Việt Nam đã biết đến trà từ thời Ðông Hán, nhưng trà đạo Việt thành hình vào đời nhà Ðường.
Sách Trà Kinh của Lục Vũ nhập đề rằng "trà là loài cây lớn ở phương
nam". Chứng tích trà đạo Việt còn lưu lại trên những bình bát trà gốm
Việt Dao từ thời Bắc thuộc, lên đến tột đỉnh thời Phật giáo Lý, Trần.
Ðạo trà Việt cổ là đạo mà không đạo, đạo vô môn quan: không cửa vào, không lối ra.
Trà Kinh chép: Trà là loài cây quý ở phương Nam, cây như cây qua
lô, lá như lá chi tử, hoa như hoa bạch tường vi, trái như trái banh lư,
nhụy như nhụy hoa đinh hương, mùi vị rất hàn (lạnh).
Sách Quảng Bác Vật Chí chép: cao lư là tên riêng của một thứ trà, lá to mà nhụy nhỏ, người phương Nam dùng để uống.
Trà Kinh lại chép: "Người phương Nam có cây qua lô giống như lá trà
non mà nhụy đắng, giã nát ra pha trà mà uống thì suốt đêm không ngủ. Ở
Giao Châu và Quảng Châu người ta rất quý thứ này, hễ có khách đến nhà
thì trước hết bày ra đãi khách". Theo lời Ðào Hoàng Cảnh, một ẩn sĩ tài
hoa đời Nam Bắc Triều thì bọn xử sĩ trong thiên hạ rất chuộng thứ trà
này.
Theo sách Nghiêm Bác Tạp Chí trích lời Lý Trọng Tân học sĩ nói:
"Trà ở Giao Chỉ như rêu xanh, vị cay gắt gọi là trà đăng" (tức là mạt
trà). Những núi ở huyện Ngọc Sơn, tỉnh Thanh Hóa có trồng thứ trà này.
Cây trà mọc liên tiếp che khắp rừng. Người bổn thổ hái lá, giã cho nát,
phơi khô trong bóng mát, nấu mà uống, tính nó hơi hàn, có thể làm mát
tim phổi và ngủ ngon.
Cửu Chân, tên gọi Thanh Hóa đất Việt cổ có: núi đặt tên chữ là Trà
Sơn, người ta gọi nôm là núi Chè. Sách An Nam Chí lược chép: nhà Trần
mỗi lần đi sứ nhà Nguyên đều cống trà thơm làm thổ sản quý.
Từ thuở triều Hán, Ðường, Tùy sứ Việt đã chế được thứ gốm tên gọi
Việt Dao. Gọi tên như thế để chỉ thứ "men tro" trổ mầu xanh biếc như
ngọc cổ. Sách Tàu chép Việt Dao phát sinh từ Nam Việt miền Ngũ Lĩnh, chứ
không nói rõ đất Giao Châu, Cửu Chân. Di chứng khảo cổ học, trên đất ta
cho thấy thời ấy ta đã làm được gốm Việt Dao, mà lại làm một số lượng
rất lớn, khởi từ những giọt men xanh nhiễu đọng trên thân gốm, mà nay
xếp vào loại gốm "Hán bản địa".
Từ mầu xanh bích ngọc đời Bắc thuộc đến mầu xác trà đời Lý, Trần,
những bát trà Việt ra đời song song bát trà Ðường, Tống bên Tàu. Người
Việt vẫn trung thành sở thích sắc mầu Việt Dao của dân tộc đến mãi thế
kỷ 15. Hóa ra Việt Dao là chữ gọi dân tộc ngày nay ta vẫn mang tên, là
người chế ra men gốm tiền thân gốm men ngọc (proto-celadon) lừng lẫy
Ðông phương.
Ðời Lý, Trần đã làm ra rất nhiều các thứ liễn, bình đựng nước pha
trà đi đôi với các loại bát trà mang thần thái đặc thù Ðại Việt. Bình
trang hoàng tòa sen chạm nổi, âu bát vóc dáng chẳng khác nào bình bát
các tăng sư. Làng nào cũng có đình chùa. Bát trà cũng là vật không thể
thiếu được trong các đồ tế nhuyễn bày trên điện thờ, cũng như cúng vào
chùa chiền để các sư uống trà. Nghệ phẩm từ các làng gốm như chở chuyên
hồn đạo, tiếng chuông mõ sớm hôm, mùi trầm nhang quyện trong không gian
lũy tre làng trên đất nước. Thiền gốm Lý, Trần đã mang cung cách rất
Việt Nam. Văn bia đời Lý do sư Pháp Ký soạn cho thầy là sư Tịnh Thiền
ghi rằng "Chỗ uống trà là chỗ thập phương thí chủ dồn về". Chỗ uống trà
tức là cửa Phật. Nay ngắm những trà khí cổ, ta mới biết phép uống trà
Việt lồng trong thiền vị từ thuở đầu dựng nước, đưa hình sắc của tâm
linh đến cả đại chúng.
Tại nền chùa cổ Dazaifu Kanzeon-ji người ta đào được những mẫu gốm
vỡ của bát trà Ðại Việt đời Trần, kề bên mảnh ván mục còn đọc được vết
mực ghi niên đại tương đương năm 1330. Trước đó, đã có những trà khí Ðại
Việt xưa hơn vào chốn tăng đường Nhật.
Ðầu thế kỷ 13, thượng sư Eisa từ Trung Hoa mang về Nhật Bản lần đầu
giống cây trà được coi là có xuất sứ từ Việt Nam. Sau đó, đệ tử Ngài là
sư Dogen sang du học tại chùa Thiên Mục Sơn, khi về nước có người hỏi
sư học được gì, sư đáp: "Không có chi nhiều ngoài pháp an tâm". Pháp an
tâm sư mang về cùng trà đạo và bát trà Thiên Mục (tiếng Nhật gọi là
Temmoku). Dogen được coi là sư tổ của trà đạo Nhật Bản vậy.
Cũng như Ðại Việt, bấy giờ Phật giáo Nhật bén rễ vào giới thế
quyền. Tăng sư là khách quý của các sứ quân và bọn phú hào. Họ học Phật
rồi tiêm nhiễm luôn đạo thưởng trà. Uống trà nhằm luyện con người khu
trừ những chướng ngại phiền não, để đạt chỗ rốt ráo của an bần lạc đạo,
hòa đồng với Tự Nhiên, tức là Chân Như.
Uống trà, hành trà đạo phải có các trà khí mà ngành gốm Nhật bấy
giờ rất phôi thai. Nên trà gốm từ Cao Ly, Trung Quốc, Ðại Việt đưa sang
giá đắt, chỉ giới hạn trong hàng sứ quân và đại phú. Thay vì hấp thu nếp
thanh bần, họ bèn mượn trà đạo làm trò trà dư tiêu khiển, đặt ra các
quy tắc kiểu cách (Cha No Yu), muốn vào phải qua cổng Hữu Môn Quan. Trà
đã đưa thiền vị đạm bạc vào trú ngụ chỗ đền các xa hoa. Trong khuôn viên
cung đình nguy nga, các chúa công sai dựng nên trà thất bắt chước lều
cỏ bần hàn của ẩn sĩ để hành trà đạo. Còn bên nước Việt, đạo đã từ cung
cấm ra đi, bỏ phú quý phù vân để phiêu bồng nơi cảnh thật của "rừng trúc
lắm chim" (Trúc lâm đa túc điểu) như thơ ngài Huyền Quang. Các vua Lý,
Trần bỏ kinh về núi, thực hiện hạnh tầm đạo dẫm theo bước của thái tử
Tất Ðạt Ða.
Ấy là chỗ khác biệt trong lịch sử thiền trà đạo Việt - Nhật vậy.
Từ bát trà Thiên Mục, về sau trà gốm Trung Quốc xa lìa hồn đạo,
ngày càng tinh kỳ sắc sảo để thỏa mãn thị hiếu vua quan, kẻ nhà giàu
thích trưng bày đồ mỹ ngoạn, thành kỹ nghệ xuất đi các nước. Lấy cảm
hứng từ mầu xanh xác trà Việt Dao (proto-celadon), gốm Trung Quốc tiến
hóa thành mầu men ngọc xa hoa (celadon), của lò Diệu Châu Bắc Tống, lò
Long Tuyền Nam Tống. Trong khi nước Việt vẫn chuộng giữ mầu xác trà
"thuận tự nhiên" cốt cách đạm bạc của tổ tiên.
Khi các trà sư Nhật ra tay đón nhận bát trà Việt ấy, con mắt trong tâm hồn họ như thoát nhiên thể ngộ được ấn chỉ tâm truyền ấy.
Quan hệ Trung Quốc, Nhật Bản sinh thù nghịch từ thế kỷ 14, hồi quân
Nguyên Mông sang đánh Nhật, bị ngọn Thần Phong diệt. Khi nhà Minh lên
ngôi, từ năm 1371 ra lệnh cấm dân duyên hải xuất ngoại. Ðến năm 1567,
mới bỏ luật này, nhưng vẫn cấm vượt biển sang Nhật Bản vì nạn "Nuỵ khấu"
(cướp lùn), quẫy nhiễu bờ biển Trung Quốc. Suốt mấy thế kỷ đó, Nhật đã
tìm thấy nơi Ðại Việt của nhà Lê nguồn cung cấp tơ sống và gốm sứ.
Lúc này Ðại Việt đã làm sứ vẽ lam. Gốm sứ trà Việt nhập vào Nhật
Bản nhiều hơn trước, đóng vai trò quan trọng trong nghệ thuật trà đạo
Nhật Bản đang hồi cực thịnh. Không gò gẫm tỷ mỷ như bàn tày nghệ nhân
đời Minh, mấy nét đơn sơ trên gốm Việt phóng bút cảnh chim trời, cá
nước, sơn thủy, tùng thạch v.v... xuất cái thần vị Thiền Lão, chẳng khác
nào tranh tốc họa Sumi-e, và thuật thư pháp, rất hợp với tâm hồn trà
nhân Nhật, làm họ say mê. Vẽ gốm như vẽ tranh Thiền. Di sản tranh cổ họa
Việt Nam ngày nay chừng như có thể thấy trên gốm cổ.
Nhật Bản là một dân tộc hoài cổ và có khiếu thẩm mỹ từ những vật
nho nhỏ. Ngày nay trong các viện bảo tàng khắp nước này trân quý giữ
những món trà khí Việt từ đời Lý - Trần - Lê - Mạc đã liên tục đến Nhật
Bản qua bao thế kỷ. Trong hậu sảnh những thiền viện xưa, còn cất giữ
những đồ tế nhuyễn và trà khí làm bởi những nghệ nhân vốn là người mộ
Phật ở xứ Việt xa.
Và trong lâu đài cổ, truyền thừa các sứ quân và giới phú hào ngày
nay còn gia truyền các bộ gốm sứ Việt Nam làm báu vật. Bộ sưu tập gốm
Việt trứ danh nhất của dòng họ thương nhân Ozawa Shrouemon từ Hội An trở
về Nhật Bản năm 1638, khi chúa Tokugawa cấm dân Nhật xuất dương. Chiếc
bát vẽ mầu "Beni-Annam" ngày ngày chúa Tokugawa ưa dùng thưởng trà nay
là báu vật trong lâu đài của chúa ở Nagoya v.v...
Dòng trà gốm đầu tiên Raku đã mang dáng bát trà Lý, Trần. Về sau
truyền thừa dòng gốm này và các trường phái khác thường mô phỏng theo mỹ
thuật gốm nước ta. Họ gọi là Annam Yaki để chỉ cho dòng gốm hoa lam của
lò Chu Ðậu, Bát Tràng ở Ðàng Ngoài thời Lê, Mạc; và Kochi Yaki, tức gốm
Cochin China xứ Quảng Nam Ðàng Trong của chúa Nguyễn về sau.
Sử Nhật chép vị sơ tổ dòng gốm Raku tên là Zengoro, còn một hiệp sĩ
theo phò lãnh chúa Ashikaga, ông làm gốm tế nhuyễn cho thiền viện
Kasuga, và trà khí cho tăng sư hành trà đạo. Con cháu về sau lấy đó làm
nghiệp nhà.
Truyền thừa đời thứ 10, Zengoro Ryozen vẫn làm gốm lối gia truyền,
và khởi đầu bát trà lừng danh Raku. Ông còn biệt tài mô phỏng trà gốm
của An Nam (Annam Yaki) và Cochin China (Kochi Yaki). Ðến đời con nối
dõi, Zengoro Hogen là một nghệ sĩ tài hoa nhất trong dòng họ. Ông nổi
tiếng chuyên làm gốm ba mầu (tam thái) kiểu Kochi Yaki, gồm mầu lục, tím
đỏ và vàng, mỗi mầu ngăn cách nhau bằng những nét chạm nổi. Hogen được
lãnh chúa Tokugawa đất Kishu thu dụng và sủng ái, ban cho chiếc ấm bạc
chạm tên Eiraku (Vĩnh Lạc) lưu danh trên tác phẩm, coi tài nghệ ông
ngang hàng các tuyệt phẩm đời vua Minh bên Tàu cùng tên, đầu thế kỷ 15.
Chúa còn ban cho ông một ấn vàng, chỉ được dùng đóng tên lên các món trà
khí được chúa chuẩn nhận.
Năm 1659, một nghệ sĩ gốm người Tàu mà người Nhật gọi tên là Chin
Gempin mở lò chuyên sáng tác những trà gốm bằng loại gốm tiêu biểu dòng
Seto: mầu trắng rạn mịn tựa ngà cổ, mô phỏng kiểu gốm Bát Tràng của An
Nam xuất sang Nhật Bản hồi trước. Ông trang trí trên gốm cảnh sơn thủy,
hoặc đề thư pháp thơ cổ bằng mầu lam xanh.
Dòng gốm Kutani, chuyên làm gốm mầu sặc sỡ, trong đó có loại bắt
chước làm gốm sứ cổ Tàu, Việt. Năm 1810, thương nhân giàu có tên
Yoshidaya Denyemon tái dựng lại những lò gốm đã đóng cửa ở Kutani, để
phục chế kiểu gốm Kochi Ðàng Trong Việt Nam đời trước.
Mokubei (1767 - 1833), là bậc văn nhân theo mẫu truyền thống đông
phương. Ông làu thông kinh sách có khiếu làm thơ, vẽ tranh, tạo gốm, môn
nào cũng tài hoa. Ông bắt chước làm các món sứ cổ, khéo léo chẳng phân
biệt mới cũ đâu vào đâu. Ông đặc biệt mô phỏng các tiêu bản trà gốm
Cochin China không sai sẩy, tác phẩm này nay trưng bày trong Viện Bảo
tàng Nghệ thuật Tokyo.
Thế kỷ 20, những nghệ sĩ học giả Tây phương nào đến Nhật Bản bị
cuốn hút trong đạo vị nền văn hóa nghệ thuật Nhật, dĩ nhiên đều mê say
các cổ trà gốm Việt tại Nhật Bản. Các tên tuổi: William Willets, Stephen
Addis, Hugo Munsterberg, Hazel H.Gorham, John Stevens v.v... dày công
nghiên cứu và giới thiệu cái đẹp trong văn hóa Nhật đến Tây phương. Qua
họ, thế giới lần đầu tiên biết đến bát trà Việt trong trà đạo Nhật. Lừng
lẫy nhất là nhà nghệ sĩ gốm kiêm đạo gia người Anh Bernard Leach, từng
trải suốt đời học hỏi và sáng tạo tại Nhật Bản, được lão sư dòng gốm
Kenzan thu nhận và ban ấn truyền thừa. Trong sự nghiệp tầm thầy học đạo,
ông học qua thuật làm gốm nung Kochi Yaki, tức gốm Ðàng Trong Việt cổ
tại Nhật Bản. Ông trân quý vô ngần một bát trà gốm trắng sứt mẻ đời Lý
trong bộ sưu tập riêng mình. Về già, ông là bạn tâm đắc của Shoji
Hamada, một đạo sư gốm Nhật Bản. Cả hai thuộc vào hàng bốn tên tuổi
thượng thừa của ngành gốm hiện đại. Cả hai đều ưa thích sưu tầm bát trà
cổ Việt, dùng đó làm tiêu bản học bí quyết làm gốm của cổ nhân.
Minh Giang (Tầm Nhìn)