Sinh và lớn lên với biệt nghiệp, bị mù bẩm sinh, thầy
biết rằng sẽ khó được xuất gia tu học như ước nguyện. Nhưng, cuộc sống
luôn ẩn chứa điều nhiệm mầu, mắt thầy sáng trở lại trong một thời gian
ngắn, đủ nhân duyên để được thọ đại giới, trở thành một Tỳ kheo. Thầy
nguyện cả cuộc đời còn lại của mình gắn với những người cùng cảnh ngộ,
giúp họ vượt thoát ra bóng tối bằng niềm tin Phật pháp. Pháp tự của thầy
là Thích Hạnh Thông, sinh năm 1958 tại Quảng Ngãi, đệ tử của Hòa thượng
Ân Điền chùa Từ Nghiêm.
Thầy Hạnh Thông hướng dẫn người mù học chữ nổi
Nhọc nhằn tìm chữ
Từ một cuộc điện thoại với giọng miền Trung xa lạ, hỏi về bộ kinh Thủ Lăng Nghiêm bằng chữ nổi, chúng tôi mới biết thầy là một vị xuất gia. Thầy nói về tuổi thơ thiếu may mắn của mình:
"Tôi lớn lên trong một gia đình nghèo khó lại chịu
nhiều oan khiên, cả ba chị em đều mù lòa, chỉ có một anh trai mắt sáng.
Cha tôi mất trong loạn lạc, lúc tôi lên 10 tuổi. Một người anh bán hết
đàn bò của gia đình, đưa tôi vào Sài Gòn chữa trị, nhưng không lành. Và
rồi tôi học đàn ghi ta cổ nhạc, nhưng không học xong vì không đủ tiền
đóng học phí.
Anh tôi phải đi lính khi tôi 11 tuổi; chỗ dựa không
còn, tôi đành xin về quê. Nhưng ngay hôm đó bác tôi báo tin "tìm được
tương lai cho con rồi, con đừng về quê nữa, có trường học rờ bằng tay
cho người mù". Khi được đưa vào trường mù, rờ tay trên chữ nổi tôi vui
mừng la lớn "con hiểu rồi, con sẽ học được con chữ". Vào trường, tôi
được thầy giáo rất thương vì sự thông minh, sáng dạ, học đâu hiểu đó.
Không phụ lòng thầy cô, tôi học ngày học đêm không biết mệt mỏi vì say
mê và niềm hạnh phúc được hiểu biết tất cả qua những ký hiệu chữ
Braille. Chỉ một tháng rưỡi sau, tôi học xong chương trình lớp 1.
Đam mê học tập, chưa bao giờ nghỉ học một ngày, chỉ
một năm rưỡi tôi học xong chương trình tiểu học vào cuối năm 1971 (tại
trường tiểu học nam sinh mù ở đường Trần Hoàng Quân bây giờ là đường
Nguyễn Chí Thanh). Say mê việc học, với chiếc gậy, tôi quờ quạng đi vào
các trường trung học xin nghe giảng để tiếp tục học nhưng đi đến đâu
cũng nghe nói: "mù mà đòi vào trung học nữa sao?".
Cuộc nói chuyện giữa chúng tôi xin được ghi vắn tắt,
đời người như một quyển sách, và có những đoạn thăng trầm mà người viết
khó nghĩ ra nếu không được nghe chính người trong cuộc giãi bày:
"Không chịu thua, tôi về nghĩ cách học đánh máy chữ
(máy dùng cho chữ sáng). Tôi quyết tâm học thuộc chữ trên bàn máy và các
ký hiệu thông thạo bằng 10 ngón tay. Nỗ lực của mình được đền bù, tôi
đánh được các bài hát, bài học cho các em bé bằng máy đánh chữ hiệu DKZ.
Nhưng ôm cái máy đi đến đâu cũng không có ai tiếp, may thay, Trường
Lasan Taber nhận tôi vào học vì ở đó có chương trình dạy cho cả mắt sáng
và mù. Nhờ chăm chỉ, tôi học giỏi thuộc loại đặc biệt xuất sắc. Chỉ
trong 2 năm, tôi học xong chương trình trung học, năm 1973 đậu tú tài 1
và 1974 đậu tú tài đôi.
Không ngừng học tập và tự nghiên cứu nhưng niềm đam
mê cháy lòng là âm nhạc, tôi theo học đàn tranh ở Trường Quốc gia Âm
nhạc. Khi chưa lấy được bằng âm nhạc thì đất nước giải phóng, tất cả đổi
thay, mọi hy vọng được ra nước ngoài tiếp tục học chương trình cao hơn
cho người mù và được chữa mắt của tôi cũng tan ra mây khói. Vì hụt hẫng
quá và cũng do học quá nhiều nên thần kinh luôn căng thẳng, tôi bị tai
nạn xe và được chữa trị tại Bệnh viện Sài Gòn. Cơ duyên, thầy Bùi Minh
Khiết mở trường mù, mời tôi về dạy học và làm Chủ tịch Hội Người Mù. Nửa
chừng, người mẹ mù lòa của tôi đau nặng, tôi phải bỏ hết trở về quê lo
cho mẹ bằng nghề đánh đàn cò, đàn nhị cho các thầy cúng.
Duyên lành hội đủ
Thầy nói, ánh sáng Phật pháp là một điều bất khả tư nghì, không thể đem tâm toan tính đời thường để cảm nhận được…
Duyên lành, tôi gặp được thầy Giải An (thường gọi là thầy Hộ) khuyên nên trì chú Đại Bi cho mắt sáng. Ngay từ nhỏ, tôi đã thuộc kinh Di Đà và chú Đại Bi
nên đặt hết niềm tin chí thành nơi mẹ Quan Âm, phát nguyện trì tụng 108
biến mỗi ngày. Tôi trì được đúng 3 năm thì mắt từ mù trở nên mờ mờ thấy
được người, phân biệt được nam nữ. Tôi quyết định đi tu để đền ơn Phật.
Nhưng, tôi luôn trăn trở là người bị mù làm sao được xuất gia cứ luôn
ám ảnh trong đầu.
Tôi xin xuất gia nhưng quý thầy chỉ cho thọ Bồ tát
giới tại gia. Tình cờ, tôi nghe thầy Trí Quảng kể chuyện A Na Luật mù
nhưng tu tinh tấn, được Đức Phật thương và vá y cho... nên tôi nuôi hy
vọng được trở thành một vị Tăng sĩ. Hàng năm, tôi đều đi hạ (kể từ năm
2001). Và, Đại giới đàn Đại Tòng Lâm năm 2003 tôi xin đi thọ giới. Vào
giới trường, tôi năn nỉ xin được thọ giới để tu học.
Lại là điều mầu nhiệm, mắt tôi vẫn sáng mờ, chư tôn
đức giáo thọ đưa bàn tay hỏi: "Mấy ngón đây?", tôi thấy mờ mờ nên trả
lời đúng hết. Quý thầy nói với nhau: "Ông thầy này lòa chứ không mù".
Quý thầy tiếp tục hỏi tôi 7 câu Phật pháp, tôi đều trả lời thông suốt
nên năm 2003 tôi đắc giới Cụ túc tại Đại Tòng Lâm".
…Đó là một sự nhiệt tâm, nhiệt tình vượt đêm dài tăm
tối của biệt nghiệp, thấy được ánh sáng Phật pháp là một món quà của
nhân gian và thầy muốn tặng lại nó cho những người mù:
"Trở về Quảng Ngãi, địa phương đang dạy chữ nổi cho
người mù, tôi đăng ký tham gia tập huấn tại Hà Nội và đạt kết quả giáo
viên loại khá. Tôi dạy 4 lớp trong trường Quảng Ngãi vào mùa hè (mùa hè
mới có phòng học trống dành cho người mù mượn đỡ để học) và với lòng
nhiệt tình của mình, các học sinh đều có kết quả tốt đẹp.
Song song với dạy chữ nổi, tôi còn giảng pháp ở các
đạo tràng chùa An Sơn, xã Phổ Khánh và chuẩn bị thành lập đạo tràng niệm
Phật tại tịnh thất Dược Sư của mình cũng là cơ sở của Chi hội Người mù
của xã. Với trải nghiệm của mình, tôi chỉ mong tất cả người mù đều biết
chữ để có cơ hội học Phật pháp vượt thoát ra khỏi những khổ đau.
Mùa An cư năm 2010, khi đang dự khóa an cư kiết hạ thì nghe quý thầy đọc bài báo "Thấy ánh sáng Phật pháp từ bóng tối mù lòa"
trên báo Giác Ngộ số Vu lan, tôi đã vui mừng và rất cảm động. Bởi lẽ,
khi nghe có nhóm từ thiện in kinh chữ nổi cho người mù, và tôi đã khóc
khi nghe đến những nơi có quá nhiều người mù không biết chữ (người mù ở
xã Vĩnh Châu - Sóc Trăng). Với tâm nguyện xóa mù chữ cho người mù đã
hằng ấp ủ, tôi liên hệ và hỏi thăm về tịnh xá Ngọc Châu Như ở xã Vĩnh
Châu, nơi có cả 500 người mù nhưng không ai biết chữ.
Lại một nhân duyên tốt lành, tôi được biết nơi đây cũng là nơi Sư cô
Hương Nhũ, trưởng nhóm in kinh cho người mù giảng bài pháp thoại đầu
tiên cho những người mù lòa vào tháng 7 năm 2010. Thay vì thông báo tặng
quà, tịnh xá chỉ thông báo đến nghe pháp, có trên 150 người mù đã đến
và chờ từ sáng sớm đến 2 giờ chiều thời pháp mới bắt đầu. Họ đã ngồi
nghe chăm chú, kiên nhẫn và không hề tỏ ra mệt mỏi. Tôi rất vui vì biết
họ cũng mong được học Phật pháp qua chữ nổi, Sư cô Hương Nhũ cũng hứa hỗ
trợ kinh sách bằng chữ nổi, vậy là tôi sẽ có cơ hội cùng với họ học tập
và trò chuyện Phật pháp trong thời gian tới. Tôi sẽ có thời gian gắn
với những người cùng cảnh ngộ".
Huỳnh Diệu (GNO)