Hơn hai ngàn năm
qua, nhân loại đã thành tựu về khoa học và công nghệ, nền văn minh vật
chất rất hào nhoáng với những công trình, kiến trúc quy mô và tráng lệ;
các di tích lịch sử được trân quý, chiêm ngưỡng và bảo vệ như là những
biểu hiện cụ thể tài năng sáng tạo của con người. Sự tiến triển như vũ
bão của khoa học là biểu hiện sự lớn mạnh không ngừng của chủ nghĩa duy
lý.
Chính vì lẽ ấy, mà không
ít người tiên liệu rằng, tôn giáo sẽ thu hẹp lại, từ từ tàn lụi và dần
dần vắng bóng đi dưới ánh sáng của khoa học thực nghiệm. Nguyên do, xưa
nay người ta thường “tư duy theo nếp nhăn” của truyền thống, xem tôn
giáo như là một bảo vật ở Viện bảo tàng, nơi hướng về của những người
dưới mức hiểu biết tại một thế giới vĩnh hằng, nơi miền đất hứa.
Thế nhưng, trên thực tế,
tôn giáo không những không bị tiêu vong, mà còn hồi sinh và phát triển
mạnh mẽ giữa thế giới hoa lệ vật chất này, làm cho diện mạo của mình có
những nét mới lạ. Và hơn thế nữa, một số tôn giáo còn hoạt động tích
cực, biểu lộ rõ xu hướng chính trị hóa.
Trước sự lấn sân đầy
thách đố và nghiêm trọng, cũng như xu thế của thời đại, tôn giáo tìm
cách chuyển mình để thích ứng bằng cách loại bỏ những lối tư duy cổ hủ,
hình thức cầu kỳ, tính chất câu nệ, và giáo điều, thay vào đó là sự
khoan dung, hòa hợp và vô ngã.
Thực hiện đầy đủ những
tiêu chí này, có thể nói, tôn giáo mới có khả năng đứng vững, khẳng định
vị trí của mình để tồn tại và tồn tại lâu dài trên cõi đời này.
Thời đại hôm nay là thời
đại của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Xã hội đã đánh dấu những bước
tiến đột phá, những bước nhảy vọt hết sức ngoạn mục trong đời sống của
con người.
Nhưng, quá trình tiến
triển của xã hội không thể không kèm theo những yếu tố tiêu cực: những
nơi thừa tiền bạc nhưng thiếu đức tin, thừa tri thức nhưng thiếu lương
tri.
Cho đến bây giờ, tuy nói
chúng ta đang sống dưới nền văn minh của khoa học, nhưng trên thực tế,
con người vẫn còn bức hại lẫn nhau một cách không thương tâm hoặc vì
quyền lợi vật chất, hoặc vì dị biệt niềm tin v.v…
Thêm vào đó, những căn
bệnh nan y, stress, và ma túy v.v… là những gánh nặng lớn của thế kỷ.
Thời đại của chúng ta,
nhiều người trẻ không còn cảm thấy liên hệ, dính dáng với bất cứ sự ràng
buộc gì, họ không còn tin vào Thượng đế, cũng không tin vào một chủ
thuyết hay một ý thức hệ nào, không còn lý tưởng, không tìm ra được một ý
nghĩa nào cho sự sống, đánh mất gốc rễ nơi truyền thống tâm linh, tổ
tiên, và gia đình.
Họ sống lang thang trên
vạn dặm phù sa, giữa hoang mạc mênh mông, hay những nẻo đường sương mờ
bít lối của cuộc đời, rồi phóng túng theo chiều hướng tiêu thụ và tàn
phá, suốt ngày chỉ biết sống để làm thỏa mãn những ngọn triều của tư
dục.
Họ đã tìm cách giải tỏa
bằng những độc tố, hút vào người những men chất bạo động, và bất an,
không biết đâu là chỗ chắc thật để bám vào mà thoát thân; họ cứ mãi mê
chạy theo những làn sóng nắng trên sa mạc, cho đến khi ngã quỵ trên
đường dài tuyệt vọng trong một mớ chữ nghĩa vô bổ.
Với kiến thức về nhân
sinh và vũ trụ được tích luỹ, khiến con người nhận diện được sự cuốn hút
trong guồng máy khoa học, quay cuồng dưới quỹ đạo của lao lực và lao
tâm vì âu lo và toan tính. Chúng ta buông xuôi theo những tồn vong sinh
diệt của thế gian như những loài sâu ngủ trong chiếc lá vàng để quên đi
nắng chiều nhạt bóng và chấp nhận đêm đen của cõi vô minh mà không hề
tỉnh ngộ.
Mất cân bằng sinh thái
cũng chết, mất cân bằng giữa tâm và thân cũng gay, mà mất cân bằng giữa
sự thừa thải vật chất và trống vắng tinh thần lại càng nguy.
Cho dù, ngày nay khoa học
đóng vai trò như một nhân tố nhận thức, một động lực hành động và được
xem như là bậc nhất của con người, nhưng sự khao khát hòa hợp trong tình
yêu, đồng điệu trong tâm hồn vẫn là “giai điệu chủ” trong giao hưởng
của nhân loại.
Hơn nữa, sức mạnh của
khoa học không như là chìa khóa vạn năng mở toang tất cả những cánh cửa
từ thế giới hiện tượng đến thế giới tâm linh. Nói cách khác, khoa học
chỉ thành công trong sự phát triển và nâng cao đời sống văn hóa vật chất
mà không làm thăng hoa giá trị đời sống văn hóa tinh thần.
Chính sự hạn chế này mà
Albert Einstein-nhà vật lý học lừng danh, đã thường xuyên khuyên các nhà
khoa học nên học hỏi ở các tôn giáo để bổ sung những chỗ khiếm khuyết
của mình, Ông nói: “Khoa học mà thiếu tôn giáo là khập khiễng, tôn giáo
mà không có khoa học thì mù quáng” (Science without religion is lame.
Religion without science is blind).
Tới lúc, con người đã
chợt nhận ra rằng, hình như mình chưa biết sống cho tròn đầy, cho “đã
nư” cuộc sống của chính mình. Mình đã đánh mất phương hướng chỉ vì một
chút trần vọng niệm, uốn mình theo dòng chảy của cuộc đời, chìm đắm
trong “đọa đày viễn mộng”, thiếu sự dẫn dắt căn cốt trong cuộc đời. Sự
dẫn dắt không thể đến từ người khác mà phải đến từ nơi sâu thẳm tâm hồn.
Mục đích của sự sống là
làm sao kiến lập cho được một môi trường an ninh, một tâm hồn thanh
thản. Bởi vậy, để xây dựng một đời sống hạnh phúc, an bình cho thế kỷ
này, không gì hơn con người cần phải lấy mô thức tự giác, vô ngã, khoan
dung và độ lượng trong Phật giáo làm kim chỉ nam cho hành động.
Đó sẽ là một đức tin siêu
khoa học, biểu hiện cao nhất của ý thức cá nhân, sự khẳng định thế giới
tâm linh trong lòng thế giới vật chất. Nó là kết quả của quá trình nhận
thức, của đời sống thực nghiệm, chứ không phải bằng bộ óc truy vấn, ý
niệm và ngôn ngữ.
Như thông điệp của ngài
Srirana Krishna cho rằng: “Đừng quan tâm đến giáo lý, đừng quan tâm
đến tín đồ hoặc tông phái, hoặc giáo đường, hoặc nhà thờ. Chúng có giá
trị thật ít sánh với tinh tú của đời sống tâm linh, và tâm linh càng
được mở rộng trong người thì y càng có nhiều năng lực để hành thiện…
Hãy chứng tỏ bằng đời
sống của bạn rằng tôn giáo không có nghĩa là lời nói, hoặc là danh
hiệu, hoặc là môn phái, nhưng có nghĩa là giác ngộ tâm linh. Chỉ có
những người đã cảm xúc mới hiểu được. Chỉ có những người đã đạt đến tâm
linh mới có thể truyền đạt nó cho kẻ khác, mới có thể là những bậc đại
Chân Sư của thế giới. Chỉ có họ là quyền lực của Ánh sáng”. (Tôn
giáo là gì? Vương Gia Hớn dịch, Nxb. An Tiêm, 1970)
Hiện nay, trong xu thế
toàn cầu hóa, sự phát triển của kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường,
việc bảo vệ văn hóa vật thể và phi vật thể được nâng cao, cũng như việc
chăm sóc, tôn tạo, tu bổ, phục hồi và phát huy tác dụng các di tích lịch
sử, danh lam, thắng cảnh… được đề cao trong từng quốc gia, các tổ chức
của Liên Hiệp Quốc, như tổ chức UNESCO, trong đó văn hóa tâm linh của
các tôn giáo nói chung và văn hóa Phật giáo nói riêng đóng vai trò tối
quan trọng trong mảng văn hóa của nhân loại, đã thẩm thấu vào chiều sâu
tư tưởng của người Á Đông.
Sự phát triển của mạng
Internet siêu xa lộ thông tin trong thời hiện đại đã mở ra một viễn cảnh
mới cho đời sống xã hội, đã tác động đến phong cách tư duy sinh hoạt và
đã đặt ra những yêu cầu mới cho các tổ chức xã hội, nền văn hóa của dân
tộc, các hệ thống tư tưởng, tôn giáo.
Các tôn giáo đã và đang
nhanh chóng vận dụng những thành tựu khoa học vào việc truyền bá giáo
lý, thể nghiệm trí tuệ trong hành động, sẽ là bước chân bình thản giữa
cuộc đời, là nụ cười điềm tĩnh trầm hùng, là hơi thở an nhiên trong sự
đổi dời của lịch sử, để ngõ hầu xây dựng một xã hội văn minh và dân chủ
cho thế giới con người. Đó chính là ý nguyện, tình cảm và khát vọng
chung của mỗi chúng ta.
Theo: Hoằng Pháp