1. Hiện nay, chúng ta có thể bắt gặp các quán, nhà
hàng chay có mặt ở khắp nơi từ những phố đông người đến những con hẻm
nhỏ để phục vụ cho nhu cầu ăn chay ngày càng đông đúc của mọi người.
Vào những ngày chay lạc nhất một ngày như Rằm và mùng 1 âm lịch hàng
tháng người ta ăn chay rất đông, điều này có thể kiểm chứng ở các quán
chay khi mọi người phải xếp hàng chờ mua. Vì sao ngày càng có nhiều
người ăn chay như vậy? Câu hỏi này có thể trả lời một cách tóm tắt ở
hai nguyên nhân được cho phổ biến nhất là do tôn giáo, nhất là Phật
giáo phát triển mạnh mà tinh thần từ bi của nhà Phật là chay tịnh; kế
đến là nhiều người ăn chay vì lý do trị bệnh, giữ gìn sức khỏe… Nói
chung xuất phát từ nhiều lý do để người ta ăn chay ngày càng nhiều,
xong không phải ai cũng có thể hiểu hết được ý nghĩa của việc ăn chay là
gì? Và vì sao họ phải ăn chay?!
Cá nhân người viết bài này cũng đã và
đang thực hành ăn chay theo phương pháp “Thập trai” (tức ăn chay mỗi
tháng 10 ngày theo những ngày nhất định). Nhớ lại trước đây, tôi không
thể nào quên, biết bao những kỷ niệm vui của sự “ngây ngô” của buổi đầu
ăn chay. 5 năm về trước, khi chưa là một Phật tử tôi cũng ăn chay,
nhưng mục tiêu, ý nghĩa của việc ăn chay lúc đó khác với bây giờ. Ăn
chay lúc đó là để tôi “trả lễ” chư Phật, Bồ tát khi tôi cầu nguyện một
điều gì đó. Có những lần tôi cầu nguyện và “trả lễ” rất hậu hĩnh là ăn
chay liên tiếp trong 1 tháng hoặc có khi là nửa năm. Và đương nhiên, với
mục tiêu và ý nghĩa của việc ăn chay như thế, tôi đã phải xin lỗi và
hẹn đi hẹn lại với chư Phật, Bồ Tát nhiều lần mới có thể “trả lễ” xong
được! Tôi tin đó là việc mà rất nhiều người đang tập ăn chay trong buổi
đầu sẽ mỉm cười và tỏ ý đồng cảm! Song, đó là một ý nghĩa và mục tiêu
lệch lạc của việc ăn chay.
2. Tại sao chúng ta
phải ăn chay? Theo quan điểm tiến bộ của khoa học hiện đại nghiên cứu
và thí nghiệm thì, con người sinh ra là để ăn rau, củ, quả chứ không
phải để ăn thịt, tức ăn chay thay vì ăn mặn. Thứ nhất, hai hàm răng của
con người được cấu trúc một cách đặc biệt, lại có răng hàm cùng xương
quai hàm để nghiền và nhai thức ăn giống loài động vật ăn rau quả,
không ăn thịt sống. Trong khi đó, loài động vật ăn thịt sống có răng
cửa và bộ răng nanh bén nhọn để xé thịt. Thứ hai, đối với loài người và
những động vật ăn rau, củ, quả thì hệ tiêu hóa dài gấp 12 lần chiều dài
của thân thể nên chúng ta cần nhiều thời gian hơn để tiêu hóa và bài
tiết. Ngược lại đối với loài ăn thịt như hổ có hai phần ruột, phần ruột
non thì rất ngắn và phần ruột già thì rất thẳng và mịn.
Vì thế, mỗi lần con người chúng ta ăn
chay thì cảm thấy nhẹ nhàng và ngược lại, nếu ăn mặn thì cảm thấy nặng
nề, khó chịu và buồn ngủ. Bởi vì, lúc đó thận phải làm việc nhiều để
thanh lọc những độc tố từ thịt đưa ra khỏi máu và đào thải ra ngoài
bằng đường bài tiết. Đối với những người trẻ tuổi, thận còn khỏe mạnh
thì chưa ảnh hưởng gì nhiều; còn với những người lớn tuổi, thận càng
ngày càng yếu thì quá trình đó sẽ diễn ra khó khăn hơn. Đôi khi thận
không thể loại hết những cặn bã độc tố, làm cho máu dơ, từ đó dễ sinh
bệnh. Hơn nữa thịt không có chất để tạo ra tế bào, táo bón là điều rất
dễ xảy ra. Chúng ta cũng biết rằng, táo bón có thể gây ra ung thư ruột,
bệnh trĩ… Ăn nhiều chất mỡ động vật thì sẽ dễ bị bệnh sưng gan hay
sưng lá lách và làm giảm sự sinh trưởng tế bào. Chất Cholesterol và
chất mỡ của động vật là gây ra bệnh tim và là một trong mười lý do làm
chết người nhiều nhất ở Đài Loan.
Và không phải đợi đến khoa học, y học
bây giờ mới nghiên cứu, mà theo các nhà nghiên cứu cổ hay các nhà thực
vật học thì họ nguyên cứu rằng ăn những thực phẩm ngũ cốc, rau củ thì
cơ thể của họ khỏe khoắn hơn, ít có bệnh nặng hơn so với những người ăn
thịt cá, thực phẩm từ động vật. Trở về quá khứ hàng ngàn năm trước,
đến cái nôi của văn hóa ăn chay, đó là xứ Ấn Độ. Quan điểm ăn chay được
thiết lập trong đời sống cộng đồng con người từ ngàn xưa. Ăn chay thì
có nhiều phương cách hay mục đích ý nghĩa của việc ăn chay. Mỗi tôn
giáo có quan điểm, chủ thuyết ăn chay khác nhau. Không riêng gì Phật
giáo mà Thiên Chúa giáo, Hồi giáo, Kitô giáo… cũng có thuyết ăn chay
nhưng ăn như thế nào, vào thời điểm nào, rồi phương cách ăn ra sao thì
mỗi tôn giáo mỗi khác. Riêng với đạo Phật thì vì Phật giáo xuất phát từ
Ấn Độ, mà nền văn minh cổ đại của Ấn Độ từ khi Đức Phật Thích Ca chưa
ra đời thì người ta đã ăn chay rồi. Và đến bây giờ, sau hơn hai ngàn
năm thì người dân Ấn Độ vẫn chuộng việc ăn chay, ăn ngũ cốc nhiều hơn
thịt cá.
Tuy nhiên, cũng có nhiều người nói rằng,
ăn chay không đảm bảo được sức khỏe và dinh dưỡng. Quan điểm này
thường xuất phát từ những người vừa tập ăn chay và nhất là vì phương
cách ăn chay của họ không đúng. Kế đến là do nhiều người thiếu thời
gian, cộng với thiếu hiểu biết về thành phần dinh dưỡng nên khi ăn chay
họ ăn vội, ăn đại khái cho xong. Nhưng họ không biết rằng ăn như vậy
thì ảnh xấu đến sức khỏe là điều tất yếu. Họ ăn không đủ chất hoặc đưa
vào cơ thể lượng dinh dưỡng này nhiều quá, mà lượng kia thiếu nên lượng
dinh dưỡng không quân bình trong cơ thể mà dễ sinh bệnh. Còn người ăn
đúng cách, đủ chất thì không bệnh gì cả, trái lại còn rất khỏe.
Ngày càng có nhiều quán, nhà hàng chay phục vụ cho đông đảo người ăn chay
3. Ngoài ý nghĩa của
việc ăn chay đối với sức khỏe của con người thì trong tôn giáo, nhất là
Phật giáo việc ăn chay còn có một ý nghĩa sâu sắc hơn là thể hiện lòng
từ bi. Trong đạo Phật thì lòng từ bi ở đây là do mình thương yêu các
loài vật và mình nghĩ rằng mình có mạng sống thì chúng cũng có mạng
sống; mạng sống của mình thì mình tôn trọng nên mình phải tôn trọng các
mạng sống khác. Từ loài côn trùng nhỏ nhất ta phải thương chúng vì
chúng có mạng sống, chúng nó cũng có cái thức biết dù cái thức ấy yếu.
Nhưng theo Phật giáo Phát triển hay Phật giáo Đại thừa thì tất cả chúng
sinh đều có Phật tính và chúng sinh đó sẽ thành Phật trong tương lai.
Chúng ta giết chúng sinh ấy để ăn thì giống như mình giết một vị Phật
tương lai vậy. Mình cắt đứt điều kiện để vị Phật này phát triển và hoàn
thiện dần. Vì thế việc ăn chay, ngoài lòng từ bi cao cả là do mình
thấy, biết thương các loài chúng sinh ấy như thương thân mình thì mình
phải còn phải kính trọng chúng sinh đó tức là tôn kính với một vị Phật
tương lai ở trong chúng sinh.
Người có giác ngộ, có trí tuệ, có hiểu
biết thì mới có thể thể hiện lòng từ bi đúng mức nếu không thì mình chỉ
vì thương hại, mình chỉ sợ là quả báo. Vì quả báo, vì lòng thương thì
cũng đúng nhưng nó chỉ ở tầng mức và ý nghĩa của việc ăn chay như thế
mới chỉ là tự lợi mình mà chưa lợi tha tức là lợi cho tất cả chúng
sinh, tức là tôn trọng mạng sống của chúng, tôn trọng chúng sanh ấy như
là một vị Phật, vị Bồ Tát trong tương lai. Đó mới chính là tinh thần
cao cả của Phật giáo trong việc ăn chay.
4. Ăn chay và diệt dục.
Ngoài những ý nghĩa của việc ăn chay đã nêu trên thì ăn chay còn có
liên quan mật thiết đến việc giáo dục về tâm sinh lý của con người, cụ
thể đó là vấn đề “diệt dục”. Dục ở đây là ham muốn về quan hệ thể xác.
Vậy ăn chay tại sao lại có thể diệt dục được? Thoạt nghe câu hỏi này,
nhiều người sẽ cho rằng ăn chay là tu, mà tu thì phải từ bỏ, đoạn diệt
vấn đề đó. Tôi nhớ cách đây không lâu, vị sư là thầy tôi có giới thiệu
một người đệ tử là Phật tử mới quy y để chia sẻ những vấn đề tu tập cơ
bản nhất. Tôi có hỏi câu tương tự trên và cũng nhận được câu trả lời
tương tự. Tôi hỏi tiếp, vậy bạn đã quy y, bạn có dám chắc là khi bạn ăn
chay bạn sẽ từ bỏ luôn ái dục? Bạn ấy mỉm cười… Bạn ấy đã có gia đình!
Nói tu là từ bỏ ái dục, điều này chỉ đúng ở hàng tu sĩ xuất gia, còn
đối với hàng Phật tử tại gia thì chỉ cấm “tà dâm”, còn quan hệ trong
hôn nhân vợ chồng thì không có trong giới cấm đối với cư sĩ.
Quan trọng nhất của ăn chay, diệt dục
nằm ở vấn đề dinh dưỡng, y học. Trong thực phẩm chay thì hàm lượng dinh
dưỡng không quá dư thừa, không quá béo bổ so với các loại thực phẩm từ
động vật khác mà đặc biệt là não khỉ, trứng vịt lộn… vốn nhiều đạm,
béo, protein… Khi ăn nhiều những thực phẩm bổ dưỡng ấy thì cơ thể con
người dư năng lượng và dinh dưỡng. Chính năng lượng dư thừa này sẻ làm
tăng ham muốn ái dục của con người. Mà điều đó làm cản trở lớn nhất cho
con đường tu tập của người tu sĩ, Phật tử. Ngược lại, việc ăn thức ăn
chay tịnh với rau, củ quả vốn không giàu dinh dưỡng đạm, béo… khiến tiêu
hóa dễ dàng, thân tâm hành giả cảm thấy nhẹ nhàng, thúc đẩy quá trình
tu tập mau thành quả.
Cho nên một hành giả tu tập họ tiết chế
trong ăn uống, không những không ăn chiều, không ăn tối mà không ăn
những thực phẩm nặng nhọc và hàm lượng dinh dưỡng cao. Trong nhà Phật
với hàng tu sĩ xuất gia thì có chia ra 2 loại thực phẩm là thực phẩm
cứng và thực phẩm mềm. Thực phẩm cứng là cơm, canh, bánh, trái các
loại. Còn thực phẩm mềm là thực phẩm dạng lỏng như sinh tố, thực phẩm
mà dùng không cần nhai, nghiền thì đó là thực phẩm mềm. Buổi chiều, tu
sĩ dùng những thực phẩm ấy thì không phạm luật, phạm giới là cấm ăn
chiều; trừ những trường hợp bệnh hoạn, ốm đau thì tu sĩ được phép ăn
chiều với thực phẩm cứng như một thuốc chữa bệnh.
Trường chay và ăn chiều nhẹ là để thể
hiện nhiều ý nghĩa mục tiêu của việc ăn chay đã nêu. Đó là lòng từ bi
với muôn loài muôn vật, thể hiện sự công bằng đối với sức lao động của
người, tránh đi quả báo sát hại về sau như yểu mạng, không có chuyện
giết thân kẻ khác nuôi thân mình để được trường thọ. Trong Kinh có nói
đến việc “ai cũng ham sống và sợ chết, phải suy ta mà ra lòng người,
chớ giết và bảo giết là vậy”. Vì những ý nghĩa đó mà người Phật tử theo
Phật giáo đại thừa phát tâm ăn chay.
Nếu người phát tâm ăn chay nhận thức rõ ràng được mục tiêu và ý nghĩa
của việc ăn chay thì người phật tử nói riêng và mọi người nói chung
đều ăn chay một cách dễ dàng và ý nghĩa, đúng đắn.
5. Một câu hỏi thú vị được đặt ra là, nếu nói việc
ăn chay là để thể hiện lòng từ bi, tôn trọng mạng sống chúng sinh, tôn
trọng Phật tính trong mỗi chúng sinh, diệt dục… thì hàng tu sĩ thuộc
phái Nam Tông họ không được khuyến khích ăn chay thì họ không có những
đức tính kể trên hay sao? Như vậy thì họ tu cái gì và tu như thế nào?!
Hàng ngàn năm qua cho đến bây giờ thì đây vẫn là một điều tế nhị, vẫn
còn tranh cãi trong việc tu tập theo quan điểm, tư tưởng và truyền
thống của mỗi bộ phái. Sự mâu thuẫn này được giới tu sĩ giải thích dựa
vào điều luật trong Kinh sách và lịch sử cuộc đời của Đức Phật Thích Ca
mâu Ni.
Ngày xưa, theo Kinh sách thì thời Đức
Phật còn tại thế, mặc dù Người không chủ trương giết thát các loài súc
vật để thể hiện lòng nhân từ nhưng trong 227 giới Pháp của các thầy Tỳ
Kheo (khất sĩ nói chung) cho đến bây giờ không có giới nào là cấm thầy
Tỳ Kheo ăn thực phẩm xuất phát từ nguồn động vật cả. Trong chế định
Phật giáo không có điều luật nào cấm đoán, bắt buộc không ăn thịt, cá
mà Ngài chỉ kêu gọi thể hiện lòng từ bi, cấm giết thát muôn loài. Chính
vì căn cứ trên các điều đó mà các vị trường lảo và các bậc thầy trước
đó của truyền thống Phật giáo Nam Tông đã có những biện luận riêng cho
việc không ăn chay của hệ phái mình là đúng chánh pháp. Họ không phạm
giới luật vì họ không trực tiếp giết.
Và cũng xuất phát từ quan điểm này của
hệ phái Nam Tông nên mới có thuyết “Tam tịnh nhục” là vậy. Ngày xưa
thời của Đức Phật tại thế thì có thuyết ngũ tịnh nhục nhưng ngày nay
chỉ là “Tam tịnh nhạc”. Vậy “Tam tịnh nhục” trong khái niệm về thức ăn
của nhà sư Nam Tông là gì? Đó là những thực phẩm mà các nhà sư này được
ăn có nguồn gốc từ động vật, nhưng đó được gọi là thịt thanh tịnh. 3
loại thịt đó là: không nghe, không thấy và không nghi ngờ vì mình mà
giết. Ví dụ có một gia đình thỉnh chư tăng ngày mai đến thọ trai, thế
là gia đình ấy làm thịt mấy con gà, mấy con vịt, heo, bò để thiết đãi
chư tăng. Khi chư tăng nghe nói lại là những thực phẩm dành cho mình
được xuất phát như vậy thì chư tăng không được dùng. Hoặc khi chư tăng
đi khất thực nghe tiếng rên la của những thú vật đó bị giết bởi một gia
chủ trong đó và sau đó họ mang ra cúng tế chư tăng thì chư tăng cũng
không được dùng. Ngược lại những thực phẩm đã được làm sẵn, mặc dù thực
phẩm ấy xuất phát từ thịt động vật thì đối với Phật giáo Nam Tông thì
đó là thực phẩm hợp luật, được dùng. Ngày xưa, thời của Đức Phật thì
còn có hai loại thực phẩm thanh tịnh khác là con vật bị chết trong
rừng, hoặc thịt của những con vật mà chúng bị các con vật khác ăn còn
xót lại. Nhưng hai loại thực phẩm này thì hiếm nên ngày nay ta thường
nói là Tam tịnh nhục.
Tuy nhiên đó chỉ là quan điểm “ăn chay”
của bộ phái, truyền thống, còn căn cứ theo Kinh và Luật của Đức Phật
thì cấm chế các thầy Tỳ Kheo việc giết thác các loài động vật. Tại sao
lại cấm chế? Tức là để thể hiện những đức tính đã kể trên như tôn trọng
mạng sống của muôn loài, thể hiện lòng từ bi, thương yêu muôn loài
muôn vật, tránh nghiệp quả báo, tránh tổn mạng, yểu thọ. Vì thế ăn chay
là thể hiện tốt nhất những đức tính đó, không ăn chay dù không trực
tiếp giết nhưng chúng ta đã gián tiếp giết. Nếu ai cũng ăn chay thì
chắc chắn vấn đề giết thác các sinh mạng động vật sẽ giảm thiểu đến mức
tối đa và là người tu sĩ thì nên tiên phong trong việc ăn chay với
những thức ăn chay tịnh. Đó cũng chính là quan điểm của chư tăng tu
theo tư tưởng của Phật giáo Phát triển.
Thiết nghĩ chúng ta không thể biện luận
rằng, Đức Phật không chế định các giới pháp, giới luật thì mình tự do
ăn uống. Một vị hòa thượng thuộc hệ phái Khất Sĩ chia sẻ rằng: Nếu
trong một ngôi chùa Nam Tông làm lễ lớn thết đãi vài ngàn người, mình
là người chủ trong ngôi chùa ấy mà mình không chỉ dạy, sắp xếp việc ẩm
thực thì làm sao cư sĩ phật từ dám làm. Mình chủ trương thết đãi bằng
thực phẩm chay lạc, bế tắc lắm thì phải mua thực phẩm “mặn” từ bên
ngoài chứ đừng giết thác trong chùa. Nâng lên một bậc cao hơn nữa thì
không nên dùng những thực phẩm mặn ấy thết đãi chư tăng vì chư tăng là
người thể hiện sự tu tập mà người tu tập thì thề hiện nhiều đức tính,
trong đó có từ bi, thương yêu muôn loài muôn vật. Nên tốt nhất chúng
ta, nhất là hàng tu sĩ nên dùng thực phẩm chay lạc hơn là thực phẩm từ
thịt động vật có sẵn này.
Tuy nhiên, hiện tại thì một số nhà sư
chưa làm được như vậy vì họ chưa vượt thoát ra được rào cản trong tông
môn hệ phái, truyền thống, quan điểm tư tưởng, đặc biệt là ảnh hưởng
đến quốc độ thời gian và không gian nơi đó. Ví dụ, có nhiều nước không
thể có nhiều loại thực phẩm từ thực vật, ngũ cốc dồi dào được thì họ
dùng tạm thực phầm từ thịt nêu trên. Ví dụ như sang các nước sa mạc
hoang vu, tuyết phủ quanh năm… họ phải dự trữ những thực phẩm từ động
vật bằng cách phơi, nướng… Nhưng qua xứ như Việt Nam chúng ta thì không
nên ăn thực phẩm từ thịt động vật vì ngũ cốc dồi dào, thực phẩm chay
lạc dễ tìm kiếm. Do những quan điểm trên mà người tu theo Phật giáo Phát
triển hay còn gọi là Phật giáo Bắc Tông, Bắc Truyền, Phật giáo đại
thừa trong đó có hệ phái Khất Sĩ do Tổ sư Minh Đăng Quang đã chủ trương
là chỉ ăn thức ăn chay tịnh, có nguồn gốc từ thực vật. Cũng xin nói
thêm rằng, ở Việt Nam có 3 truyền thống Phật giáo chính đó là Nam Tông,
Bắc Tông và Khất Sĩ. Trong đó Bắc Tông và Khất Sĩ thì ăn chay còn chư
tăng và tu nữ của phật giáo Nam Tông thì còn dùng thực phẩm mặn.
Thực phẩm từ rau của quả tốt cho sức khỏe
6. Ngoài những ý nghĩa
cũng như những đức tính được thể hiện trong việc ăn chay đã kể trên thì
ăn chay còn có một ý nghĩa khác đó chính là kiềm thúc thân, tâm trước
những ham muốn về dục lạc bộc phát. Nhất là tham ăn những thực phẩm
thịt, cá, những thực phẩm chế biến từ những thứ béo bổ từ sinh mạng
chúng sanh khác để bồi bổ cơ thể rồi dẫn đến tham khoái lạc về xác
thịt. Theo nhà Phật thì khi mình chiều theo khẩu nghiệp như thế thì sẽ
trói buộc mình trong nghiệp báo. Ta cứ giết thát và xúi người khác giết
thát đề mình ăn hoặc dâng người khác ăn. Mà ăn những thực phẩm đó thì
dẫn đến việc dư nguồn năng lượng trong cơ thể nên làm tăng dục tính. Và
đề đảm bảo những nhu yếu về sinh học, sinh lý thì những người đó chìm
đắm quan hệ xác thịt. Cho nên những người nào quá chú trọng việc ăn
uống nhiều thịt, cá thì đó là những người đa dục. Đặc biệt nói về ái
dục.
Một số cư sĩ hiện nay cho rằng, mình ăn
chay nhưng tùy theo sự tiện lợi tức là lúc ăn chay có thể ăn thịt cá
được miễn sao mình không trực tiếp giết thác các loài thì không mang
tội và không mang nghiệp báo. Tôi đã gặp nhiều quan điểm như thế của
các cư sĩ. Dễ thấy quan điểm trên tương đồng với quan điểm về việc “ăn
chay” của hệ phái Nam Tông. Như đã phân tích ở trên, quan điểm này nếu
đứng theo gốc độ của bộ phái, truyền thống trong kinh luật của Đức Phật
thì có những lý lẽ riêng để biện luận. Song thiết nghĩ, nếu đã phát
tâm ăn chay mà ăn như vậy thì không còn là ăn chay nữa. Chay có nghĩa
gốc là trai, tức là trai giới, là sự trong sạch. Chúng ta hay nghe nói
đến Trai tịnh. Tịnh là trong sạch, trai là trì trai giữ giới tức người
đó thúc liệm thân tâm, sự tu tập trong sạch để giữ gìn đời sống trong
sạch, phạm hạnh. Một trong những ý trong đời sống trong sạch, phạm hạnh
đó là không giết thát để ăn uống, quan hệ tính dục. Không riêng gì nhà
Phật từ mà thời Vua chúa ngày xưa khi cầu mưa thuận gió hòa, quốc thái
dân an thì họ cũng phải ăn chay nằm đất trong mấy ngày để sạch sẻ thân
và tâm; vào những ngày đó thì vua không đến hậu cung. Đó là trai giới
trong sạch. Ăn chay mà nói ăn những thực phẩm mặn có sẵn thì đó không
phải là ăn chay. Việc đó chỉ gọi là kiêng cử không sát sanh mà thôi.
Theo quan điểm nhà Phật nói riêng và các tôn giáo nói chung thì ăn chay
là không ăn thịt các sinh mạng của thú vật mà chỉ ăn các thực vật.
7. Nếu người phát tâm
ăn chay nhận thức rõ ràng được mục tiêu và ý nghĩa của việc ăn chay thì
người phật tử nói riêng và mọi người nói chung đều ăn chay một cách dễ
dàng và ý nghĩa, đúng đắn. Chúng ta không nên ăn chay như trả nợ quỷ
thần đó là những quan niệm ăn chay lệch lạc cần phải lên tiếng, xây dựng
và góp ý. Ăn chay như vậy thì không còn ý nghĩa ăn chay cao thượng qua
các tiêu chí như đã nói. Việc ăn chay đó chỉ lợi mình, không lợi người
và cũng không phải lợi cho đời này đời sau. Ăn chay có ý nghĩa là lợi
mình, lợi người, lợi chúng sinh, cả đời này lẫn đời vị lai. Ăn chay
không chỉ để tránh quả báo, không chỉ dừng lại ở lòng từ bi mà còn tôn
trọng sự công bằng của mạng sống…
Theo bình diện tổng thể đối với xã hội
liên quan đến y học thì việc ăn chay bây giờ rất hợp thời. Đặc biệt là
người phương Tây, ở các nước Bắc Mỹ, Âu Mỹ bây giờ người ta ăn chay
nhiều, không phải họ theo Phật giáo mà trước tiên là để giữ gìn sức
khỏe, tránh đi những bệnh tật, truyền nhiễm, hạn chế tối đa những bệnh
béo phì, cao huyết áp…
Để cho việc ăn chay của hàng cư sĩ Phật
tử nói riêng và mọi người nói chung trong buổi đầu được như ý thì trước
tiên phải hiểu rõ về ý nghĩa và phương pháp ăn chay cũng như lợi ích
của việc ăn chay. Đặc biệt là phải hiểu ý nghĩa của việc ăn chay, nếu
không hiểu thì việc ăn chay giống như kiểu buôn thần bán thánh, mang
tính trao đổi thì không đúng. Khi ăn chay chúng ta phải hiểu ý nghĩa
của nó để trưởng dưỡng những đức tính tốt đẹp kể trên; hiểu được như
vậy thì người ăn chay có thể tĩnh tâm trong việc ăn chay. Và khi đó dù
có người nói ra nói vào thì họ đều quyết tâm theo quyết định của họ mà
không bị lung lay. Kế đến là phải biết phương pháp ăn chay, nấu chay để
có thể đảm bảo được hàm lượng dinh dưỡng cho cơ thể. Khẩu phần ăn phải
đảm bảo sức khỏe. Ăn chay để bảo tồn sức khỏe, để tránh bệnh tật mà ăn
chay không khéo đúng cách và hàm lượng dinh dưỡng không đủ thì lại
sinh ra bệnh. Cán bộ, công nhân viên chức không có thời gian để ăn thì
nên đến những tiệm ăn chay để có thể chọn những thực phẩm hợp với khẩu
vị và sức khỏe của mình.
Trong kinh Đức Phật có dạy rằng, phải
biết chọn lựa thức ăn và bệnh thì phải từ cữ ăn, ý nói thường có những
thực phẩm mình thích ăn nhưng giờ mình bệnh thì phải kiêng cữ, trong
thực phẩm chay cũng vậy. Mình phải biết chọn lựa và biết thực phẩm nào
vào thời điểm nào là hợp lý. Mặt khác, việc ăn chay cũng có khả năng
kích thích tính dục nếu ta ăn uống theo kiểu phóng dật, không chuẩn
mực, điều độ. Bởi vì trong thực phẩm chay nhiều loại cũng giàu dinh
dưỡng, nên nếu ta ăn dư thừa thì vẫn dẫn đến tình trạng dư thừa năng
lượng, dinh dưỡng như chúng ta ăn mặn vậy. Điều đó cũng nói lên ý nghĩa
của việc các chư tăng theo luật thì chỉ được ăn cơm, gọi là “thọ trai”
không quá giờ Ngọ và không được ăn thức ăn cứng vào chiều hay tối là
thế!
Theo Hư Trúc - NLM