Nếu ở hai làn sóng trước đó, ảnh hưởng của Phật giáo ở
Đông Á, Nam Á bị giảm sút vì tác động từ Cơ đốc giáo đến từ phương Tây,
thì từ khi bắt đầu làn sóng thứ ba, Phật giáo đã có những chuyển động
tích cực hướng sang phương Tây. Tại các quốc gia phương Đông, Phật giáo
cũng chuyển mạnh sang hướng phục hưng.
Ba làn sóng
Các nhà nghiên cứu kinh tế và khoa học xã hội Hoa Kỳ khi nghiên cứu
về lịch sử thế giới hiện đại đã đưa ra thuyết “3 làn sóng”:
- Làn sóng thứ nhất được coi là bắt đầu từ năm 1870, thời gian đỉnh
cao của cuộc cách mạng công nghiệp phương Tây và kết thúc vào thời điểm
khởi đầu chiến tranh Thế giới thứ nhất (1914). Từ góc nhìn kinh tế, đặc
điểm nổi bật của làn sóng thứ nhất là “sự di chuyển mạnh mẽ lao động
từ châu Âu sang các miền đất chưa được khai phá ở Mỹ La Tinh, châu Á”
(1).
Từ góc nhìn chính trị, đó là thới kỳ mà nước châu Âu đi xâm chiếm
thuộc địa ở châu Á, châu Mỹ La Tinh, châu Phi. Và cùng với các cuộc
chiến tranh xâm lược là hoạt động truyền đạo Thiên Chúa La Mã, do các tu
sĩ “xung kích” đi theo các đoàn quân viễn chinh. Việc truyền đạo được
tiến hành trực tiếp, nghĩa là giữa giáo sĩ truyền đạo và người dân bản
xứ Á, Phi, Mỹ có khi là thuyết phục, có khi là mua chuộc, và sau chiến
thắng của đội quân viễn chinh, thường ép buộc.
Làn sóng thứ nhất là làn sóng đưa Thiên Chúa Giáo La Mã đến với các
nước Á, Phi mới bị chinh phục, trong đó có Việt Nam.
- Sau thời gian ngưng đọng, phẳng lặng, không có “sóng”, vì rơi vào
hoàn cảnh kiệt quệ sau chiến tranh thế giới thứ 1 và sự bất ổn trong
khoảng 7 năm chiến tranh Thế giới thứ II, làn sóng thứ hai được xem là
bắt đầu từ năm 1945, năm kết thúc chiến tranh Thế giới thứ II, và kết
thúc vào năm 1980 năm được xem là bắt đầu làn sóng thứ ba.
Xét về mặt kinh tế, nét nổi bật của làn sóng thứ hai là “sự phát
triển vận tải hàng không, cước vận tải biển hạ thấp và mạng điện thoại
quốc tế mở rộng, dòng vốn di chuyển nhanh hơn và rộng hơn đã tạo ra nhóm
công ty chuyên chế tạo cùng chủng loại sản phẩm và kết nối với nhau
theo chiều dọc thế giới” (2).
Thay cho các cuộc viễn chinh quân sự theo lối thực dân kiểu cũ, làn
sóng thứ hai đặc trưng bằng tư bản, sản xuất hàng hóa. Nếu làn sóng thứ
nhất là bước thu nhỏ thế giới bằng công nghệ hàng hải, hải quân và đại
bác, chia thế giới chủ yếu vào tay một số cường quốc châu Âu, thì làn
sóng thứ hai là bước thu nhỏ thế giới bằng máy bay, bằng mở rộng và kết
nối thị trường.
Về tôn giáo, thì làn sóng thứ hai là làn sóng của Đạo Tin Lành. Nhà
thờ các giáo phái Tin Lành Mỹ mọc lên cùng với sự xâm nhập của hàng hóa
Mỹ, của nếp sống Mỹ đối với các nước Á, Phi.
- Làn sóng thứ ba được xác định là khởi đầu từ năm 1980 và đang diễn
tiến. Về mặt kinh tế, nó “được đặc trưng bởi sự phát triển của công
nghệ thông tin và liên lạc viễn thông” (3).
Năm 1980 là năm bắt đầu sự phát triển công nghệ thông tin, sự phổ cập
của máy tính, cũng là thời điểm bắt đầu của truyền hình vệ tinh, sau đó
là cáp quang. Tiến trình này được tiếp nối với mạng internet, các mạng
điện thoại di động cục bộ và vệ tinh. Thế giới được thu nhỏ lại lần thứ
3.
Tuy nhiên, nếu làn sóng thứ nhất và thứ hai khởi phát từ phương Tây
và phủ chụp xuống phương Đông, thì làn sóng thứ ba không có sự chuyển
động một chiều Tây - Đông, và nó tạo nên một sự thu nhỏ mang tính chất
cân bằng. Điều này tất yếu có ảnh hưởng đến Phật giáo, một tôn giáo của
phương Đông.
Nếu ở hai làn sóng trước đó, ảnh hưởng của Phật giáo ở Đông Á, Nam Á
bị giảm sút vì tác động từ Cơ đốc giáo đến từ phương Tây, thì từ khi bắt
đầu làn sóng thứ ba, Phật giáo đã có những chuyển động tích cực hướng
sang phương Tây. Tại các quốc gia phương Đông, Phật giáo cũng chuyển
mạnh sang hướng phục hưng.
Làn sóng thứ ba là làn sóng của Phật giáo
Làn sóng thứ ba thừa hưởng những kết quả mà làn sóng thứ hai mang
lại. Sự phát triển của các phương tiện giao thông vận tải, phổ cập vận
chuyển hành khách bằng máy bay và chuyên chở hàng hóa bằng tàu viễn
dương trọng tải lớn đã tạo nên một làn sóng di dân từ châu Á sang các
nước phương Tây. Những di dân đến từ Á Phi mang đến các nước Âu Mỹ
truyền thống văn hóa, phong tục của mình, trong đó có tín ngưỡng. Phật
giáo đã có mặt một cách thụ động như thế ở các nước phương Tây từ giữa
quãng thời gian được mệnh danh là “làn sóng thứ hai”.
Nhiều biến cố từ giữa thế kỷ XX thúc đẩy làn sóng cư dân châu Á sang
định cư ở phương Tây, nhưng cũng phải nhận thấy yếu tố phổ biến thuận
lợi của vận chuyển hành khách hàng không đã đóng một vai trò quan trọng
(như đối với di dân sang Mỹ từ Hàn Quốc, Đài Loan…).
Những đóng góp tiếp theo là vai trò của truyền thông. Thoạt tiên là
kinh sách Phật giáo bằng tiếng Anh, kết quả của sự giao lưu văn hóa ắt
có do việc phát triển giao thông, di dân, đã thu hút sự chú ý của công
chúng phương Tây. Con đường đến với Phật giáo của người phương Tây là
song song giữa truyền thông và sự truyền bá trực tiếp của những nhà sư
châu Á (Tây Tạng, Đài Loan, Tích Lan, Việt Nam…).
Làn sóng thứ ba mới giữ vai trò quyết định đối với sự phát triển của
Phật giáo. Thế giới hiện đại hệ thống cáp quang và vệ tinh đã góp phần
xây dựng nên mạng truyền thông toàn cầu internet. Nội dung những kinh
sách Phật giáo dứt ra khỏi những hạn chế của ấn phẩm trên giấy và lan
tỏa vượt bậc trên mạng toàn cầu. Phương Tây (châu Âu, Bắc Mỹ) là khu vực
đầu tiên thừa hưởng những thành tựu của internet. Đây cũng là thời gian
Phật giáo có được những thành quả quan trọng trong việc hoằng hóa ở
phương Tây.
Với mạng internet, tất cả giáo lý của tôn giáo như được đưa ra trên
“bàn” để công chúng có thể chọn trên cơ sở trí tuệ. Tất yếu là những ưu
thế của giáo lý Phật giáo được chứng tỏ. Chẳng hạn, ngày nay, vào trang
Wikipedia chẳng hạn, hầu như tất cả lý thuyết căn bản của Phật giáo đều
được trình bày chi tiết, đầy đủ, bằng nhiều thứ tiếng, đặc biệt tiếng
Anh, tiếng Pháp.
Không cần tổ chức những buổi giảng đạo, những cuộc gặp thuyết dụ như
thời kỳ “làn sóng thứ nhất”. Cũng không thể mua chuộc bằng của cải, tiền
bạc hay cưỡng ép đối với người phương Tây giàu có và sống một đời sống
tự do. Việc theo đạo ở phương Tây dần dần không còn dựa trên tình cảm,
tập quán, truyền thống như trước, mà dựa trên sự chọn lựa trí tuệ, với
sự hỗ trợ của các phương tiện truyền thông. Người ta ghi nhận sự gia
tăng dần dần tỷ lệ tín đồ Phật giáo ở các nước phương Tây, như mới đây
Phật giáo đã được xác định là tôn giáo có số lượng tín đồ đứng thứ 3 ở
Hà Lan, một trong những đất nước có truyền thống Cơ đốc giáo lâu đời.
Làn sóng thứ ba là làn sóng truyền thông. Do đó, đối tượng tác động
trước tiên của nó là giới trí thức. Chúng ta thấy rõ điều này trong cơ
cấu tỷ lệ tín đồ Phật giáo ở phương Tây. Đây là một thuận lợi hết sức
căn bản cho việc hoằng hóa Phật giáo ở phương Tây, vì trí thức là thành
phần có ảnh hưởng cao nhất đối với xã hội.
Truyền thông đã không tạo nên những tín đồ Phật giáo mê muội, mù
quáng mà là những tín đồ thuộc tầng lớp tinh hoa, đến với đạo từ con
đường tìm hiểu, suy tư, trí tuệ, chọn lựa, sàng lọc.
Tuy nhiên, điều nói trên cũng có phần giới hạn của nó. Ở phương Tây
đã hình thành một kiểu đạo Phật không có Tăng bảo. Chỉ có các hội đoàn
Phật học mà hiếm có giáo hội tăng già, việc xuất gia chưa được coi trọng
đúng mức. Đây là một đề tài mà chúng ta có thể nghiên cứu ở một bài
khác.
Các tăng sĩ và tín đồ Phật giáo ở phương Tây tuy khai thác thành công
ấn phẩm giấy và mạng internet, nhưng tỏ ra hạn chế trong lĩnh vực
truyền hình vệ tinh, một trong những yếu tố cơ bản làm nên làn sóng thứ
ba. Hiện vẫn chưa có kênh truyền hình Phật giáo toàn cầu nào bằng tiếng
Anh. Ở đây, chúng ta thấy sự phát triển có phần nào khập khiểng so với ở
internet. Và cũng do vậy, nên Phật giáo phương Tây chỉ giới hạn ở tầng
lớp trí thức, tầng lớp thường xuyên tiếp xúc với internet, chưa mở rộng
đối với đối tượng bình dân, công chúng chính yếu của truyền hình. Vai
trò của truyền hình vệ tinh chưa được giới Phật giáo phương Tây nói
riêng, Phật giáo thế giới nói chung nhận thức đầy đủ, đúng mức.
Làn sóng thứ ba vẫn còn đang tiếp tục. Truyền hình vệ tinh vẫn còn
đang khẳng định thế mạnh của nó. Nhìn thấy làn sóng thứ ba là làn sóng
Phật giáo thì cũng đồng thời thấy được hạn chế và tiềm năng của Phật
giáo với một trong những hoạt động chính của làn sóng thứ ba, đó là
truyền hình.
Ghi chú:
(1) Xem thêm PGS, TS Hoàng Thị Thanh
Nhân: Quản trị toàn cầu trước những thách thức hiện nay – Tạp
chí Cộng sản điện tử (bản cập nhật ngày 1/7/2009). Tóm tắt ngắn gọn từ
chú thích bài dẫn trên có thể coi là đầu đủ, chính xác, phù hợp với sự
dẫn giải của bài viết này, với những ý kiến về tôn giáo và bình luận bên
ngoài là của chúng tôi (M.T)
(2) Tham khảo đầy đủ, xin xem Alvin
Toffler: The Third Wave, Bantam Book (USA), 1980 (đã có bản
dịch tiếng Việt in giấy và trên internet)
(3) Nhiều học giả Mỹ bàn đến 3 làn sóng
với các ý kiến có khác biệt về mốc thời gian.
Theo: Phapluanonline