sự học Pháp không có hiệu
quả tốt đẹp. Thực hành tâm từ do đó là lời thệ nguyện của tất cả Phật tử. Mỗi
tôn giáo có những lời nguyện hay tuyên thệ khác nhau, và ngay trong hai đạo lộ
Kinh thừa và Mật thừa cũng có nhiều thệ nguyện có trình độ khác nhau. Tuy
nhiên, Phật giáo đại thừa có ba thệ nguyện chính yếu: thệ nguyện đầu tiên là
thực hành tâm từ; thệ nguyện thứ hai là làm việc vì lợi ích và an lạc cho tha
nhân; và thệ nguyện thứ ba là quy y Phật. Bất cứ ai giữ được ba lời nguyện ấy
một cách trong sạch là một người rất thánh thiện và là một Phật tử chân chính.
Khi nói “Phật giáo” là ta muốn nói thái độ và hành vi của
một con người chứ không phải nói về sắc phục hay cách ăn mặc của người ấy. Sự
khác nhau giữa một người Phật tử và không phải Phật tử không phải là chiếc áo
hay kiểu phục sức; mà chính là thái độ hay động lực bên trong tâm người ấy.
Phật tử thuộc các hệ phái và xứ sở khác nhau thường mặc y
phục khác nhau, người thì mặc y màu đỏ, người thì trắng hay vàng tùy phong tục
và hoàn cảnh của xứ sở họ sống. Ta không thể chỉ nhìn tướng chiếc áo bên ngoài
mà bảo một người nào đó là Phật tử hay không. Ta cũng không thể bảo một người
nào là Phật tử hay không phải Phật tử chỉ vì thức ăn hay cách ăn của họ. Phật
tử Tây tạng ăn thực phẩm của xứ Tây tạng, Phật tử Ấn ăn thực phẩm Ấn độ, và
phật tử phương Tây thì ăn những thứ đặc biệt đối với kiểu sống hay khí hậu ở
tây phương.
Phật giáo được định nghĩa do cách suy tư và hành động của
một con người. Nhưng dù họ là phật tử hay không phải phật tử, thì điều rất quan
trọng vẫn là mọi người phải thương nhau. Tâm từ nuôi dưỡng sự phát triển tâm
linh và là suối nguồn của tất cả hạnh phúc.
Khi đã thấy được lợi lạc và tiềm năng của tâm từ thì ta
nên cố gắng phát triển và thực tập tâm từ. Dù hiện tại ta chưa có khả năng để
thực hành tâm từ trọn vẹn, ta cũng nên cố đạt đến tâm từ và tăng dần mức độ hay
phạm vi tu tập của chúng ta. Nếu ai không có chút tâm từ nào cả, thì cũng nên
đào luyện tâm ấy bằng cách xét đến những lợi lạc mà tâm từ có thể mang lại, và
những tai hại của sự không tu tập tâm trạng tốt lành ấy.
Có hai loại tình yêu. Một loại rất mãnh liệt nhưng bị giới
hạn trong một khoảng thời gian, trong khi loại kia cũng mãnh liệt nhưng kéo dài
trong một thời gian lâu hơn nhiều. Loại tình yêu thứ hai này có những lợi lạc
hơn loại thứ nhất rất nhiều. Nó quân bình hơn, và bởi thế cũng bền bỉ hơn.
Một điển hình về loại tình yêu thứ hai này là tình yêu
người mẹ bày tỏ với con. Sự mật thiết đầm ấm của tình mẹ thường kéo dài suốt
cuộc đời bà. Còn loại tình yêu đầu thì ngược lại, có thể chỉ kéo dài trong một
thời khoảng ngắn-chỉ vài năm, vài tháng hay vài tuần. Sau khi loại tình yêu này
phai tàn, thì bất hòa sẽ nảy sinh và những rắc rối trong tương giao sẽ phát
khởi.
Bởi thế, điều quan trọng là có được tình yêu lâu dài, vừa
mãnh liệt vừa bền vững. Nếu tình yêu trong chúng ta có mãnh liệt mà không có
bền bỉ thì nó sẽ không kéo dài. Cũng như một trận mưa lớn có thể tạo nên trong
chốc lát nhiều dòng sông dòng suối. Những dòng này có thể có ảnh hưởng rất mạnh
trong một thời gian ngắn, nhưng ảnh hưởng ấy không lâu bền và sẽ hạ xuống khi
trận mưa chấm dứt, cũng vậy, nếu ta không có tình yêu bền bỉ thì những tương
quan của chúng ta với những người khác sẽ bấp bênh, như tình yêu ban đầu giữa
một cặp vợ chồng chẳng bao lâu đã lắng xuống. Tình yêu trong chúng ta phải bền
bỉ như một con sông luôn luôn hiện diện và vẫn tồn tại mãi.
SỰ THỰC HÀNH TÌNH YÊU
ĐẶC BIỆT
Sự thực hành tình yêu
đặc biệt được tu tập trong truyền thống đại thừa. Sự thực hành ấy là phát sinh tình yêu đối
với tất cả hữu tình và yêu kẻ khác hơn chính bản thân, không có tâm vị kỷ hay
bám víu.
Đối với người không quen thuộc với Pháp và truyền thống
đại thừa, thì có thể khó mà hiểu nổi khía cạnh thứ hai này của tình yêu. Tuy
nhiên người nào đã quen thuộc với truyền thống đại thừa hoặc sẵn có những
khuynh hướng tích cực ảnh hưởng từ đời quá khứ, thì họ sẽ dễ dàng chấp nhận
những giáo lý này và phát sinh tình yêu đối với tất cả hữu tình.
Nếu muốn đạt đến trạng thái hoàn toàn tỉnh giác của Phật
quả ngay trong đời này, thì chúng ta cần phải đi vào truyền thống đại thừa
giáùo. Không thể nào đạt đến toàn giác được nếu tâm không nương vào đại thừa
hay Cỗ xe lớn.
Những người theo truyền thống tiểu thừa hay Cỗ xe nhỏ có
thể đạt đến giải thoát, thoát ly khỏi những nỗi khổ của sinh tử luân hồi nhờ tu
hành thanh tịnh, nhưng họ không thể đạt toàn giác nếu không đi vào truyền thống
đại thừa và thực hành đại thừa giáo.
Thực vô cùng lợi lạc khi thâm nhập truyền thống đại thừa,
bởi vậy chúng ta nên hướng nghị lực và nỗ lực của chúng ta về mục tiêu ấy.
Hiện tại vì chúng ta có được thân người quý báu và cũng đã
gặp truyền thống đại thừa, nên ta có cơ hội để bước lên đạo lộ Đại thừa thực
thụ.
Nếu bây giờ chúng ta không luyện những tâm đại thừa quý
báu như tâm đại từ – thương yêu tất cả hữu tình – và không thực hành những giáo
lý này, thì quả thực ta đã để mất một cơ hội rất hiếm hoi. Nếu được một viên
ngọc quý mà ta lại vứt đi vì không biết giá trị của nó, tức là ta đánh mất dịp
may làm lợi lạc cho bản thân mình. Cũng vậy, nếu ta đã gặp được giáo lý đại
thừa mà không nhân cơ hội ấy để làm lợi mình, thì có thể về sau ta sẽ rất hối
tiếc vì đã không lợi dụng cơ hội, và khi hối tiếc thì đã quá muộn màng.
Nếu ta đã gặp hoàn cảnh và thời gian thuận tiện, các giác
quan còn sắc bén mạnh mẽ, mà lại bỏ qua cơ hội này không chịu thực hành Pháp,
thì về sau trong cuộc đời, dù ta có mong gặp lại những giáo lý và có muốn tu
tập, cũng không còn có cơ hội nào nữa. Khi ấy chúng ta có thể đã quá già yếu;
khi ấy ta có thể vô cùng ân hận vì đã không tóm lấy cơ hội trong lúc ta còn có
khả năng.
Bởi vậy ngay bây giờ, ta nên nỗ lực thực hành Pháp, nếu
không thì chẳng mấy chốc cái cơ hội để làm việc ấy sẽ biến mất.
Có được cơ may đi vào truyền thống đại thừa và thực hành
đường lối đại thừa giáo quả là một đặc ân lớn. Có lần người ta hỏi một học giả
uyên bác thuộc phái Kadampa, ngài thích có thần thông bay được trong hư không,
hay là thích tu tập theo đại thừa giáo, vị ấy trả lời rằng, trong nhiều đời quá
khứ ông đã có thần thông bay được trên không và thấy được nhiều điều mắt người
thường không thể thấy. Nhưng kế tiếp ông lại bảo, nếu hồi ấy ông thực hành giáo
lý đại thừa thì bây giờ tình huống sẽ khác hẳn, ông không còn phải chịu những
khổ đau trong vòng luân hồi sinh tử.
Rồi vị ấy còn giải thích rằng ông thực may mắn làm sao,
khi gặp được giáo lý đại thừa và một bậc thầy đại thừa trong đời hiện tại. Ông
thích theo học giáo lý đại thừa hơn là theo đuổi thuật khinh công vân vân, vì
chỉ có giáo lý đại thừa mới giúp ông cơ hội đạt đến toàn giác ngay trong đời
này. Khi đạt toàn giác, thì tự nhiên sẽ có vô số khả năng như bay trên hư
không, mà không cần phải dụng công nỗ lực. Vì những lý do ấy, vị học giả kết
luận rằng giáo lý đại thừa là thù thắng nhất.
Một trong những pháp tu chính yếu của đại thừa là phát
triển sự tập trung vào lòng từ rộng lớn bằng cách hướng sự chú tâm của chúng ta
đến các hữu tình. Thực tập và đạt được định lực về tâm từ bằng cách dùng hữu
tình làm đối tượng thiền quán, là pháp thiền thù thắng nhất trong các pháp tu
đại thừa. Ta có thể dùng kinh nghiệm của chính đức Thích ca để chứng minh.
Khi Phật Thích ca sắp đạt toàn giác, có nhiều ma quỷ dùng
nhiều loại khí giới cố giết hại ngài. Tương truyền có hàng ngàn ác quỷ đến hại
ngài để ngăn cản ngài đạt giác ngộ. Khi những ma quỷ cố nhiễu loạn ngài, đức
Phật đã khai triển định lực bất động về từ tâm, nên mặc dù cố hết sức hoành
hành mà ác ma cũng không thể làm giao động thiền định của đức Phật.
Những khí giới, tên độc vân vân mà ác ma dùng để chống
Phật đã hóa thành bông hoa nhờ ngài tập trung định lực vào tâm từ. Khi ác ma
thấy không thể hại Phật bằng những phương tiện ấy, chúng cố nhiễu loạn định lực
của ngài bằng cách biến hóa ra những phụ nữ xinh đẹp.
Nhưng dù chúng có hóa hiện thành những hình tướng hấp dẫn,
ác ma cũng không thể ngăn cản thiền định của Phật.
Nhờ năng lực của thiền định về tâm từ mà Phật đã đạt toàn
giác vào ngày rằm tháng tư, tính theo lịch Tây tạng (âm lịch). Nếu chúng ta có
thể thực hành tâm từ một cách thuần tịnh, thì dù cho lúc đầu sự tập trung của
ta chưa được tốt đẹp như sự tập trung của đức Phật, chúng ta chắc chắn sẽ có
được những hậu quả lợi lạc, và cuối cùng ta sẽ đạt đến tâm từ bất động như của
Phật.
TÁM LỢI ÍCH CỦA VIỆC
THỰC HÀNH TỪ TÂM
Có tám lợi ích do việc thực hành tâm từ đem lại. Lợi ích
thứ nhất là, người thực hành tâm từ sẽ có năng lực công đức mãnh liệt. Trải tâm
từ đến tất cả chúng sinh có lợi ích lớn hơn cả việc bố thí thực phẩm. Sở dĩ như
vậy là vì thực hành từ tâm một cách thuần tịnh sẽ giúp ta nhanh chóng đạt giác
ngộ. Đem thực phẩm bố thí cho chúng sinh có thể có lợi lạc tạm thời là làm giảm
cơn đói của chúng, nhưng lợi ích này chỉ kéo dài một vài giờ rồi chúng cũng lại
cần thức ăn. Nhưng khi chóng đạt giác ngộ nhờ công đức tâm từ, ta sẽ có năng
lực thiện xảo để dẫn dắt tất cả hữu tình đau khổ đi đến trạng thái giác ngộ như
ta. Bởi thế tâm từ có lợi ích tối hậu là đem lại năng lực công đức.
Lợi ích thứ hai là, nếu tâm từ được thực hành một cách
thành thực, thì người thực hành từ tâm được nhân loại và chư thiên yêu kính. Lý
do vì hành động (hay nghiệp) thường phát sinh hậu quả tương tự với nguyên nhân.
Khi ta gieo những hạt giống từ bi, thì theo định luật nghiệp báo, ta sẽ nhận
được hoa trái từ bi.
Lợi ích thứ ba của việc thực hành từ tâm là, ta được nhân
loại và chư thiên che chở thoát khỏi những chướng ngại cho sức khoẻ, mạng sống
vân vân của mình. Thứ tư là nhờ thực hành tâm từ mà tâm ta luôn luôn yên ổn an
tịnh. Lợi ích thứ năm của việc thực hành tâm từ là thân thể ta sẽ có được sự
thoải mái mềm mại.
Lợi ích thứ sáu là, nếu ai cố hại
người thực hành từ tâm bằng độc dược hay khí giới, họ sẽ
thất bại vì khí giới độc dược sẽ không có tác dụng. Nếu định lực về tâm từ nơi
ta rất mạnh, thì người khác không thể nào hại được. Lợi ích thứ bảy do thực
hành tâm từ là, ta sẽ được tái sinh làm một vị trời trong các cõi trời cao siêu
nhiều phúc lạc.
Cuối cùng, lợi ích thứ tám của thực hành tâm từ là, trong
tương lai, bất cứ ai nhìn hay tiếp xúc với người thực hành tâm từ cũng sẽ thấy
vị ấy là dễ chịu, lôi cuốn. Lại nữa, nhờ thực hành từ tâm mà tất cả ước mong
của ta sẽ được thành tựu.
Nếu ta tiếp tục thực hành tâm từ bằng cách yêu thương kẻ
khác hơn bản thân mình, ta sẽ phát triển được tâm đại bi đối với tất cả hữu
tình. Muốn phát triển tâm đại bi ấy, ta cần phải lập nguyện thực hành tâm từ
đúng theo truyền thống đại thừa giáo.
Nếu không dựa vào một phương pháp như truyền thống Đại
thừa đã dạy, thì chúng ta không thể tự nhiên vô cớ mà phát sinh lòng thương đối
với tất cả hữu tình.
Bởi vậy trước hết ta phải biết rõ và gắng thực hành một
phương pháp phát triển tâm từ thì ta mới có thể có được những lợi lạc của việc
hành từ.
Có ba phương pháp để đạt được những thực chứng về tâm từ. Thứ
nhất là thấy lợi ích phát sinh do sự thương yêu các hữu tình. Thứ hai là thấy
những lỗi lầm của tâm vị kỷ, và thứ ba là nhớ lại sự tử tế của chúng sinh.
NHỮNG LỢI ÍCH CỦA SỰ
YÊU MẾN HỮU TÌNH
Nếu ta quán sát một cách nghiêm túc ba phương pháp lý luận
này thì chắc chắn cuối cùng ta sẽ đạt thực chứng về tâm từ.
Ta nên khởi sự bằng
phương pháp thứ nhất: thấy những lợi ích phát sinh do sự yêu thương các hữu
tình. Thông thường ta không thể thấy được hết những lợi lạc của sự yêu thương
hữu tình nếu không học Pháp, ví dụ học về tám lợi ích đã đề cập ở trên.
Chẳng hạn ta nên xét những hiệu lực mà đức Phật đã tạo ra
khi ngài thực hành từ tâm.
Lâu xa về trước, khi đức Phật Thích ca mâu ni chưa đạt
chánh giác, thì ngài cũng là một phàm phu về mọi phương diện. Nhưng nhờ tiếp
xúc với giáo lý đại thừa, và nhất là nhờ thực hành tâm từ, mà cuối cùng ngài đã
đạt đến toàn giác. Điều quan trọng nhất là trước hết ta nên thực hành tâm từ
bằng cách quan sát đức Phật yêu thương kẻ khác như thế nào. Nếu muốn biết rõ
chi tiết đức Phật đã thực hành lòng yêu thương hữu tình như thế nào, ta nên đọc
một vài mẩu truyện Bản sanh kể về cuộc đời của ngài. Dưới đây sẽ đưa ra một ví
dụ.
Vào một trong những tiền kiếp của đức Phật, ngài tái sinh
làm một vì vua tên Pemachen. Vào thời vua Pemachen trị vì, thần dân trong nước
ngài gặp phải nạn dịch trầm trọng. Bệnh dịch ghê gớm đến đôï những người mới
vừa nhiễm bệnh là chết ngay, y sĩ vô phương cứu chữa. Kết quả của cơn dịch lan
tràn trong quốc đôï vua Pemachen là chỉ trong vòng một tháng mà đã có nhiều
ngàn người chết. Vua Pemachen thấy rõ nếu không nhanh chóng tìm ra thuốc trị
bệnh, thì đa số thần dân của ngài chắc chắn phải chết.
Vua
triệu tập một hội nghị các y sĩ và ra chỉ thị cho họ phải làm những nỗ lực mới
để tìm thuốc chữa bệnh. Mặc dù đã cố gắng hết sức, các y sĩ vẫn không tìm ra
được phương thuốc nào. Nhưng có một y sĩ tâu rằng trong quá khứ có lần bệnh
dịch này đã được cứu chữa nhờ những tinh chất rút từ cơ thể của một loài cá rất
hiếm là cá Rohita. Vị y sĩ nói rằng loài cá này chỉ có ở quê nhà ông, tại một
vùng biển rất xa, và trong nhiều năm ông đã cố tìm nhưng không được. Bởi thế
bây giờ ông tin rằng loài cá ấy đã tuyệt giống.
Sau khi nghe việc ấy, vua trở về cung điện và suy nghĩ rất
lung.
Nhà vua
lập luận rằng nếu trận dịch tiếp tục kéo dài, thì cả mình lẫn thần dân sẽ chết
và nếu mình không còn phục vụ thần dân được nữa, thì không ích gì để giữ lại
cái thân xác này. Ngài quyết định chết để làm lợi ích cho thần dân bằng cách
tái sinh làm loài cá hiếm ấy để cứu dân khỏi bệnh dịch. Sau khi phát sinh ước
muốn mãnh liệt làm lợi người, ngài cho đòi viên y sĩ trước đấy đã đi tìm loại
cá hiếm Rohita, và chỉ thị cho ông trở về vùng biển xa xôi ấy mà bắt đầu lại
cuộc tìm kiếm.
Vị y sĩ tâu rằng sau nhiều năm tìm kiếm ông đã không thấy
được tăm hơi một con cá Rohita nào, và dù có tìm ra, thì một con cũng không đủ
thiếu gì để chữa bệnh cho tất cả mọi người. Nhưng nhà vua vẫn nhất quyết bảo vị
y sĩ phải đi ngay, và bắt đầu lại cuộc tìm kiếm của ông ta. Vị vua còn khuyến
cáo y sĩ rằng, nếu ông ta tìm được một con thì sẽ có nhiều con nữa.
Ngay đêm hôm ấy, sau khi y sĩ khởi hành, vua Pemachen chết
và được tái sinh như ý muốn của ngài, là làm một con cá hiếm có dược tính, cá
Rohita. Liền sau đó, vị y sĩ người bắt đầu trở lại cuộc săn tìm, phải ngạc
nhiên khi bắt gặp cái mà ông đã tìm kiếm trải qua nhiều năm trước đấy. Y sĩ vội
vàng chế ngay một thứ thuốc công hiệu cứu mạng được vô số người bị bệnh dịch đe
dọa.
Khi y sĩ giết con cá ấy, nó liền tái sinh ngay trở lại làm
cá để cung cấp dược chất được xử dụng để làm lợi ích nhiều người. Bằng cách ấy
tâm từ của vua Pemachen đã làm lợi ích cho vô số hữu tình.
Vua Pemachen đã có thể xả bỏ thân xác, lúc đầu là thân
người rồi sau đó nhiều lần thân cá, vì vua xem trọng kẻ khác hơn bản thân mình.
Điều này được thành tựu là do năng lực của từ tâm.
Hậu quả hành động của vua Pemachen cuối cùng đã đưa nhà
vua đến quả vị Phật, sự toàn giác. Chúng ta cũng nên suy nghĩ như thế, rằng nếu
ta thực hành tâm từ một cách chân thực, ta sẽ được hậu quả tương tự là đạt giác
ngộ. Ta nên làm quyết định yêu thương kẻ khác hơn chính bản thân mình và khi
xuất khỏi thiền định về tâm từ, ta hãy duy trì lòng thương yêu ấy trong tâm trí
ta.
NHỮNG TAI HẠI CỦA SỰ
TỰ THƯƠNG THÂN
Phương
pháp thứ hai để phát sinh thực chứng về tâm từ là thấy rõ lỗi lầm và tai hại
của cái tâm lý vị kỷ. Từ vô lượng kiếp, chúng ta chỉ có thương thân mình, chỉ
vì sự an vui cho bản thân mà mong mỏi hoàn tất được điều này điều nọ. Cứ thế,
trải vô số kiếp chúng ta đã nỗ lực để được hạnh phúc bằng cách chịu đựng hết
nổi gian khổ này đến gian khổ khác, thế mà thực thụ ta đã được lợi lạc gì ? Thay
vì được hạnh phúc vì tự yêu quý bản thân mình, thái độ này chỉ đem lại đau khổ
triền miên và sự tái sinh trong vòng luân hồi. Tất cả đau khổ phát sinh trong
đời ta đều do tâm lý tự ái luyến bản ngã; chính thái độ ấy là nền tảng của mọi
đau khổ trong ta. Nếu thực tình tra tầm điều này một cách thiện xảo, ta sẽ thấy
rõ điều ấy quả không sai.
Điều vô
cùng quan trọng là phải biết đau khổ lệ thuộc vào tâm. Nếu không có cảm giác
thì sẽ không có khổ đau.
Bản
chất của cảm giác là cái tâm. Vì cảm giác không hiện hữu bên ngoài mà chỉ hiện
hữu trong tâm, nên đau khổ cũng từ trong tâm mà sinh khởi.
Với
những vị đã đạt giải thoát niết bàn như chư Phật và La hán (những người đã đánh
bại được kẻ thù là phiền não nhiễm ô), thì không còn kinh nghiệm khổ đau đến
với họ. Dù cho những bậc giác ngộ này có gặp những nghịch cảnh và những điều
kiện khổ đau kịch liệt đến đâu, các vị ấy vẫn không kinh quá sự đau khổ. Những
bậc giải thoát không kinh quá nỗi đau khổ, vì khổ hoàn toàn phụ thuộc vào tâm,
mà trong tâm họ những gốc rễ của đau khổ đã được tận trừ.
Nhiều
thiền giả đã sống phần lớn cuộc đời của họ với rất ít tiện nghi vật chất và
thực phẩm, thế nhưng tâm họ vẫn vô cùng hạnh phúc. Milarepa chẳng hạn, người
ông xanh như tàu lá do phải ăn toàn rau cỏ vì không có thực phẩm nào khác. Tuy
vậy tâm ngài vẫn rất hỉ túc vì ngài đã phát triển một niềm phúc lạc nội tâm,
hạnh phúc này không tùy thuộc vào ngoại cảnh.
Những
ví dụ như trên chứng tỏ rằng hạnh phúc chân thực phát xuất từ trong tâm. Khi
xét thấy các thiền gia đều phát triển phúc lạc nội tâm chân thực, thì ta dễ
dàng chấp nhận lời tuyên bố rằng căn nguyên của đau khổ là cái tâm tự yêu mến
bản thân. Nếu ta chưa nghiên cứu và thiền quán về giáo lý đại thừa để biết
những kết quả lợi lạc phát sinh do thực hành con đường đại thừa, thì thực rất
khó mà chấp nhận lời tuyên bố ấy. Ta nên nhận chân rằng cái tâm tự yêu quý mình
chính là nguồn gốc của mọi đau khổ cho chúng ta, và lập nguyện mạnh mẽ rằng từ
đây về sau cho đến khi đạt giác ngộ, chúng ta sẽ yêu mến kẻ khác hơn chính bản
thân mình.
Kết luận, ta nên cố gắng làm phát sinh cái tri kiến rằng
từ thời gian vô thủy cho đến ngày nay, ta đã không nhận được cái gì ngoại trừ
khổ đau là kết quả của những tư tưởng luôn luôn ái luyến bản ngã. Mặc dù ta đã
làm mọi nỗ lực để yêu quý bản thân, ta vẫn bị tái sinh vào cuộc sinh tử mà ta
không lựa chọn.
Kế tiếp ta nên tư duy rằng bây giờ, sau khi được tiếp xúc
với giáo lý đại thừa, nếu ta thực hành tâm từ một cách thuần tuý thì cuối cùng
ta sẽ đạt giác ngộ – trạng thái trong đó ta không còn kinh nghiệm khổ đau.
Khi tư duy như thế rồi, phát sinh một cảm giác tích cực
mong đạt mục tiêu giác ngộ, sau đó chúng ta nên nhất tâm tập trung thiền quán
về đề tài này. Đây gọi là thiền quán về tâm từ.
Thiền định có nghĩa là dán chặt tâm ta một cách chuyên
nhất trên một đối tượng tốt lành. Bất kể đối tượng thiền quán là gì, điều quan
trọng là ta phải phát sinh được cảm giác tích cực về đối tượng ấy. Trong trường
hợp quán tâm từ, muốn có được cảm hứng ta nên xét những lợi lạc do pháp thiền
quán ấy đem lại.
Cách thiền quán về tâm từ có khác với thiền quán về vô
thường hay Tánh không, và điều cốt yếu là ta phải nhận ra sự khác biệt ấy.
Khi thiền quán về vô thường, thì vô thường là đối tượng
còn tâm ta là chủ thể. Ta nên cố duy trì sự tập trung toàn triệt của ta vào vô
thường, đừng để mất chánh niệm về đối tượng ấy, an trú tâm trên đối tượng một
cách chuyên nhất. Trong phép quán hình tượng Phật cũng vậy. Hình tượng Phật là
đối tượng thiền quán, còn tâm ta là chủ thể. Ta cần phải cố gắng đừng quên đối
tượng của thiền quán và cố duy trì tâm ta dán chặt trên đối tượng lâu chừng nào
tốt chừng ấy.
Trái lại, khi thiền quán về tâm từ, thì ta nên cố gắng
chuyển tâm ta thành bản chất của yêu thương. Nhờ sự tập trung thiền định mà tâm
chủ thể trở nên hòa nhập với đối tượng của nó là tâm từ, với hậu quả là giữa
hai thứ tâm ấy không có kẽ hở. Bằng cách ấy ta nên cố làm tan biến hoàn toàn
cái tâm yêu quý bản thân mà thay vào đó bằng tâm yêu mến kẻ khác hơn chính thân
mình. đây là một điểm căn bản, bởi thế sự khác biệt giữa hai loại thiền quán
này cần được hiểu rõ. Nếu chúng ta biết cách thiền quán, xử dụng đúng phương
pháp, thì thiền quán của ta trở nên rất hiệu lực.
Nếu ta nghe giảng một giáo lý mà không biết thiền quán cho
đúng cách về đề tài ấy, thì sự thực hành của ta sẽ khó khăn và hậu quả thiền
quán của ta sẽ bị hạn chế.
Chúng ta có thể thực hành tâm từ ngay hay không, điều ấy
dĩ nhiên còn tùy ở chính chúng ta; song cái điều vô cùng quan trọng là phải
thực tập lòng yêu thương đối với kẻ khác bằng cách phát sinh tình yêu bình đẳng
đối với bạn, thù và người xa lạ.
Khi đào luyện sự yêu mến kẻ thù, thì ta nên xét rằng kẻ
thù không có tính cách vĩnh viễn là thù, mối liên hệ ấy thường thay đổi. Một
người mà ta xem là một kẻ thù về sau có thể thành ra một người bạn thương nhau
tha thiết. Hệt như một kẻ thù có thể trở thành bạn hoặc ngay cả thành vợ hay
chồng, thì một người bạn cũng có thể biến đổi thành ra kẻ thù. Khi đã thấy trên
đời có những trường hợp thay bậc đổi ngôi như vậy – bạn thành thù và thù thành
bạn - thì chúng ta nên cố mà phát sinh tình yêu bình đẳng đối với tất cả hữu
tình. Nếu chúng ta có thể phát sinh tình yêu mến đối với kẻ thù, thì thực dễ
dàng để phát sinh tình yêu mến đối với bạn hữu và người xa lạ.
NHỚ LẠI SỰ TỬ TẾ CỦA
NGƯỜI KHÁC
Phương pháp thứ ba để phát triển thực chứng về tâm từ là
nhớ lại sự tử tế của người khác. Ta nên xét mình thực đã sống nhờ sự tử tế của
họ. Có vô số ví dụ về sự khó nhọc của người khác đã làm lợi ích cho ta như thế
nào.
Chẳng hạn, thực phẩm ta ăn đã đến với ta nhờ sự tử tế của
người khác: sự làm lụng khó nhọc của nông phu, những người chế biến và phân
phối cung cấp. Y phục và nhà cửa ta dùng đều được chế tạo nhờ công việc nặng
nhọc của nhiều người. Sự học hành, dược phẩm trị liệu và cả đến khả năng chúng
ta được đi đây đi đó bằng đường bộ, hỏa xa hay đường hàng không, tất cả những lợi
ích đó đều do sự tử tế của người khác mang lại.
Cả đến thú vật cũng rất tốt với ta, đem đến cho ta nhiều
lợi lạc. Chẳng hạn bò cái cho sữa và cừu cho len. Nhiều súc vật phải mất mạng
để cho chúng ta có cái ăn cái mặc. Nếu không nhờ những chúng sinh khác thì đời
sống chúng ta sẽ vô cùng khó khăn – không biết ta có còn sống sót được hay
không.
Cũng như trong đời hiện tại ta nhận được nhiều sự tử tế từ
những hữu tình khác, trong vô số đời trước của ta cũng vậy. Từ vô thủy, trong
vô số đời kiếp, tất cả hữu tình đều đã đóng vai mẹ ta, quên mình để thương yêu
săn sóc ta. Chỉ cần quán sát lòng tử tế của mẹ ta hiện tại, những nỗi khổ mà vì
ta bà phải chịu đựng, lòng thương yêu lo lắng của mẹ đối với ta, chúng ta cũng
có thể hiểu được rằng tất cả hữu tình – những người đã đóng vai mẹ ta trong
nhiều kiếp quá khứ – đều đã tử tế với ta một cách không ngờ.
Cho dù khó công nhận tất cả hữu tình đều đã làm mẹ mình,
ta cũng nên nghĩ chắc chắn họ đã rất tốt với mình trong những đời quá khứ. Mỗi
hữu tình đều đã nhiều lần là bạn hữu và ân nhân của ta.
Tóm lại, ta nên nhớ và quán tưởng lòng tử tế của những
chúng sinh khác quanh ta trong đời này. Ta cũng nên nhớ lại lòng tử tế ấy đã
từng làm lợi lạc cho ta trong nhiều đời kiếp về trước. Khi nhớ lại sự tử tế của
người khác, ta nên phát triển tâm từ đối với tất cả chúng sinh.
“Phật Giáo Truyền
Thống Đại Thừa”