Ðạo Phật đối với đời sống con người và xã hội
Lê Hữu Tuấn
Ðạo
Phật xuất hiện trên thế giới có chiều dài lịch sử nhiều ngàn năm và phát triển
ở Việt Nam cũng gần hai mươi thế kỷ. Từ trước đến nay đã có rất nhiều tài liệu
và công trình nghiên cứu để lý giải, tìm hiểu sâu sắc về đạo Phật được công bố
và xuất bản. Tuy nhiên do tính phức tạp của vấn đề, những nghiên cứu trên vẫn
còn nhiều điều cần phải bàn tiếp. Ðể góp phần làm sáng tỏ hơn những vấn đề Phật
học then chốt, người viết bài này xin được trình bày những vấn đề sau: 1. Ðức
Phật và con người; 2. Trí tuệ, Từ bi, và Ðại lực.
1. Ðức Phật và con
người
Ðạo Phật được khai sáng bởi con
người để phục vụ con người. Ðạo Phật lấy con người làm gốc. Tôn giáo này làm
thỏa mãn những nguyện vọng cao quý và sâu xa của con người, và nó còn có thể
chịu đựng sự căng thẳng và nhiễm ô của đời sống hàng ngày, nó giúp họ lúc tiếp
xúc với đồng loại, ngoài ra còn đưa ra một mục đích sống. Nó không gieo rắc nỗi
sợ hãi trong lòng người."Cái tốt sẽ mang đến cái tốt, và cái xấu sẽ đem
đến cái xấu", "Mỗi hành vi đều có hậu quả của nó" (every action
has its reaction). Ðó là những quy luật tự nhiên. Tôn giáo này hoàn toàn phù
hợp với quy luật đó, theo đó con người "Gieo nhân gì thì sẽ gặt quả
nấy". Mọi khổ lạc của con người trong cuộc sống này không phải do ảnh
hưởng từ bên ngoài mà là do hành động từ chính con người tạo ra trong thời hiện
tại hoặc trong một kiếp trước.
Tinh thần nhân bản của đạo Phật được
biểu lộ không những ở giáo lý, mà còn ở thái độ sống của con người. Ðức Phật
không phải là một nhân vật huyền thoại mà là một bậc Ðại Ðạo Sư đã từng sống
thật trong thế giới này. Trước khi thành Phật Ðức Thích Ca có tên là Shiddharta
đã có gia đình, vợ là công chúa Gia Du Ðà La và một người con tên là La Hầu La.
Ðức Phật không bao giờ tìm cách tự
xưng mình là một bậc siêu nhân mà là một con người đã chứng đắc chân lý, cái bí
mật của cuộc sống và cái nguyên nhân thật sự của hạnh phúc và khổ đau. Từ ngữ
Phật (Buddha) chỉ có nghĩa là con người giác ngộ. Phật là con người đã giác ngộ
chân lý và đem chân lý ấy giác ngộ cho kẻ khác để mong sự nghiệp giác ngộ viên
mãn. Ngày nay, bậc Ðạo sư này không những được tôn vinh bởi hàng trăm triệu
người tín đồ mà còn được mọi người có văn hoá và kiến thức trên thế giới này
kính trọng. Bậc giải thoát này cho ta niềm phấn khởi về đời sống cao thượng, đã
an uỉ con người vượt qua mọi khổ đau. Người đã giúp đỡ những kẻ nghèo khổ bị
lãng quên. Người làm tăng thêm sự cao quý cho cuộc sống những kẻ mê lầm và làm
trong sạch cuộc sống suy đồi của những kẻ phạm tội. Người khuyến khích những kẻ
yếu hèn, liên kết những người chia rẽ, khai ngộ kẻ si mê, soi sáng kẻ theo
thuyết thần bí, dẫn dắùt kẻ ngu tối, nâng cao phẩm giá kẻ hạ liệt và tôn vinh
người cao thượng. Cả người giàu lẫn kẻ nghèo, cả Thánh nhân và tội phạm đều tôn
kính Người như nhau. Những minh quân cũng như bạo chúa, những vương tôn công tử
nổi tiếng và vô danh, những nhà triệu phú hào phóng lẫn keo kiệt, những học giả
khiêm tốn lẫn cao ngạo, những người bần cùng, những người ăn xin bị chà đạp
v.v... tất cả đều được lợi ích nhờ lời dạy tràn đầy lòng từ bi và trí tuệ của
Người.
Tấm gương cao cả của Ðức Phật là một
nguồn cảm hứng cho tất cả mọi người. Lời dạy về hòa bình và lòng khoan dung của
Người đã được tất cả mọi người đón nhận với niềm hân hoan và không ngừng làm
lợi ích cho bất cứ ai có cơ hội nghe thấy được và thực hành nó. Ý chí sắt đá,
trí tuệ, tình thương, lòng từ bi vô bờ, vô ngã, sự thanh tịnh hoàn toàn, những
pháp môn gương mẫu được sử dụng để truyền bá giáo lý và thành quả tối hậu của Người...
tất cả những yếu tố đó đã thúc đẩy bao con người trên thế giới này tôn vinh đức
Phật như là một bậc Ðạo sư tối thượng. Ðức Phật đã hy sinh thú vui của trần
gian vì nỗi khổ của con người để đi tìm chân lý rồi vạch ra con đường thoát
khổ. Người là một nhà khoa học hoàn hảo trong lĩnh vực cuộc sống, hoàn hảo đến
độ lời dạy của người đã được khẳng định là giáo lý duy nhất có tính đạo đức.
Ðức hạnh của Người là biểu trưng tối thiện. Người là khuôn mẫu toàn bích cho
mọi đức tính mà Người đã thuyết giảng. Cuộc sống của Ðức Phật không bị một vết
ô nhiễm nào cả.
Ðức Phật đã chỉ ra con đường đưa đến
hòa bình, hạnh phúc và cứu độ cho con người. Con đường của Người thật bao dung
rộng rãi, hợp lý, có thể hiểu được và hướng đến giác ngộ. Giáo lý của Người có
thể đóng góp phần tốt đẹp nhất vào hạnh phúc con người. Lời dạy của Ðức Phật
soi sáng con đường, nhờ đó con người có thể vượt thoát khỏi sự khổ đau để đi
đến một cuộc sống tràn đầy ánh sáng, thương yêu yên bình và hạnh phúc.
Dạy đạo giải thoát cho con người, đức
Phật là một người thầy, một người bạn, sống cùng với con người, hiểu biết con
người và thắm thiết tình người.
Con người khổ đau vì con người sống
xa bản tính, sống ngược bản tính. Con người không ý thức được thực thể của
chính mình, không hiểu được mình là gì. Con người không có được một nhận thức
rõ rệt về hiện hữu và bản chất của hiện hữu. Ðức Phật đã khám phá trên bước
đường trì hành những phương pháp giúp Người đi đến sự thực hiện giá trị và bản
chất của hiện hữu. Tiếp xúc thẳng với dòng sinh lực mầu nhiệm ấy, tâm linh
Người đột nhiên trở thành cao cả, sáng tỏ, nhân cách của Người trở thành siêu
tuyệt vĩ đại. Và trên lịch sử, con người đã trông thấy dòng sinh lực nhiệm màu
kia hiển lộ sung mãn và linh hoạt nơi con người Ðức Phật.
Suốt hơn hai nghìn năm trăm năm lịch
sử, đạo Phật luôn gắn với con người, khai mở cho con người một nguồn sống đầy
tính nhân bản. Ðức Phật là người khơi mở nguồn sống ấy, khơi mở chứ không phải
là hoá hiện và tạo dựng. Chính cá nhân con người mới quyết định số phận và tiền
đồ của mình, người có nhân cách độc lập, tự chủ (không lệ thuộc vào bất cứ ai).
Có nhân cách độc lập tự chủ mới có thể nói đến lòng tự tôn và tự tin. Không có
một đấng thần linh nào có quyền năng cứu rỗi được con người. Phật tử, theo lời
Phật dạy, phải tự mình thắp đuốc lên mà đi. Con người phải tự cứu lấy mình.
Chúng ta tin rằng bất cứ ai cũng có thể hưởng được niềm hạnh phúc thiên giới
nếu họ thực hiện lối sống chân chính.
Ðạo Phật như là ngọn hải đăng hướng
dẫn con người đến hoà bình, an lạc và hạnh phúc. Con người phải đi đến mức độ
nhận thức rằng sự phát triển về đạo đức theo lời Phật dạy sẽ là điều kiện cần
thiết để đem lại an lạc và hạnh phúc cho con người.
2.Trí tuệ, Từ bi và
Ðại lực
Mục đích của sự thực hành đạo Phật
là để đạt tới nhận thức sáng tỏ về thực tại (Trí), tình thương rộng lớn với mọi
người và mọi loài (Bi) và ý chí bền vững để thành tựu đại nguyện giúp đời
(Dũng). Ðạo Phật không phải là một tôn giáo đặt con người và số phận của họ
dưới sự điều khiển của thần linh, thượng đế. Ðạo Phật đòi hỏi người Phật tử
thực hiện trí tuệ, tình thương và ý chí nơi bản thân mình và ngoài xã hội. Ðạo
Phật là đạo giải thoát và giác ngộ. Chỉ có trí tuệ (Panna) mới là phương tiện
duy nhất đưa con người đến bờ giải thoát và giác ngộ.
Trong kinh Xà Dụ, Ðức Phật từng dạy
:"Nhờ tuệ quán... nên được giải thoát, trong sự giải thoát khởi lên sự
hiểu biết :"ta đã được giải thoát". Vị ấy biết :'Sanh đã tận, Phạm
hạnh đã thành việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa"
(Trung I, 138b)
Trong Ðại Kinh Mã Ấp, đối tượng cần
phải tuệ quán là khổ và các lậu hoặc. Vị hành giả cần phải tuệ tri :"Ðây
là khổ"; "Ðây là khổ tập"; "Ðây là khổ diệt","Ðây
là con đường đưa đến khổ diệt" "Ðây là những lậu hoặc"; "Ðây
là lậu hoặc tập khởi"; "Ðây là những lậu hoặc đoạn diệt";
"Ðây là con đường đưa đến lậu hoặc diệt". Nhờ tuệ tri như vậy, hiểu
biết như vậy, tâm của vị ấy thoát khỏi Dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi
vô minh lậu. Ðối với tự thân đã giải thoát như vậy, khởi lên sự hiểu biết
:"Ta đã giải thoát". Vị ấy biết"Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành,
những việc nên làm đã làm, sau đời hiện tại, không có đời sống nào khác
nữa" (Trung I, tr.279)
Ðạo Phật là một tôn giáo trước hết
dựa vào lý trí của con người. Nó xuất hiện như là một đạo lý dựa vào lý trí.
Trí tuệ chiếm vị trí then chốt trong mọi lời dạy của Ðức Phật. Vai trò của trí
tuệ được Ðức Phật dạy :
"Tất cả hành vô thường.
Với tuệ, quán thấy vậy,
Ðau khổ được nhàm chán
Chính con đường thanh tịnh
Tất cả hành khổ đau
Với tuệ, quán thấy vậy
Ðau khổ được nhàm chán
Chính con đường thanh tịnh
Tất cả pháp vô ngã
Với tuệ, quán thấy vậy
Ðau khổ được nhàm chán
Chính con đường thanh tịnh (Pháp cú 277, 278, 279)
"Thấy khổ và khổ tập
Thấy sự khổ vượt qua
Thấy đường Thánh tám ngành
Ðưa đến khổ não tận" (Pháp cú 191)
"Mắt thịt mắt chư thiện
Vô thượng mắt trí tuệ
Cả ba loại mắt ấy
Ðược bậc vô thượng nhân
Ðã tuyên bố trình bày.
Từ đây trí khởi lên
Tuệ nhãn là tối thượng
Ai chứng được mắt ấy
Giải thoát mọi khổ đau" (Phật thuyết như vậy, tr.457-458)
Con người muốn thoát khỏi sự đau khổ
và sợ hãi thì hãy luyện tập trí tuệ và từ bi. Ðạo Phật coi trí tuệ như một
thanh gươm "gươm trí tuệ và chỉ nó mới chặt được kẻ thù" đó là Vô
minh. Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi là hình ảnh của tuệ giác đại trí và biện tài vô
ngại (kinh Duy Ma).
Như vậy, là đạo Phật đặt vai trò của
trí tuệ, chiếm một vị trí then chốt. Chỉ có trí tuệ con người mới diệt được
khổ, đem vui cho mọi loài, đưa đến an lạc và hạnh phúc.
Mặc dù trí tuệ rất cần thiết để đạt
đến giải thoát, chính nó cũng sẽ không đủ. Nó phải kết hợp với từ bi. Từ bi có
thể so sánh như một chiếc xe chở con người đến ngưỡng cửa giải thoát, nhưng
chìa khóa thật sự mở cửa là trí tuệ.
Lòng từ bi đem đến sự hạnh phúc lớn
nhất cho con người, đơn giản là vì lòng từ bi vượt lên trên tất cả những cái
khác. Nhu cầu tình thương nằm trong sự sống còn của con người. Ðó là kết quả
của sự phụ thuộc vào nhau không thể thiếu được, khả năng và kỹ năng của một cá
nhân có đó, nhưng để họ sống riêng lẻ thì họ sẽ không tồn tại. Sự phụ thuộc lẫn
nhau là một quy luật cơ bản của tự nhiên. Không chỉ những sinh vật cao cấp mà
những côn trùng nhỏ nhất đang sống trên hành tinh này đều phải nương tựa vào
nhau để tồn tại. Chính vì thế sự hiện hữu của con người quá phụ thuộc vào sự giúp
đỡ của người khác đến nỗi nhu cầu tình thương của con người là yếu tố quyết
định cho sự tồn tại của họ. Vì vậy, ở bất cứ nơi nào, lúc nào, tình thương là
dinh dưỡng quan trọng nhất trong tất cả.
Chúng ta đã biết con người từng hiện
hữu hàng trăm ngàn năm nay. Ngày nay, dân số thế giới đang tăng vọt hơn bao giờ
hết, dù các cuộc chiến tranh vẫn còn. Ðiều này đã nói lên rằng lòng từ bi luôn
trội hơn các thứ khác.
Con người dù đẹp, xấu, địa vị xã hội
khác nhau nhưng ai cũng muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau. Hơn nữa, quyền
của họ là vượt qua những khổ đau và đạt được hạnh phúc. Ðến đây, chúng ta có
thể nhận ra rằng tất cả mọi người đều bình đẳng về mưu cầu hạnh phúc, và họ có
quyền chiếm được nó. Nhận ra điều đó lòng từ bi sẽ phát triển. Lòng từ bi là muốn
giúp người thoát khỏi cảnh chướng ngại khổ đau. Lòng từ bi là đức tính từ ái,
hiền hoà, yên bình trìu mến, cảm thông... có thể nói lòng từ bi là cái gì làm
cho lòng ta êm dịu, là lòng mong ước chân thành cho tất cả mọi người sống an
lành vui vẻ là động lực làm cho tâm rung động trước sự đau khổ của người khác.
Như vậy, lòng từ bi là cái gì quá to lớn, quá mạnh mẽ và quá vĩ đại. Khao khát
thực hành hạnh từ bi là để giúp đỡ người khác, quan tâm vì sự bình yên của kẻ
khác, phục vụ họ, kết bạn nhiều hơn. Nếu quên hạnh phúc của người khác, thì
chính bạn cũng theo thời gian đó mà bị người khác lãng quên.
Trong thời đại ngày nay, khi mà con
người có tiền bạc, quyền lực, khi mọi sự trên đời này diễn ra tốt đẹp thì con
người thường có cảm giác ít cần đến bạn. Nhưng khi địa vị và sức khỏe suy giảm,
con người nhanh chóng nhận ra sự cần thiết của những người bạn. Tình cảm con
người là quan trọng hơn hết và hành tinh nhỏ bé này chính là mái nhà chung cho
tất cả con người. Một khi chúng ta xem mọi người trong mái nhà này là anh em
thì cũng dễ dàng cởi bỏ đi những động cơ cao ngạo, chia rẽ và ta cũng dễ dàng
lánh xa sự lừa dối và lạm dụng giữa người với nhau. Chìa khoá đối với một thế
giới yên bình và hạnh phúc là sự lớn mạnh của lòng từ bi. Con người ngày nay,
hơn bao giờ hết đang cần đến lòng từ bi. Chỉ có từ bi mới là chiếc xe chở con
người tới bờ giải thoát. Từ bi là động lực làm cho tâm rung động trước sự đau
khổ của kẻ khác, là cái gì thoa dịu lòng đau khổ của người.
Ðạo Phật là đạo giải thoát đưa con
người vượt qua bể khổ luân hồi với kiếp nhân sinh. Trong đau khổ con người đủ
tâm trí và can đảm để chế ngự nó. Ý chí vượt qua mọi khổ đau là một năng lực
tinh thần, sức khỏe của nội tâm, là sự nỗ lực không ngừng sự hoạt động tích cực
của tâm trí và mọi hành động nhằm vào mục đích giải thoát cho mình và cho kẻ
khác. Con người cần phải có ý trí để vượt qua mọi trở ngại. Chướng ngại, nghịch
cảnh chỉ có thể làm cho người Phật tử thêm nghị lực và ý chí phấn đấu.
"Không nên sống thụ động trong lo âu sợ sệt hay chờ mong một tha lực nào
đến cứu vãn. Phải luôn luôn kiên trì, phấn đấu liên tục, cho đến kỳ cùng, để tự
giải thoát lấy ta".
Có thể thấy rằng trí tuệ, từ bi hiệp
với ý chí nơi bản thân mình ngoài xã hội đã tạo thành một năng lực vô cùng
trọng yếu có thể hoàn tất mọi việc để giải thoát khỏi khổ đau đưa con người đạt
đến an lành và hạnh phúc.
Trí tuệ từ bi hiệp với ý chí sắt đá
là những phẩm chất cao quý của người Phật tử. nó giúp con người trở nên toàn
thiện và có được một lối sống an bình và hạnh phúc. Nếu mỗi người đều cố gắng
với ý chí sắt đá đem trí tuệ và tâm từ bi phục vụ con người, thì thế giới này
sẽ trở thành một thiên đàng mà tất cả chúng sinh đều được sống an vui trong
tình huynh đệ và mỗi người trở thành một công dân lý tưởng trong một thế giới
hòa bình.
Trong phạm vi hạn hẹp của bài viết
này, chúng tôi chỉ gợi ý vài nét sơ lược của đạo Phật với con người và một số
phẩm chất cần thiết của người Phật tử.
Trong kho tàng giáo pháp vô cùng
phong phú của Ðức Phật để lại có giá trị vượt thời gian và không gian, chúng ta
có thể khẳng định rằng trước ngưỡng cửa của thế kỷ 21, những tư tưởng về từ bi,
trí tuệ với ý chí sắt đá của học thuyết Phật giáo vẫn tiếp tục là chiếc chìa
khoá mở ra hướng giải quyết tốt đẹp cho loài người, xây dựng một thế giới phát
triển, thanh bình an vui thực sự, tràn đầy tinh thần nhân ái, như nó đã từng
thực hiện trong nhiều ngàn năm lịch sử.
Lê Hữu Tuấn
Source: LotusNet Production, http://www.lotuspro.net