Ngày nay Ăn chay trở nên quen thuộc đối
với mọi người, ăn chay chẳng những vì
lý do tôn giáo mà còn vì lý do sức khỏe và lòng nhân
đạo nữa.
Ăn chay vì lý do tôn
giáo.
Trước nhất có lẽ chúng ta tìm hiểu
ăn chay vì lý do tôn giáo như Ấn độ giáo, Phật
giáo... Riêng đối
với Phật Giáo Bắc Tông, các tu sĩ đều
ăn chay trường, Phật tử tại gia, giữ
năm giới thường ăn chay kỳ, mỗi tháng
ăn chay 2 ngày là Mồng Một và Rằm
gọi là ngày Sóc và ngày Vọng, vì ngày xưa không có lịch,
để cho người ta dễ nhớ nên ăn chay vào
ngày không trăng là Mồng Một và ngày trăng tỏ
nhất ngày Rằm, hoặc ăn chay bốn ngày là ngày cuối
tháng và đầu tháng, ngày mười bốn và ngày Rằm.
Ăn chay sáu ngày là Mồng 8, 14, 15, 23, 29, 30 Vì sao không có
ngày Mồng Một? Có thuyết cho rằng vì sáu ngày
ấy Tứ Thiên Vương và các vị đại
thần đi xem xét việc thiện, ác ở thế gian.
Ăn chay mười ngày là Mồng Một,
8, 14, 15, 18, 23, 24, 29, 30 (hay 28, 29). Còn một năm
ăn chay tháng giêng, tháng năm, tháng
chín, gọi là tam trường trai (nhiều người
thường ăn chay tháng Giêng, tháng bảy, tháng mười
theo Thượng ngươn, Trung ngươn và Hạ ngươn).
Còn ngày nào cũng ăn chay gọi là trường trai.
Danh từ Ăn
chay phát xuất từ tiếng Phạn
Uposatha đọc
là Ô-bổ-sa-tha hay Bồ Tát, tiếng
Hán Việt là Trai, nguyên nghĩa là thanh tịnh sau
chuyển thành giới pháp là không ăn
quá giờ Ngọ (từ 11 giờ đến 1 giờ
trưa), sau chuyển một nghĩa nữa là
không ăn thịt
cá theo xu hướng của Ðại
thừa Phật giáo. Từ
đó, theo nghĩa thông thường và phổ biến,
ăn chay là ăn những thức ăn từ ngũ cốc
(năm thứ hạt để ăn là gạo, miến,
đậu, mi, kê) và rau, trái, không
ăn thịt, cá, trứng,
sữa. Cũng không ăn ngũ vị tân (năm vị
cay) là hành, hẹ, nén, tỏi, hưng
cừ. Ða số nói theo
truyền thuyết cho rằng ăn ngũ vị tân đọc
chú không linh nghiệm, có người giải thích theo tích
bàThanh Ðề cúng trai tăng
có thịt chó, vị tăng nào có huệ
nhãn biết thì bỏ thức ăn vào tay áo, đến
khi đi về dọc đường thì dũ tay áo bỏ
đi, vị tăng nào không biết
đã ăn, khi về dọc đường bị ói ra,
sau mọc lên cây hành, hẹ, nén, tỏi,
hưng cừ, cho nên tu sĩ ăn chay kiêng cử ngũ vị
tân, có người giải thích những thứ đó
ăn vào làm cho nóng tánh và sinh lòng dục,
giải thích nầy hợp lý hơn cả. Riêng tỏi,
ngày nay Y học chế biến thành viên thuốc tỏi, uống
giúp hạ huyết áp và Cholesterol.
Nam tông cho rằng mình là tông phái bảo thủ,
gìn giữ, lưu truyền tất cả những gì từ
thời đức Phật còn tại thế cho đến
nay. Chúng ta biết rằng thời đức Phật,
chư Tăng đi truyền bá giáo pháp của Phật,
đi qua những làng mạc nghèo khó,
có nơi không nhà cửa, lại nữa những nơi xa
xôi, chưa biết đạo Phật là gì, được
người ta cúng dường thức ăn mà
còn đòi hỏi, gây khó khăn thì việc truyền bá sẽ
gặp nhiều trở ngại, chư Tăng
sẽ bị đói khát, chết trước
khi làm được
nhiệm vụ truyền bá đạo Phật của mình.
Do vậy từ thời đức Phật, chư Tăng
đi khất thực, Phật tử cúng dường thức
ăn chi thì chư Tăng ăn thức ăn nấy, không
đòi hỏi yêu cầu và lựa chọn.
Chính vì thế mà đức
Phật đã dạy chư Tăng phải giữ Tam Tịnh
Nhục như trong đoạn kinh sau đây:
Jivaka Komarabhacca, một vị lương y hỏi
đức Phật:
- "Bạch đức Thế Tôn, con có
nghe thấy rằng thú vật bị giết để dành
cho ẩn Sĩ Cồ đàm, và
ẩn Sĩ Cồ đàm cố ý ăn
thịt thú vật bị giết để dành
cho Ngài. Thưa Thế Tôn, có phải người ta nói
thú vật bị giết là để
cho ẩn Sĩ Cồ đàm, và
ẩn Sĩ Cồ đàm cố ý ăn thịt thú vật
bị giết vì mục đích
để dâng cho Ngài Cồ đàm. Họ buộc tội
sai cho đức Phật phải không? Hay đó là
họ nói sự thật? Những lời tuyên bố và những
lời giải thích thêm của Ngài phải chăng là
đề tài bị người khác báng nhạo bằng một
thái độ nào đó?"
- "Này Jivaka, những ai nói: 'Thú vật bị
giết là để
cho ẩn Sĩ Cồ đàm, và
ẩn Sĩ Cồ đàm cố ý ăn
thịt thú vật bị giết để dâng cho mình',
không nói đúng điều ta nói, họ đã
buộc tội ta không
đúng. Này Jivaka, ta đã nói là
không nên ăn thịt, nếu nhìn thấy, nghe thấy hay
nghi ngờ thịt đó
do thú vật bị giết để dâng cho các thầy tỳ
kheo. Ta cho phép các thầy tỳ kheo dùng thịt trong ba
điều kiện: Nếu không nhìn
thấy, không nghe và không nghi ngờ
thịt do thú vật bị giết để cung cấp
cho các thầy tỳ kheo" (Kinh
Jivaka).
Trong kinh điển còn ghi tích một vị
tổ, khi đi khất thực, được một
người cùi cúng dường thức ăn, khi thọ
thực tổ ấy thấy có một lóng tay của người
cùi kia rụng vào bình bát mình, nhưng
tổ cũng phải ăn luôn ngón tay ấy, vì không
được phép lựa chọn.
Ðối với Phật giáo Bắc Tông, trong
Ngũ giới, Bát quan trai giới hay Bồ Tát Giới của
hàng cư sĩ đều
có giới cấm sát sinh. Tu sĩ như Sa Di có 10 giới
trong đó có giới cấm sát sinh, còn
hàng Tỳ kheo thọ Ðại giới, đứng
đầu là Ba-La-Di dịch ý là Khí
hay Ðoạn đầu có nghĩa là bỏ đi
hay kẻ bị chặt đầu không còn
thuốc cứu chữa, những ai phạm phải những
giới này, sẽ bị loại ra khỏi hàng Tỳ Kheo,
trong đó có giới cấm giết người. Hàng Tỳ
kheo cũng có Bồ Tát Giới, cũng có giới cấm
sát sinh. Ðó là nói về Giới.
Ðạo Phật có đặc tính là Từ
Bi và Trí Tuệ.
Do vậy Phật Giáo Bắc Tông đặt
ra Trai giới đứng hàng đầu trong sự thực
hành tu tập, chính vì hạnh Từ
Bi ấy mà Phật giáo Bắc Tông tiến lên Trường
Trai. Trên quan điểm
nầy, Phật giáo Bắc Tông cho rằng Ðức Phật
ăn chay trường, nên chư Tăng ăn chay trường,
trong khi đó Nam Tông cho rằng Ðức Phật ăn mặn
nên chư Tăng ăn mặn.
Ðể chứng minh rằng Ðức Phật
ăn mặn, người ta dẫn chứng :
- Bửa ăn cuối cùng
của Phật do ông Thuần Ðà (Châu Na) cúng dường
có một bát canh thịt heo rừng.
- Ðề Bà Ðạt Ða thỉnh cầu đức
Phật chấp thuận những điều như sau: Trao
cho ông quyền lãnh đạo Tăng Ðoàn,
chư Tăng phải dùng y bằng vải nhặt ở
bãi tha ma, chư Tăng
phải ăn chay trường... Ðức
Phật không chấp
nhận những đòi hỏi của
Ðề Bà Ðạt Ða, riêng khoản bắt chư Tăng
ăn chay trường, đức Phật dạy để
cho mỗi người được tùy
ý chọn lựa.
Ðể chứng minh rằng đức
Phật ăn chay, người ta cho rằng Kinh Từ Bi
trong Ðại Tạng Kinh Nguyên Thủy
là bằng chứng vững chắc
nhất, chứng tỏ đức Phật ăn chay.
KINH TỪ BI
Mettã sutta
Sanskrit là "Maitri sutta"
Anh ngữ là "Sutra on Loving-kindness"
Những ai muốn đạt tới an lạc
thường nên học hạnh thẳng
thắn, khiêm cung, biết sử dụng ngôn ngữ từ
ái. Những kẻ ấy biết sống đơn giản
mà hạnh phúc, nếp sống từ hòa, điềm
đạm, ít ham muốn, không đua đòi theo đám
đông. Những kẻ ấy sẽ không làm bất cứ
một điều gì mà các bậc thức
giả có thể chê cười.
Và đây là điều họ luôn luôn tâm
niệm:
Nguyện cho mọi người và mọi
loài đươc sống trong an toàn và hạnh phúc, tâm tư
hiền hậu và thảnh thơi.
Nguyện cho tất cả các loài sinh vật
trên trái đất
đều được sống an lành,
những loài yếu, những loài mạnh, những loài cao,
những loài thấp, những loài lớn, những loài nhỏ,
những loài ta có thể nhìn thấy, những loài ta không
thể nhìn thấy, những loài ở gần, những
loài ở xa, những loài đã sinh và những loài sắp
sinh.
Nguyện cho đừng loài
nào sát hại loài nào, đừng
ai coi nhẹ tính mạng của ai, đừng ai vì
giận hờn hoặc ác tâm mà mong cho ai bị đau khổ
và khốn đốn.
Như một bà mẹ đang
đem thân mạng mình che chở cho đứa con duy nhất,
chúng ta hãy đem lòng từ bi mà
đối xử với tất cả mọi loài.
Ta hãy đem lòng từ bi không giới hạn
của ta mà bao trùm cả thế gian và muôn loài, từ
trên xuống dưới, từ trái sang phải, lòng từ
bi không bị bất cứ gì làm ngăn cách, tâm ta không
còn vương vấn một chút hờn oán hoặc cãm
thù. Bất cứ lúc nào, khi đi,
khi đứng, khi ngồi, khi nằm, miễn là
còn thức, ta nguyện duy trì trong ta chánh niệm từ
bi. Nếp sống từ bi là nếp sống cao
đẹp nhất.
Không lạc vào tà kiến, loại dần
ham muốn, sống nếp sống lành mạnh và đạt
thành trí giác, hành giả sẽ chắc chắn vượt
thoát khỏi tử sinh.
Về bát canh ông Thuần Ðà cúng dường Phật,
xin đọc những
đoạn trích sau đây:
Trong Kinh Trường A Hàm, Thượng Tọa Thích Tuệ
Sỹ dịch, xin trích Phần I, Mục 2 Du Hành, đoạn
ông Châu-na cúng dường Phật như sau:
Bấy giờ, Ðức Thế Tôn sau khi tùy
nghi trú ở thành Phụ-di lại bảo A-nan cùng đi
đến thành Ba-bà. A-nan đáp:
- Kính vâng, rồi xếp y ôm bát, với đại chúng
đi theo Thế Tôn, theo con đường Mạt-la đi
vườn Xà-đầu , thành Ba-bà.
Nơi đây có con trai của một người thợ tên
là Châu-na nghe Phật từ Mạt-la kia đến thành
này, liền y phục chỉnh tề tìm đến
chỗ Phật, đầu mặt lễ chân Phật, rồi
ngồi lại một bên. Phật
theo thứ lớp thuyết pháp cho Châu-na, chỉ bày, giáo
huấn, khiến cho lợi ích hoan hỷ. Châu-na sau khi nghe
phát tín tâm hoan hỷ, bèn thỉnh Phật ngày mai đến
nhà cúng dường. Phật làm thinh nhận lời.
Châu-na biết Phật đã nhận lời, liền đứng
dậy lễ Phật, rồi lui về. Ngay
đêm đó ông sửa soạn thức ăn. Ngày
mai, vào thời gian thích hợp, ông trở lại thỉnh
Phật.
Bấy giờ, Thế Tôn khoác y cầm bát
cùng với đại chúng tùy tùng đến nhà ông, ngồi
lên chỗ ngồi dọn sẵn. Sau khi Phật và đại
chúng đã an tọa, Châu-na đem món ăn dâng Phật
và chúng Tăng. Ông lại nấu riêng một thứ nấm
Chiên-đàn là thức ăn
trân quý kỳ lạ ít thấy, đem dâng riêng cho Phật.
Phật bảo Châu-na chớ đem thứ nấm ấy
cho chúng Tăng ăn. Châu-na vâng lời, không dám dọn
cho chúng Tăng.
Lúc bấy giờ, trong đại chúng Tỳ-kheo
có một Tỳ-kheo già, xuất gia lúc tuổi xế chiều,
ngay trên mâm ăn, dùng đồ
đựng dư để lấy.
Trong Ðại Tạng Kinh Việt Nam, Kinh Trường
A Hàm 1, do Viện Cao Ðẳng Phật Học Huê Nghiêm dịch,
Hòa Thượng Thích Trí Tịnh Hiệu đính, Phần
II Kinh Du Hành (trang 142) như sau:
Bấy giờ đức Thế Tôn ngự tại
thành Phụ-di nhận thấy cơ
duyên hóa độ
đã xong, liền bảo A-nan:
- Hãy đến thành Ba-bà.
A-nan đáp:
- Vâng !
Bèn sửa sang y bát, cùng đại chúng theo
hầu Thế Tôn bằng ngã đường
Mạt-la để đến khu vườn Xà-đầu,
thuộc thành Ba-bà. Nöi đây có người
thợ rèn tên là Châu-na, nghe Phật từ Mạt-la đến
thành liền y phục chỉnh tề đi
đến chỗ Thế Tôn ngự, cúi đàu đảnh
lễ và ngồi xuống một bên.
Lúc đó Phật lần
lượt thuyết pháp, dạy cho ông những điều
lợi ích vui mừng. Khi nghe xong, tín tâm hoan hỷ liền
thỉnh Phật sáng mai đến nhà thọ trai, Phật
im lặng nhận lời, Châu-na biết Phật im lặng
nhận lời liền đứng dậy đảnh lễ
ra về.
Nội trong đêm đó, ông lo sửa soạn
thức ăn, sáng hôm sau ông đến thưa: "Bạch
Thế Tôn, đã đến giờ thọ trai, kính tin ngài
rõ. " Bấy giờ, đức
Thế Tôn đắp y bát cùng đại chúng theo hầu
đi đến nhà ông Châu-na, và tiến
đến chỗ ngồi, Châu-na bày thức ăn cúng Phật
và chư Tăng, ông lại nấu riêng một thứ nắm
chiên-đàn là thức ăn quý lạ nhất, ít thấy
nhất trên đời
đem dâng riêng cho Thế Tôn, tức
thì Phật bảo: "Châu-na chớ đem thứ nấm
này dâng cúng cho chư Tăng".
Châu-na lúc đó vâng lời Phật dạy, không dám hành
động. Bấy giờ trong chúng có một vị trưỡng
lão Tỷ-kheo mới xuất gia, trên
chỗ ngồi của mình lại bưng uống chén nước
nấm còn dư.
Trong Kinh Trường A Hàm, Hòa Thượng
Thích Thiện Siêu dịch, Phật Học Viện quốc
Tế xuất bản năm 1986. Quyển 3, Kinh Du Hành, Thứ
2, Ðoạn 2 (trang 86):
"....Sau khi Phật và đại
chúng đã an tọa, ông Châu Na (Thuần
Ðà) đem món ăn
dâng Phật và chúng Tăng, ông lại
nấu riêng một thứ nấm Chiên Ðàn là thức
ăn trân quý kỳ
lạ ít thấy, đem dâng riêng cho Phật, Phật dạy
Châu Na chớ đem thứ nấm ấy cho chúng tăng
ăn. Châu Na vâng lời...."
Trong Trường Bộ Kinh (Digha Nikaya), Kinh Ðại Bát-Niết-Bàn
(Mahàparinibbàna sutta), Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch
như sau:
......
Tụng phẩm IV
......
13. Rồi Thế Tôn, sau khi ở tại
Bhoganagara cho đến khi Ngài xem là vừa
đủ, liền bảo tôn giả Ananda:
- Này Ananda, chúng ta sẽ đi
đến Pàvà.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn. Và Thế
Tôn cùng với đại
chúng Tỷ-kheo đi đến Pàvà,
tại vườn xoài của Cunda, một người thợ
sắt.
14. Thợ sắt Cunda nghe: "Nay Thế Tôn
đã đến Pàvà và hiện
đang ở trong vườn xoài của ta". Rồi thợ
sắt Cunda đến
tại chỗ Thế Tôn, khi đến xong liền đảnh
lễ Ngài và ngồi xuống một
bên. Và Thế Tôn thuyết pháp cho thợ sắt Cunda
đang ngồi một bên, khích lệ, làm cho phấn khởi,
khiến tâm hoan hỷ.
15. Và thợ sắt Cunda, sau khi được
Thế Tôn thuyết pháp, khích lệ, làm cho phấn khởi,
khiến tâm hoa hỷ, liền bạch Thế Tôn: "Bạch
Thế Tôn, mong Thế Tôn nhận lời mời của con
ngày mai đến dùng cơm với chúng Tỷ-kheo". Thế
Tôn im lặng nhận lời.
16. Thợ sắt Cunda, sau khi biết Thế
Tôn đã nhận lời, liền từ chỗ ngồi
đứng dậy, đảnh lễ Ngài,
thân phía hữu hướng về Ngài và từ biệt.
17. Và thợ sắt Cunda, sau khi đêm đã
mãn, liền cho sửa soạn tại nhà các món ăn
thượng thị, loại cứng và loại mềm và
nhiều thứ Sùkara-maddave (một loại mộc nhĩ),
và báo tin cho Thế Tôn: "Bạch Thế Tôn, giờ
đã đến,
cơm đã sẵn sàng".
18. Và Thế Tôn buổi sáng đắp y,
mang theo y bát, cùng với chúng Tỷ-kheo đến nhà thợ
sắt Cunda, khi đến xong liền ngồi trên chỗ
đã soạn sẵn. Sau khi ngồi. Thế Tôn nói với
thợ sắt Cunda:
- Này Cunda, loại mộc nhĩ đã soạn
sẵn, hãy dọn cho ta. Còn các món ăn khác đã
soạn sẵn, loại cứng và loại mềm, hãy dọn
cho chúng Tỷ-kheo.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Thợ sắt Cunda vâng lời Thế Tôn, dọn
cho Thế Tôn các món mộc nhĩ đã
soạn sẵn, và dọn cho chúng Tỷ-kheo các món ăn
khác, loại cứng và loại mềm.
19. Rồi Thế Tôn nói với thợ sắt
Cunda:
- Này Cunda, món ăn mộc nhĩ còn lại.
Ngươi hãy đem chôn vào một lỗ. Này Cunda, Ta
không thấy một ai ở cõi Trời, cõi Người,
ở Ma giới, ở Phạm thiên giới, không một người
nào trong chúng Sa-môn và chúng Bà-la-môn, giữa những Thiên,
Nhân, ăn món mộc nhĩ này mà có thể tiêu hóa
được, trừ Như Lai.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Thợ sắt Cunda vâng theo Thế Tôn, đem
chôn món ăn mộc nhĩ còn lại
vào một lỗ, đi
đến chỗ Thế Tôn, đảnh lễ Ngài
và ngồi xuống một bên. Rồi Thế Tôn thuyết
pháp cho thợ sắt Cunda
đang ngồi xuống một bên,
khích lệ, làm cho phấn khởi, khiến tâm hoan hỷ
rồi từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.
20. Sau khi dùng cơm của thợ sắt
Cunda, Thế Tôn bị nhiễm bệnh nặng, bệnh lỵ
huyết, đau đớn
gần như đến chết, và
Thế Tôn chánh niệm tĩnh giác, nhẫn
nại, chịu đựng cơn bệnh.
Rồi Thế Tôn nói với tôn giả Ananda:
- Này Ananda, chúng ta hãy đi
đến Kusinàra.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn.
Tôi nghe: Sau khi dùng cơm tại nhà thợ sắt Cunda.
Cơn bệnh khốc liệt bỗng khởi lên, gần
như chết đến nơi.
Sau khi cùng món ăn loại mộc nhĩ.
Kịch bệnh khởi lên nơi bậc
Ðạo Sư.
Ðiều phục bệnh hoạn, Thế Tôn dạy rằng:
"Ta đi đến
thành Kusinàra".
...
Như vậy đoạn kinh trên từ Hán Tạng hay
Pali Tạng, đều dịch là nấm
chiên đàn hay mộc nhĩ cũng thế.
Theo nhà học Phật Rhys David, thức ăn
do Châu-na (Thuần Ðà) dâng cúng Phật là nấm rơm.
Rhys David cho rằng từ "sukara maddava" có ít nhất
bốn ý nghĩa:
a. Loại thực phẩm heo ăn.
b. Một loại thức ăn heo rất ưa thích
c. Các phần mềm trong cơ thể
con heo
d. Một loại thức
ăn bị giẫm nát bởi con heo.
Từ sukara maddava được kết hợp
do hai từ sukara và maddava. Sukara có nghĩa
là con heo và maddava có nghĩa là phơi khô hay là ngon, tức
là một loại thức ăn mà giống heo rừng rất
thích ăn. Các học giả dịch ra Anh ngữ là
truffles, một loại nấm quý.
Và như đã dẫn trên, đức Phật
không chấp nhận lời thỉnh cầu của Ðề
Bà Ðạt Ða, cho phép chư Tăng tùy ý. Qua yêu cầu nầy,
chúng ta hiểu rằng Ðức Phật phải ăn chay
trường nên Ðề bà Ðạt Ða mới dám đề
nghị bắt buộc chư Tăng phải ăn chay.
Những dẫn chứng trên đủ chứng
tỏ Phật, một bậc Ðại Giác, Ðại Bi, Ðại
Trí. Ngài thật sự trường trai.
Ăn chay vì lý do sức
khỏe
Ngày nay nhiều người ăn chay vì lý
do sức khỏe nhất là người Mỹ, vài thập
niên trước, người ta ăn, uống phải lựa
chọn những thức ăn, uống có nhiều chất
bổ dưỡng, vào những năm cuối thiên
niên kỷ thứ hai, ăn uống như vậy trở thành
thời thượng. Bởi vì do ăn
uống như thế, đa số người Mỹ trở
nên béo phì, có hại cho tim mạch,
thường bị tai biến mạch máu não, hay bị bệnh
tim dễ chết người. Do vậy người Mỹ
cũng như người Tây Phương ăn chay theo ba
loại:
- Ăn chay thuần túy (Vegan hay Pure
Vegetarian): Là những người ăn thuần ngũ cốc,
rau, đậu, trái cây.
- Ăn chay bán thuần túy (Lacto-Vegetarian):
Là những người ăn ngũ cốc, rau, đậu,
trái cây, sữa và phó sản của sữa. Họ không
ăn trứng vì cho rằng trong lòng
đỏ trứng có mầm sống.
- Ăn chay không thuần túy (Ovo-Lacto
Vegetarian): Là những người ăn ngũ cốc, rau,
đậu, trái cây, trứng (ovo) và sữa
(lacto) cũng như phó sản của sữa.
Quan
niệm sai lầm về ăn chay:
a) Bản thân người ăn chay: Có một
số ăn chay với quan niệm sai lầm rằng, tu là
diệt dục vậy ăn chay vì lý
do tôn giáo như thế nên không cần phải ăn
uống cho ngon miệng, cho đã thèm,
chỉ ăn qua loa với
muối đậu, muối mè, muối
xả, muối ớt
do vậy không đủ chất bổ dưỡng, dễ
sinh ra bệnh tật.
b) Nhận định sai lầm của giới
Y Bác Sĩ do người ăn chay gây ra: Như nêu
trên, những người ăn
chay có quan niệm sai lầm đó hay do thiếu thốn tiền
bạc, bửa ăn hàng ngày thiếu
chất dinh dưỡng lâu ngày thành bệnh, đi
Bệnh viện hay Bác sĩ chữa trị, họ đánh
giá và cho rằng ăn chay là nguyên
nhân của bệnh. Vào thập niên 30, trong gia đình tôi
có hai người ăn
chay, thân phụ tôi ăn chay sau mười năm bị
đau phổi, đưa đi Bệnh viện Long Xuyên,
Bác sĩ Bàng khuyên không nên ăn
chay nữa, trong khi đó chú tôi làm thầy giáo ăn chay
trường từ năm 17 tuổi cho khi mất năm 73
tuổi. Ðồng thời cũng ăn chay nhưng thân phụ
tôi làm ruộng, tiền bạc ít, ăn uống đạm
bạc, làm việc đồng áng nặng nhọc sinh bệnh,
còn chú tôi làm thầy
giáo, việc nhẹ, có tiền lương, ăn uống
đầy đủ, không bệnh tật.
c) Nhiều người có quan niệm cho rằng
ăn chay là không ăn thịt, cá như thế là ăn uống
kiêng khem (Diet), không có nhiều chất béo, tránh được
tình trạng béo phì, tránh được
những bệnh về tim mạch.
Nhưng tại sao nhiều tu sĩ, từ Thượng Tọa
cho đến Hòa Thượng cũng bị những bệnh
như huyết áp cao, tiểu đường, tai biến mạch
máu não ?
Một số bệnh nguy hiểm đến
tánh mạng:
Huyết áp cao: Huyết
áp là áp lực hay sức ép của máu vào thành động
mạch. Áp lực này
được tạo ra khi trái tim bóp, đảy máu vào
huyết quản. Tùy theo số lượng máu và sức cản
của động mạch mà áp suất cao hoặc thấp.
Huyết áp được diễn tả bằng hai con số:
Huyết áp Tâm thu (systolic) khi tim bóp lại
để đưa máu sang động mạch.
Huyết áp Tâm trương
(diastolic) khi tim thư giản giữa hai nhịp đập
và máu từ động mạch chạy vào các mao quản
để nuôi cơ thể.
Người ta thường nói sau khi đo có
huyết áp ví dụ là 125/85 có nghĩa
huyết áp Tâm thu 125 và huyết áp Tâm trương 85. Huyết
áp tính bằng mi-li-mét thủy ngân=125/85 mmHg.
Trung bình, tuổi từ 18 đến 50 có huyết
áp dưới 140/90. Buổi sáng khi mới ngủ dậy
huyết áp thấp, huyết áp cao dần từ sáng tới
chiều. Huyết áp cũng tạm thời nhích lên khi ta
có xúc động hay
vận động.
Trong cơ thể, huyết áp được
giữ ở mức bình quân nhờ hệ
thần kinh giao cảm và thận. Khi huyết áp xuống
thấp, hệ thần kinh giao cảm tiết ra chất
norepinephrine làm cho mạch máu co căng,
tăng lực cản nên nâng cao huyết áp. Thận tiết
ra chất Renin để điều hòa thăng bằng khối
lượng dung dịch chất lỏng
ở ngoài tế bào.
Cao huyết áp là rủi ro lớn đüa
tới tai biến động mạch não, đồng thời
cũng là yếu tố gây bệnh trầm
trọng của cơn suy tim, bại thận. Cao huyết
áp là bệnh kéo dài suốt đời, nên phải dùng
thuốc liên tục để duy trì huyết áp ở mức
bình thường. Huyết áp chỉ chữa lành ở một
số trường hợp gây ra do một nguyên nhân rõ
ràng. Thí dụ huyết áp cao vì bệnh eo hẹp của mạch
máu ở thận hoặc do u bướu nang thượng
thận. Chỉ có 5% là do sự suy yếu, hư hao của
một cơ quan như Thận. Còn 95% trường hợp
khác đều không rõ nguyên nhân, nhưng một số
nguy cơ gây ra cao huyết áp được nêu ra như
sau:
a) Di truyền:
Thường xảy ra cho những người trong một
gia đình.
b) Chủng tộc: Theo thống kê, người Phi châu,
Á châu, Châu Mỹ La Tinh thường bị cao huyết áp
hơn các sắc dân khác.
c) Tuổi tác: Tuổi càng cao, nguy cơ cao huyết
áp càng nhiều, đàn ông bị cao huyết áp sớm hơn
đàn bà, nhưng từ 45 đến
50 tuổi, đàn bà cũng bị nhiều
như đàn ông.
d) Béo phì: Người béo phì dễ bị cao huyết
áp và các bệnh của động mạch vành.
e) Muối: Muối
ăn làm tăng huyết áp với người mẫn cảm
tiêu thụ nhiều muối.
Ngoài ra, một số nguy cơ khác cũng có
thể gây ra cao huyết áp như tiêu thụ nhiều rượu,
thuốc lá, stress, cam thảo (licorice). Cho nên dùng các thứ
này vừa phải để tránh rủi ro.
Tai biến mạch máu não: Tai biến mạch
máu não là chứng bệnh thông thường, đứng hàng
thứ ba về tử vong tại Hoa Kỳ, sau bịnh tim
và ung thư. Người Mỹ bị bệnh nầy với
tỷ lệ 20% chết, 24% lành bệnh hoàn toàn và 48% sống
sót nhưng tàn phế. Cơ sở của bệnh nầy
là một phần của óc bị thiếu máu, tế bào
óc nơi đó không
hoạt động được nữa và
bị hủy hoại. Có ba nguyên nhân chính:
Thiếu máu vì mạch não bị nghẽn, bởi
huyết khối (thrombotic Stroke 25%), bởi huyết tắc
do cục máu hay bọt hơi (embolic stroke 30%), và bởi
nguyên nhân khác 25%.
- Xuất huyết nội não (intracerebral
hemorrhage 15%) thường xảy ra ở người bị
huyết áp cao hay bệnh nhân phải dùng thuốc chống
đông máu.
- Xuất huyết dưới màn nhện
(subarachnoid hemorrhage 7%)
- Triệu chứng của tai biến mạch máu não ít hay
nhiều tùy theo vùng não và mức độ thiếu máu:
- Ðột nhiên bị liệt nữa người hay chỉ
liệt ở mặt, ở chân hoặc tay.
- Tay chân loạng quạng
(ataxia), đầu óc xây xẫm.
- Ngẩn ngơ (disorientation), lẫn lộn (confusion), lừ
đừ (drowsiness), mất trí nhớ (amnesia).
- Thị lực
giảm.
- Tê hay loạn cảm (dysesthesia) ở tay chân hay 1 nửa
người.
- Nói ngọng hay á khẩu.
- Hôn mê.
- Chết.
Nếu động mạch não
không bị tắc hoàn toàn, thì những triệu chứng
trên chỉ xảy ra trong một thời gian ngắn rồi
hết ngay, lâu vài giờ hay vài ngày, và được gọi
là cơn thiếu máu cục bộ tạm thời (TIA:
Transient Ischemic Attack). Hội chứng nhẹ này báo động
cho một tai biến nặng nề hơn trong những ngày
sắp tới.
Bệnh Tiểu đường: Trong
cơ thể con người và một số loài vật
có một số tế bào đặc biệt gọi là
Islets of Langerhans có nhiệm vụ tiết ra một chất
hormone có tên là Insulin để "đốt"
chất đường do những thực phẩm từ bên
ngoài đưa vào. Tất cả những loại thực
phẩm như chất đạm,
chất béo, tinh bột đều được lá gan biến
thành đường qua cơ chế gluconeogenesis để
dùng làm nhiên liệu cho cơ thể.
Chất đường luôn luôn ở trong máu ở mức
cố định là 100mg/100ml và trong
cơ thể có một cơ chế quân bình giữ cho mức
độ này không thay đổi vì nếu quá cao thì gây
ra nhiễm độc và quá thấp tức hypoglycemia, thì sẽ
làm cho ngất xỉu.
Chất insulin giữ vai trò chính
trong việc giữ cho mức độ đường
ở trong máu đừng lên cao. Sau khi ăn thì số
đường trong máu sẽ lên cao
và các tế bào Langerhans ở trong tạng tụy sẽ
được báo
động rồi tự tiết ra insulin để làm hạ
đường xuống, khiến tạo nên một hệ
thống tự động quân bình rất
chính xác gọi là feedback. Số lượng insulin tiết
ra sẽ lên cao hay thấp tùy theo mức độ
đường, và do các tế bào
Langerhans tự điều chỉnh lấy.
Bệnh tiểu đường sẽ xảy
ra khi các tế bào Langerhans bị tiêu
hủy vì một lý do nào đó, khiến cho cơ thể
không còn insulin nữa, nên lượng đường trong
máu sẽ lên cao do không được insulin "đốt"
nữa. Bệnh nhân sẽ chết vì bị nhiểm chất
độc của
đường... nếu không được chích insulin từ
bên ngoài vào cơ thể.
Ở một số người khác, cơ thể
trở nên đề kháng với insulin nên mặc dù không
thiếu insulin, nhưng vì không còn công hiệu nữa cũng
sẽ gặp hiện tượng đường lên cao
trong máu. Sau một thời gian thì các tế bào Langerhans cũng
sẽ bị mệt mõi, burn out, rồi không còn tiết ra
insulin nữa, khiến cho đường lên cao và cần
phải có insulin từ bên ngoài đưa vào cơ thể.
Nói tóm lại bệnh này thường do chứng
mập phì vì thiếu hoạt động thể chất và
ăn quá nhiều chất
đường, điều hòa đường trong máu là
trách nhiệm của chất nội tuyến insulin do tụy
tạng sản xuất. Insulin đưa đường từ
huyết tương vào các tế bào
để chuyển hóa
ra năng lượng. Ðồng thời
insulin cũng giúp gan chuyển glucose quá cao thành chất béo
dự trữ trong các tế bào mỡ. Khi vì một lý do
nào đó, insulin không làm được công việc chuyển
hóa này thì đường glucose trong máu sẽ lên cao nên
thận phải thải bớt ra ngoài. Do đó có tên là bệnh
tiểu đường.
Bệnh gia tăng với tuổi cao, nhất
là từ sau 55 tuổi. Người Á châu ít bị tiểu
đường hơn là người
da trắng, nữ bị nhiều hơn nam giới.
Các triệu chứng chính của tiểu
đường là khát nước rất
nhiều, tiểu tiện liên tục hơn thường lệ,
ăn nhiều mà vẫn sút cân.
Không kiểm soát, điều hòa, đường
cao trong máu đưa tới các biến chứng trầm trọng
cho nhiều cơ quan khác như mất thị giác, suy thận,
bệnh tim mạch với cao huyết áp, cao cholesterol, vữa
sơ động mạch, rối loạn
cảm giác thần kinh, liệt cường dương và
dễ bị nhiễm trùng.
Ở Mỹ, bệnh tiểu đường
là nguyên nhân tử vong đứng hàng
thứ tư do bệnh tật gây ra.
Người xưa nói rằng : "Bệnh
tùng khẩu nhập, họa tùng khẩu xuất", do
ăn uống mà chúng ta đem bệnh vào người,
chúng ta đã biết qua một vài bệnh
hiểm nghèo, nên cần biết về những chất
dinh dưỡng do thức ăn tạo ra như là chất
béo, chất carbohydrates, chất xơ và chất đạm,
nhờ đó chúng ta có thể chọn thức ăn uống
tránh được bệnh hoạn.
Vài điểm
căn bản về chất béo và
Lipid: Khi nói đến
"Chất béo", người ta thường nghĩ
ngay đến những chất dầu, mỡ gây nguy hại
cho sức khỏe nên thường đánh giá là
"xấu", tuy nhiên không phải chất béo nào cũng
xấu, mà trái lại có những "chất béo tốt"
rất cần thiết cho cơ thể.
Chất béo
(Fat) thường được dùng để chỉ cho
những chất lấy từ thú vật hay thực vật,
gọi dưới những tên khác
nhau như Lard, Tallow, Suet ... Ðây là nguồn cung cấp cô
độc nhất, từ
thực phẩm, những năng lượng cần cho hoạt
động của cơ thể. Chất béo tính theo trọng
lượng, cung cấp số năng lượng cao gấp
đôi protein và chất bột. Danh từ Chất béo sau
đó được thay thế bằng Lipid, mang ý nghĩa
rộng hơn, bao gồm những chất có cơ cấu
hóa học gồm Carbon, Hydrogen và Oxygen, có chung một số
đặc điểm như không
tan trong nước, tan trong các dung môi hữu cơ hay vô cực
(nonpolar) như hexan, benzen, chloroform và ether.
Các chất béo giữ một số nhiệm
vụ tối quan trọng trong cơ thể như vận
chuyển các Vitamin tan trong dầu (A, D, E và K) và là thành
phần chính của màng tế bào. Chất béo bảo vệ
và trợ giúp các cơ quan trọng yếu như thận,
tim và gan, đồng
thời một lớp chất béo giúp cơ thể chống
lạnh, giữ nhiệt lượng ở mức ổn
định. Chất béo ở lại trong đường
tiêu hóa lâu hơn là chất đạm
và chất bột, do đó
tạo cho cơ thể cảm giác "no đủ", chất
béo cũng còn tác dụng như một
chất làm trơn ruột và bảo vệ sợi thần
kinh.
Khi cơ thể thiếu những "chất
béo tốt" nhiều bệnh suy thoái có thể xảy
ra như bệnh tim mạch, ung thư và tai biến mạch
máu não.
Những acid béo chuyển hóa từ sự thủy
giải các lipids phức
tạp hay lipid đơn giản được phân loại
thành:
Acid béo no hay bão hòa (saturated= không chứa những
nối đôi giữa
các đơn vị Carbon)
Acid béo không no hay chưa bão hòa (unsaturated =
còn có một hay nhiều nối đôi
giữa các đơn vị Carbon).
Sự phân loại này dựa trên số lượng
các nguyên tử Hydrogen trong cấu trúc hóa học của chất
béo.
Acid béo no thường có nguồn gốc từ
thú vật và ở dạng cứng, đặc
khi ở nhiệt độ bình thường
(như mỡ heo, mỡ bò). Một số dầu thực vật
nhiệt đới như dầu dừa, dầu cọ
cũng chứa nhiều acid
béo no. Gan sử dụng acid béo no để tạo ra
Cholesterol: do đó càng ăn nhiều acid béo no, thì
gan càng sản xuất nhiều cholesterol.
Các acid béo không no (chưa bão hòa) ở dạng
lỏng khi ở nhiệt độ bình thường,
thường có nguồn gốc thực vật (lấy từ
các hạt bắp,
đậu nành, hướng dương), lại được
chia thành hai nhóm phụ:
Monounsaturated: Chỉ có một nối đôi
giữa Carbon = Carbon.
Polyunsaturated (PUFA): Có 2 hay nhiều hơn những
gạch nối đôi C = C, đôi khi những acid béo có chứa
3 nối đôi C=C hay nhiều hơn nữa được
gọi là Highly unsaturated Fatty Acids hay
HUFA.
Các chất béo no hay chất béo chưa no
đơn thể hoặc đa thể còn được gọi
tên là Triglycerides.
Một số acid béo giữ vai trò tối
quan trọng cho sức khỏe, và có thể không thể tự
chế tạo được nên được gọi là
những chất béo
căn bản (Essential fatty acids = EFA). Các hợp chất béo
này tác động như Vitamin hay protein, nên từng
được đặt tên là
Vitamin F.
Chất béo căn bản rất quan trọng
vì: Chúng giúp cho sự tăng trưởng, nhất là
cho các mạch máu và sợi thần kinh, giúp giữ cho da
và các mô tế bào tươi trẻ, cũng là thành phần
quan trọng của màng tế bào.
Cholesterol: Là một chất mềm, mầu
trắng, giống như chất mỡ đông,
được tìm thấy trong tất
cả các mô tế bào cơ thể và trong các mạch máu.
Cũng như chất béo, cholesterol rất cần thiết
giúp hình thành và bảo trì các mô tế bào, giúp sản xuất
các kích thích tố (hormones), muối mật [bile salt] và các
chất cần thiết khác của cơ thể.
Phần lớn cholesterol, khoảng 1000 mg hàng
ngày, là do gan sản xuất ra bằng cách kích thích chất
béo bão hòa (saturated fats). Việc gan kích thích chất béo
bão hòa để sản
xuất ra cholesterol giúp ta thấy được một
điều là khi chúng ta dùng một
loại thực phẩm tuy không có cholesterol nhưng lại
chứa quá nhiều chất béo bão hòa thì cơ thể con
người cũng có cơ làm gia
tăng lượng cholesterol, như khi chúng ta dùng dầu dừa
hay nước cốt dừa để nấu ăn chẳng
hạn.
Một phần cholesterol khác, khoảng từ
400 đến 500 mg là do chúng ta ăn trực tiếp các thực
phẩm có nguồn gốc thịt động vật
như là thịt, cá, tôm, cua, sò
ốc, trứng, bơ, sữa. v..v... Nên nhớ là các thực
phẩm có nguồn gốc thực vật không có
cholesterol.
Cơ thể chúng ta tự sản xuất
đủ lượng cholesterol cần thiết hàng
ngày, vì thế chúng ta phải ngăn ngừa không cho lượng
cholesterol lên cao qua việc điều hòa chế độ
ăn uống (diet).
Cholesterol và triglycerides không thể hòa tan trong
máu và vì thế nó được
chuyển vận đến các mô tế bào
cơ thể bằng phương tiện chuyên chở
đặc biệt gọi là lipoproteins. Lipoprotein được
sản xuất bởi gan và được phân chia làm ba
loại:
Loại thứ
nhất có tỷ trọng thật thấp VLDL (Very Low Density
Lipoprotein), đặc trách chuyên chở chất béo
triglycerides đến các mô tế bào để tạo nãng
lượng hoạt động cho cơ thể hay dự
trữ.
Loại thứ nhì là loại có tỷ trọng
thấp LDL (Low Density Lipoprotein), chuyên chở
phần lớn, từ 60 đến 80 phần trăm
cholesterol đến các mô tế bào trong chức năng thiết
lập và bảo trì, một số trở
về gan. Nếu nhiều hơn số lượng cần
thiết, LDL cholesterol này sẽ từ từ bám và tích tụ
vào xung quanh bờ thành các mạch máu, làm cho lòng mạch
máu nhỏ hẹp dần, khiến lưu lượng máu dẫn
đến tim bị chậm lại hay ngừng hẳn. Khi
máu đến tim thiếu thì bắp thịt tim yếu
đi, xảy ra hiện tượng đau thắt. Nếu
mạch máu bị tắc nghẽn thì
xảy ra chứng bệnh nhồi máu cơ tim (heart attack).
Nếu mạch máu trong não bộ bị tắc nghẽn
thì xảy ra tai biến mạch máu não (stroke). Vì thế người
ta thường gọi LDL là loại cholesterol xấu.
Loại thứ ba là loại có tỷ trọng
cao HDL (High Density Lipoprotein), được gọi là
cholesterol tốt vì nó có tác dụng lôi cuốn các
cholesterol xấu LDL khỏi bờ thành các mạch máu và
chuyên chở chúng về gan để tái thẩm thấu
hoặc thải hồi ra ngoài.
Tổng lượng cholesterol, HDL-cholesterol,
LDL-cholesterol và triglycerides trong máu được
đo lường để thẩm định mức
độ nguy hiểm báo trước có thể xảy ra
chứng bệnh nhồi máu cơ tim
hay tai biến mạch máu não. Như vậy lượng
cholesterol và triglycerides bao nhiêu gọi là cao? Theo Viện Quốc
Gia Tim Phổi Mạch Hoa Kỳ và Chương Trình Quốc
Gia Giáo Dục Cholesterol thì lượng cholesterol và
triglycerides được khuyến cáo như sau:
TOTAL CHOLESTEROL |
TìNH TRạNG |
Dưới 200 mg/dl |
Bình thường |
Từ 200 đến 239 mg/dl |
Ranh giới cao |
Từ 240 hay cao hơn |
Cao |
HDL CHOLESTEROL (LọAI TốT) |
|
Từ 35 mg/dl trở lên |
Bình thường |
Dưới 35 mg/dl |
Không tốt |
LDL CHOLESTEROL (LOạI XấU) |
|
Dưới 130 mg/dl |
Bình thường |
Từ 130 đến 159 mg/dl |
Ranh giới cao |
Từ 160 mg/dl trở lên |
Cao |
TRIGLYCERIDES |
|
Dưới 200 mg/dl |
Bình thường |
Từ 200 đến 399 mg/dl |
Ranh giới cao |
Từ 400 đến 999 mg/dl |
Cao |
Từ 1000 mg/dl trở lên |
Rất cao |
Total Cholesterol/HDL Cholesterol |
Bằng hay nhỏ hơn 5/1 là tốt |
Trước đây, các nhà khoa học chỉ
lưu tâm đến lượng cholesterol trong máu để
thẩm định mức độ nguy hiểm có thể
xảy ra chứng bệnh đau tim và
tai biến mạch máu não. Ngày nay họ đã nghiên cứu
và khám phá ra rằng hàm lượng triglycerides trong máu
cao cũng là dấu hiệu báo trước về bệnh
tim mạch có thể xảy ra.
Trong một nghiên cứu khoa học, Bác sĩ
Michael Miller, giám đốc cơ quan phòng ngừa bệnh
tim mạch tại University of Maryland Medical Center ở
Baltimore, đã
khảo cứu tình trạng chất béo triglycerides của
460 người nam và nữ ở lứa tuổi từ 30
đến 80 trong nãm 1977 và 1978, và 199 bệnh nhân khác có
kinh nghiêm về bệnh tim mạch trong suốt 18 năm
sau đó, đã thấy rằng cả
hai phái nam và nữ có hàm lượng triglycerides trên 190
mg trong mỗi deciliter máu dễ bị bệnh tim gấp hai
lần những người có lượng thấp hơn.
Nghiên cứu này cho rằng hàm lượng
triglycerides có tình trạng bình thường như trình bầy
ở bảng nêu trên được xem là quá cao, không phù
hợp với những khám phá mới. Hàm lượng bình
thường chất béo triglycerides có trong máu được
đề nghị là từ 35 đến 160 mg/dl.
Một nghiên cứu khác được
thực hiện bởi Bác sĩ Robert Rosenson, giám đốc
Preventive Cardiology Center at Rush Medical
College ở Chicago cũng xác nhận
kết quả trên và cho biết thêm triglycerides
ở mức lượng 190 mg/dl bắt đầu làm máu
lưu chuyển chậm, cơ tim phải hoạt động
nặng nhọc hơn.
Thay đổi chế độ ăn uống
bằng cách giảm bớt các thực phẩm có chứa
chất béo, có thể làm giảm cholesterol, nhưng không
được nhiều. Chỉ có chế độ ăn
chay thuần rau đậu ngũ cốc trái cây, không ãn
thịt cá, tôm cua sò hến và trứng bơ sữa (vegan)
là hữu hiệu nhất. Cholesterol trung bình của những
người này là 150 mg/dl. Chỉ riêng chất xơ (fiber)
cũng có khả nãng hữu hiệu làm giảm cholesterol.
Vitamin C, E và Beta caroten có nhiều trong rau quả nhất là
đậu nành, cà rốt, khoai lang, broccoli và cam có tác dụng
gia tăng hàm lượng HDL-cholesterol, làm cho máu lưu chuyển
dễ dàng và loại trừ các cặn độc trong máu.
Lớp nhầy bao mọc xung quanh hột cà chua có tác dụng
chống các tiểu huyết cầu đóng
cục trong máu, ngăn ngừa bệnh tim mạch.
Tỏi (garlic) không những có tác dụng
làm giảm tổng lượng cholesterol mà còn có tác dụng
hữu hiệu gia tăng hàm lượng HDL-cholesterol. Những
nghiên cứu mới đây
của trường đại học y khoa New
York Medical College ở Valhalla cho biết,
tỏi có khả nãng làm giảm từ 10 đến
29 phần trăm tổng lượng cholesterol, giảm 7,5
phần trăm LDL-cholesterol, giảm 20% triglycerides và gia tăng
31 phần trăm HDL-cholesterol.
Những người
ăn chay thuần túy, làm việc văn phòng
mà không thường xuyên tập thể dục, thường
có lượng chất béo triglycerides cao hơn bình thường
(trên 190, có người cao tới gần 400). Ðiều này
cũng dễ hiểu vì lượng triglycerides có liên hệ
mật thiết với sự thặng dư ca lo ri, bởi
vì số ca lo ri không dược tiêu dùng hết sẽ
được cơ
thể chuyển đổi thành triglycerides. Chất
carbohydrate (chất đường) đóng một vai trò
không nhỏ trong việc gia tăng lượng trigycerides.
Hàm lượng chất béo triglycerides cao trong
máu cũng có độ
nguy hiểm về bệnh tim mạch như là
cholesterol. Vì thế, dù là ăn chay, nếu muốn duy trì
sức khỏe tốt, thì ngoài việc ăn
ít đường và dầu,
cần phải tập thể dục thường xuyên
như là đi bộ nhanh hay tập aerobic ít nhất là năm
ngày một tuần và mỗi lần khoảng 40 phút. Tập
thể dục thường xuyên có tác dụng làm giảm
chất béo triglycerides, đồng
thời lại có thể tăng thêm
cholesterol tốt HDL và giảm cholesterol xấu LDL.
Carbohydrates: Là một chất dinh dưỡng
có nhiệm vụ cung cấp năng
lượng cho các hoạt động của cơ thể
con người. Nó được phân chia thành
hai loại:
Simple Carbohydrates là chất ngọt được
lấy từ mật mía, mật ong, mật maple và củ dền
đỏ.
Complex Carbohydrates là chất ngọt từ tinh
bột (starches), nó có trong gạo, mì, mạch, khoai, đậu
và trong các rau trái.
Cả hai loại carbohydrates này được
cơ thể biến đổi thành chất đường
glucose và được chuyển vận theo mạch máu
đến các tế bào làm thành năng
lượng hoạt động. Chất Glucose thặng
dư sẽ được chuyển đổi thành
chất glycogen dự trữ trong các tế bào bắp thịt
và trong gan, hoặc là được
biến đổi thành chất béo triglycerides dự trữ
dưới dạng mỡ. Sức chứa glycogen trong cơ
thể chỉ độ 1/4 pound, còn
phần lớn là chất béo triglycerides.
Thông thường simple carbohydrates cung cấp
nhiều ca lo ri và ít chất bổ dưỡng (nutrients),
ngược lại complex carbohydrates lại cung cấp nhiều
chất bổ dưỡng, như là chất sinh tố, chất
khoáng, chất đạm và ít chất béo. Quả thực
là như vậy, nhiều loại trái cây chứa chất
đường, nhưng cũng chứa nhiều vitamin, chất
khoáng và chất xơ.
Carbohydrates
được xem là nguồn cung cấp năng lượng
chính cho cơ thể con người, nhưng khi cơ thể
thiếu nó - thường xảy ra sau 20 phút đầu tiên
tập thể dục aerobic - năng lượng được
cung cấp bởi chất béo triglycerides dự trữ.
đây là lý do tại sao những người
thặng dư chất béo trigycerides phải tập thể
dục thường xuyên.
Chất Xơ (FIBER)
Chất xơ là một chất lấy từ
nguồn gốc thực vật, không có trong thịt động
vật. Nó có nhiệm vụ giúp thực phẩm di chuyển
dễ dàng trong hệ thống tiêu hóa và làm giảm lượng
cholesterol trong máu.
Ăn ít chất xơ thường gây nên
bệnh táo bón, bệnh về sự tiêu hóa và các rối
loạn khác. Chất xơ được tìm thấy nhiều
nhất trong các loại hạt gạo, mì, mạch chưa
đãi vỏ. ăn
gạo lức chữa được bệnh táo bón một
cách thần diệu.
Chất xơ được phân làm
hai loại, solube fiber và insolube fiber. Solube fiber, có nhiều
trong cám rice bran và oat bran, có khả năng làm giảm
cholesterol; còn insolube fiber, có nhiều trong cám wheat bran, không
giúp mấy trong việc giảm cholesterol nhưng giúp cho nhuận
trường.
Chất Ðạm (PROTEIN)
Chất đạm được thẩm thấu
vào máu dưới dạng thể
amino acids, dùng để xây dựng và sửa chữa các
mô tế bào hư hỏng. Nó cũng là nguồn cung cấp
năng lượng.
Chất đạm được tạo thành
từ những đơn vị nhỏ nhất gọi là
amino acid. Hợp chất đơn giản của amino acid
gồm có: carbon, hydrogen, oxygen, nitrogen và đôi khi có sulphur.
Có khoảng 20 amino acid thông thường tìm thấy trong
động và thực vật. Không giống như chất
đạm của
động vật, chất đạm của thực vật
có thể không chứa đủ yếu tính cần thiết
của amino acid. Chất đạm từ dộng hay thực
vật được phân hủy để tạo thành
amino acid trong quá trình tiêu hóa rồi nó được thẩm
thấu và dùng để làm ra chất đạm mới
trong cơ thể.
Trong người chúng ta, trừ nước
ra 75 % trọng lượng cơ thể còn lại là chất
đạm, nó là bắp thịt, xương, da, tóc ...
Hàng ngày, người lớn cần tối thiểu 1 gram
chất đạm cho 1 kilogram thể trọng, và chất
đạm không như
chất béo hay đường được dự trử
trong cơ thể, do đó amino acid cần được
cung cấp hàng ngày để làm ra chất
đạm mới.
Thiếu chất đạm gây ra suy
dinh dưỡng, chậm lớn, teo cơ, giảm tính miễn
nhiễm, hệ thống tim mạch và hô hấp yếu
kém, tử vong.
Còn nếu nhận quá nhiều chất đạm,
hệ tiêu hóa sẽ cho ra acid và thân thể thường
trung hòa với chất vôi, cho nên ăn
nhiều quá chất đạm, cơ thể sẽ mất
nhiều chất vôi có thể bị
lấy ra từ xương, cho nên dễ bị gãy xương.
Người ăn chay nên ăn tàu
hủ, cơm, bánh mì, đậu
phộng, uống sữa đậu nành để có đủ
chất đạm.
Rất nhiều người nghĩ rằng
chúng ta phải ăn nhiều thịt cá để có nhiều
chất protein. đây là một điều lầm lẫn
vì những nghiên cứu y khoa gần đây
nhất cho biết ăn nhiều protein thịt động
vật (animal-protein) sẽ làm tổn thương đến
gan thận và là nguyên nhân dẫn
đến bệnh xốp xương (osteoporosis) và ung thư.
Ủy Ban Y Sĩ Trách Nhiệm Y Khoa Hoa Kỳ
đã yêu cầu người dân
Hoa Kỳ phải thay đổi chính sách ăn uống bằng
cách "không cholesterol, ít chất
béo, nhiều chất xơ và thay thế chất đạm
thịt động vật bằng chất đạm thực
vật".
Ăn chay do lòng nhân đạo:
Nhiều người thấy súc vật bị nuôi thúc ép
để bán thịt, như gà để đẻ trứng,
nhiều người thấy thú vật bị hành hạ
trước khi làm thịt, họ không nở ăn thịt,
trứng, giảm người tiêu thụ sẽ giảm
được lượng súc vật bị giết hại,
cũng như gà bị nuôi trong những chuồng tù túng.
Mỗi ngày hàng triệu con gà, vịt, heo, bò bị giết
để cung cấp thịt cho người tiêu dùng.
Trong sách Thức ăn Tương Lai Viện
sĩ Thông tấn hàn Lâm Viện Liên
Xô A. N. NEXMÊIANÔP và V.M. BÊLICÔP viết: Ăn
thịt, chúng ta buộc phải giết hàng
triệu bò, cừu, lợn, ngỗng, vịt, gà, tạo ra
hàng nghìn, hàng nghìn người lạnh lùng trước
sự đổ máu, ......Và điều đó rất không
phù hợp với sự giáo dục
tình yêu thiên nhiên, lòng tốt, lòng nhân ái. "
Ðến lễ Giáng Sinh hàng năm, theo truyền
thống người Mỹ tiêu thụ hàng triệu con gà
tây, trong dịp này tại Nhà Trắng, Thủ Ðô nước
Mỹ một chú gà tây
được phóng sinh, tánh cách tượng trưng đầy
lòng nhân đạo của con người.
Nên ăn chay như thế nào?
Ăn chay tự nó không phải là
thiếu chất dinh dưỡng, thiếu hay không ấy
là do người ăn
chay có quan tâm nấu nướng, có đủ điều
kiện cung cấp thực phẩm cho bửa ăn hay không,
Thiếu hay dư đều mang lại bệnh tật.
Trường hợp người lớn tuổi ít hoạt
động, dù ăn chay hay ăn mặn cũng đều
phải tập thể dục, tránh tăng trọng cơ
thể, tránh ăn muối và thức ăn nhiều dầu
mỡ.
Thử nhìn lại một bửa ăn
của gia đình người Việt
Nam ta, một bửa
ăn bình thường và phổ biến
gồm có ba món: Canh, món xào và một món kho. Vào bửa cơm
chiều, các Cụ ta ngày xưa uống một chun nhỏ
rượu với quan niệm là để
cho máu huyết được điều hòa. Người
Âu Châu trong bửa ăn chiều, thường uống một
ít rượu chát, nên theo thống
kê cho biết người Âu Châu ít bị bệnh tim mạch.
Ăn chay thì không được
uống rượu, nhưng mỗi bửa ăn cần có
ít nhất là ba món như trên, đừng
ăn kham khổ quá.
Ðức Phật tịch năm
80 tuổi, 2500 năm trước thế là
quá thọ. Trừ ba tháng "An cư kiết hạ",
hàng ngày Phật cũng như chư Tăng
đều đi khất thực, khất thực chắc
cũng phải đi 2, 3 cây số, và
hàng ngày sau khi thọ trai đều
phải đi kinh hành. Như vậy chúng ta thấy thời
đức Phật, Phật cũng như chư Tăng
đều hoạt động.
Chúng ta thấy nhiều người tu ít hoạt
động, do đó dễ bị béo phì dẫn tới những
bệnh về tim mạch như cao huyết áp, cholesterol, tiểu
đường, tai biến mạch máu não,
nhồi máu cơ tim. Ðể đề phòng bệnh tật,
ngoài việc tu tập công phu hàng ngày, người tu cần
phải hoạt động bằng phương pháp thể
dục đi bộ,
tập thể dục dưỡng sinh, lạy Sám hối.
Chúng ta biết rằng hầu hết các chứng
bệnh cao huyết áp, cholesterol, tiểu đường Bác
sĩ cũng như các cơ quan y tế đều khuyên
chúng ta nên đi bộ thường xuyên một tuần 5
ngày, mỗi ngày ít nhất 40 phút.
Tìm hiểu về nguồn gốc môn phái võ
Thiếu Lâm, chúng tôi thấy có bài viết của Võ sư
Nguyễn Tiến Hóa đăng
trên Trang nhà Thiếu Lâm Võ Thuật
như sau:
... Ta hãy quay ngược dòng thời gian trở
về thời đức Ðạt Ma Sư Tổ, tổ
sư của môn phái Trúc Lâm. Ðức Ðạt Ma Sư Tổ,
nguyên là một Ðại Ðức Phật Giáo, người
Ấn Ðộ. Ngài vân du qua Trung Hoa cốt để thuyết
giảng Phật Pháp. Ngài đã chọn ngọn Thiếu
Thất trong dãi Tung Sơn để tu trì và thu nhận
đệ tử,
truyền dạy đạo pháp. Vì
ngôi chùa nằm sâu trong rừng núi, các đệ tử của
Ngài trong lúc nhập
định thì hay bị sơn lâm chướng
khí làm cho bị bệnh tật thường xuyên. Và thời
đó không có thuốc thang như ngày nay. Ngài bèn bắt
các đệ tử ngoài việc học Phật Pháp. Còn tập
các môn Công, Khí các đệ tử của Ngài không còn bệnh
tật như xưa, và việc học Phật Pháp còn tăng
tiến hơn trước rất nhiều.
Một điểm khác nữa xảy ra. Vào
cái thời xa xưa, việc di chuyển trong vào đôi
chân và nhanh hơn cưởi ngựa. Rồi còn phải băng
rừng lội suối v.v... Và việc đi
thuyết giảng đạo pháp rất là
gay go ... trên đường
đi thuyết giảng còn bị cảnh
cướp cạn, cảnh tham ô quan lại hống hách
hoành hành. Ngoài những điều do nhân sự tạo
nên, dọc đường còn có các loài dã thú tấn
công các nhà sư để
ăn thịt. Ðể cho việc giảng dạy có kết
quả tốt, đức Ðạt ma Sư
Tổ còn nghiên cứu và truyền
dạy cho các đệ tử của Ngài
các kỹ thuật tấn công hay tránh né tài tình. Ðó là
võ thuật Thiếu Lâm. Dùng võ để bảo vệ và
hoằng dương Ðạo pháp...
Võ Thiếu Lâm phát xuất từ Thiếu
Lâm Tự là một ngôi chùa nổi danh nằm ở chân
núi phía Bắc núi Thiếu Thất thuộc dãi Tung Sơn,
ở phía Bắc huyện Ðăng Phong, tỉnh Hà nam Trung
Quốc. Chùa này do Hiếu Văn Ðế nhà Hậu Ngụy
xây dựng cho thiền sư Phật Ðà ở tu, Ðầu
thế kỷ thứ 6, Bồ Ðề Lưu Chi có dừng
chân tại đây và phiên dịch rất nhiều sách. Ðến
năm 520, Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma đến
Trung Quốc, sau khi được Lương Võ
Ðế rước về Kim Lăng
để vấn đạo, không toại ý nên nửa
đêm Tổ sang sông qua Giang Nam nhập nước Ngụy
đến Lạc Dương, rồi đến Thiếu Lâm
Tự, Tổ tọa thiền xoay mặt vào tường
trong 9 năm, sau mới nhận Thần Quang làm đệ tử
truyền trao giáo pháp.
Còn về võ nghệ Thiếu lâm theo Bạch
túy tỏa ngôn: "Chùa Thiếu Lâm khi có loạn
Hoàng Cân, tăng
chúng sợ hải muốn tan. Bỗng có vị tăng già
vốn làm đầu bếp từ trong bếp chạy ra nói:
Các vị chớ lo! Lão tăng chỉ một gậy là xua
chúng chạy hết. Mọi
người đều cười và
cho là nói khoác. Vị tăng
đó múa gậy ba thước xông thẳng vào đội
ngũ giặc Hoàng Cân, tên nào gặp
phải cũng đều chạy giạt, cuối cùng giặc
tan. Tăng về truyền
lại pháp đó cho chúng tăng rồi ẩn mất. Thì
ra đó chính là Khẩn-na-la Phật
hiển hóa ra. Do
đó Thiếu Lâm nổi tiếng về võ
nghệ"
Dựa vào tài liệu này,
nhiều người viết sách
cho rằng môn võ Thiếu Lâm phát xuất từ Thiếu
Lâm Tự, các nhà sư có võ để bảo vệ chùa,
tránh khỏi bị bọn "sơn lâm thảo khấu"
phá phách chùa chiền, điều này có thật thích
hợp với thiền môn không ? Xin đọc bài sau đây
để có cái nhìn của Thiền
tông:
44. Kẻ Cướp Trở Thành Môn Ðồ
Vào một đêm trong khi Shichiri Kojun đang tụng
kinh thì một tên cướp xông vào với lưởi
dao bén đòi tiền hoặc giết ngài.
Shichiri bảo: "Xin đừng náo động.
Ông có thể lấy tiền trong ngăn kéo kia." và
tiếp tục tụng kinh.
Giây lát sau, ngài kêu lên: "Xin đừng
lấy hết tất cả. Ta cần một ít để
đóng thuế ngày mai."
Kẽ đạo chích gom góp gần hết
và sắp sửa chuồn. "Hãy biết
cám ơn thí chủ chứ," Shichiri nói thêm. Tên cướp
nói lời cám ơn và biến mất.
Vài ngày sau tên cướp bị bắt và
thú tất cả mọi tội, trong đó có chuyện
liên quan đến
Shichiri. Khi Shichiri được vời đến để
đối chứng, ngài bảo:
"Ông này không phải là kẽ cướp, ít ra là phần
có liên quan đến bần tăng.
Bần tăng biếu ông ấy một ít tiền và
ông ta có tỏ lời cám ơn."
Sau thời gian ngồi tù, người đàn
ông kia tìm đến Shichiri và trở thành để tử
của ngài.
(Những Mẫu Chuyện Thiền)
Bài của Võ sư Nguyễn Tiến Hóa hé
cho chúng ta nhìn thấy, sự tập luyện võ nghệ
nguyên lai do những thiền sinh bị bệnh tật. Còn
chuyện rút từ Bạch túy tỏa ngôn, lão tăng sau
khi dẹp giặc, dạy võ thuật rồi biến mất,
một nhân vật được
hư cấu để giải tích nguồn gốc phát
sinh võ Thiếu Lâm mà thôi.
Chư tăng Nam Tông có truyền thống khất
thực, vậy mỗi ngày đều
phải hoạt động, còn Bắc
Tông như Thiền Tông chúng ta thấy rõ là ngoài công phu ngồi
thiền còn phải tập luyện võ công, phần
này bị thất truyền, nay có thiền hành
tưởng cũng hỗ trợ được cho tọa
thiền để tránh được các bệnh tim mạch
nguy hiểm tánh mạng con người.
Những vị tu theo Tịnh hay Giáo, pháp môn
mà chư Tổ đặt ra là "Lạy Sám Hối",
pháp môn thiết thực, hữu ích để giữ gìn sức
khỏe chống bệnh tim mạch hiểm nghèo.
Như Tuệ Trung Thượng Sĩ đã
nói với Hoàng hậu Thiện Cảm là em gái của ông,
nhân một hôm ông được hoàng
hậu mời vào cung ăn tiệc. Trên bàn có những
món ăn chay và mặn, ông gắp thức ăn một cách
tự nhiên không phân biệt, hoàng hậu hỏi: "-
Anh tu thiền mà ăn thịt cá làm sao thành Phật
được? " Ông
cười đáp: "- Phật
là Phật, anh là anh; anh không cần thành Phật, Phật
không cần thành anh. Em chẳng nghe cổ đức
nói: Văn Thù là Văn Thù, giải
thoát là giải thoát đó sao ?"
Vì có nhiều người ăn chay, nên trong
các cửa hàng thực phẩm Mỹ (Grocery) đều
có bán những thức ăn chay chế biến từ
đậu nành, nhất là công ty thực
phẩm Morningstar Farms chế biến nhiều thứ thức
ăn chay, nhiều hãng thực phẩm khác có Pizza chay, Súp
chay... Ði máy bay trên những tuyến đường
xa, có phục vụ bửa ăn, muốn có bửa ăn
chay cần phải yêu cầu khi mua
vé máy bay. Cho nên ngày nay ăn chay rất dễ dàng, đầy
đủ chỉ có điều là tốn kém hơn ăn
mặn.
Người tu theo đạo Phật, tưởng
không nên viện dẫn Phật ăn mặn hay ăn chay
để chúng ta ăn chay hay ăn mặn vì
"Phật là Phật" như lời của Tuệ
Trung Thượng Sĩ. Nhưng theo khuynh hướng ngày
nay trên thế giới, người ta ăn chay vì sức
khỏe vì lòng nhân từ, đức Ðạt Lai Lạt Ma
thứ 14, trước kia ăn mặn, nay Ngài cũng
ăn chay.
Theo sách
Thức Ăn Tương Lai của hai tác giả đã
trích dẫn, xuất bản tại Liên Xô năm
1985, có đoạn tác giả trình bày:
Thịt bê không cần bê, thịt cừu
không cần cừu! Bất cứ một prôtêin thực vật
nào cũng có thể chuyển thành sản phẩm rất
giống với thịt. Về thành phần thì prôtêin của
đậu nành gần gũi với thịt hơn cả,
nên người ta thường lấy nó làm cơ sở.
Đồng thời người ta thu thêm được
dầu đậu nành. Nhằm mục đích đó, hàng
năm ở Nhật, người ta chế biến một
triệu tấn prôtêin đậu nành. Còn ở Mĩ
- nữa triệu tấn. Prôtêin của đậu nành "đậu
phụ" là món ăn cổ
truyền của người Nhật Bản. Prôtêin đău
nành được bổ sung vào giò, xúc xích, thịt
xay, làm chúng tăng trọng lượng mà chất lượng
không bị giảm.
Prôtêin của đău
nành hoặc lúa mì khá tinh khiết có thể kéo sợi,
như kéo tơ nhân tạo và có thể thu được
sợi. Nếu làm dính chúng lại, tạo cho chúng có mùi,
vị và màu cần thiết thì sẽ thu được
những món ăn rất đa dạng.
Chẳng hạn trong danh mục (catalô) của
một trong những công ty Mĩ có ghi:
Thịt rán tẩm bột từ lúa mì.
Thịt rán từ lúa mì.
Thịt băm chay từ lúa mì
và đău nành.
Giò từ đău nành và ngô.
Thịt bò từ đậu nành.
Giăm bông từ đậu nành.
Thịt gà tây rán từ đậu nành và lúa mì.
Xúc xích từ đău nành và
lúa mì.
Thịt lợn ướp từ
đău nành, lúa mì và men.
Và còn hai chục món thịt và món ăn chay
nữa.
Một đoạn khác hai tác giả viết:
Việc chuyển prôtêin thực vật thành
giăm bông và xúc xích có lợi không chỉ mục đích
làm thực phẩm rẻ đi. Phương pháp này còn
có những ưu điểm lớn khác.
Trước hết, thực phẩm nhân tạo
có thể được tạo ra theo những công thức
pha chế khoa học hợp lí về dinh dưỡng,
đüa vào đó một lượng cần thiết chính
xác prôtêin, chất béo, hiđrát cacbon, vitamin và muối.
Khi pha trộn dễ dàng bổ sung axit amin hạn chế
và bằng cách đó nâng cao
được giá trị dinh dưỡng.
Thứ hai, các chất prôtêin, chất béo và
hiđrát cacbon tách ra từ ngũ cốc và đậu
đều đồng nhất về mặt hóa học. Có
thể bảo quản chúng riêng biệt, và khi đó
chúng không bị hỏng trong thời gian dài ở nhiệt
độ bình thường. Chỉ khi bảo quản chung,
chúng mới làm hỏng lẫn nhau.
Thứ ba, khác với thực phẩm tự
nhiên, các prôtêin, chất béo và hiđrát
cacbon đều chế biến riêng biệt được
tiêu chuẩn về thành phần và tính chất. điều
đó tạo khả năng và nấu nướng công nghiệp
hiện đại, tự động hóa. Trong khi đó, chế
biến thịt gà và thịt bê đừng hòng đưa
được lên dây chuyền. Tất cả những
điều đó là hiện thực của ngày hôm
nay. Tương lai bắt đầu từ hôm nay.
Ở một đoạn khác nữa hai tác giả
viết:
Ngày kia. Chúng ta hãy hình dung đến một
lúc, hóa học thắng lợi hoàn toàn. Sản xuất thực
phẩm đi vào công nghiệp. Cả nước sẽ
được nuôi dưỡng nhờ hàng chục xí nghiệp
liên hợp lớn, nằm ở những vùng dầu mỏ
giàu có (Để nuôi nấm
men), hoặc than (để sử dụng những sản
phẩm chưng cất), hoặc không quá xa những
thành phố lớn để gần với người tiêu
thụ. Toàn bộ các nhà máy đó chỉ chiếm diện
tích vài trăm kilômét vuông... vâng, vài nghìn là nhiều nhất.
Tại các nhà máy đó, có hai, ba triệu người làm
việc... rồi sẽ chưa đến một triệu
tùy theo mức độ phát triển của
trự động hóa.
Chúng ta có lợi gì ?
Trước hết chúng ta được sự
tin cậy. Sẽ không có những vụ thất thu. Hạn
hán với những đợt gió khô mùa đông đày
tuyết và không có tuyết, những cơn bão dữ dội,
những đợt sương giá ban mai, những trận
mưa rào mưa đá... dù có những cục to bằng
quả trứng gà... sẽ chẳng có vai trò gì nữa. Những
bông lúa lép, những lần lúa bị đổ rạp,
thiếu mưa vào đầu mùa hè, mưa dai dẳng trong
thời gian thu hoạch sẽ không làm cho chúng ta lo lắng;
sâu, bọ, chuột đồng, thậm chí nạn châu chấu
không làm chúng ta sợ hãy. Các xí nghiệp liên hợp vẫn
hoạt động nhịp nhàng, quanh năm
suốt tháng nếu cần thiết; sản phẩm
được đưa đến cửa hàng theo đúng
lịch giao. Không cần thiết phải dự trữ
đến vụ sau và một năm sau để đề
phòng bất trắc. Không cần đến những nhà
kho lớn, tại đó
thực phẩm bị hỏng dần, không cần đến
cả những đồ hộp trong đó vitamin bị mất
mát ngay từ khi sản xuất.
Chúng ta sẽ giữ được vệ
sinh. Thức ăn tổng hợp sẽ tươi hơn,
vì không cần phải bảo quản
lâu. Khuynh hướng bị hỏng từ ngày bảo quản
đầu tiên là điều tự nhiên. Trong các sản
phẩm tự nhiên thường có nhiều tạp chất
thừa, đôi khi
có cả tạp chất độc hại và vi khuẩn.
Thức ăn tổng hợp đã được khử
khuẩn ngay khi tạo thành trong các
thiết bị hóa học. Và điều chủ yếu là
có thể định liều lượng một cách chính
xác, phù hợp với nhu cầu của một người
trung bình nói chung và những người nào đó nói
riêng. Trong sản phẩm, tỉ lệ chất béo,
prôtêin, và hydrát cacbon đã được
xác định về mặt y tế, và
không còn những người béo quá với trái tim bị
bọc mỡ, không có
bệnh đau dạ dày, đau gan. Và đói với người
bệnh có thể lựa chọn những khẩu phần
đặc biệt.
Thuận lợi thứ ba... về ý nghĩa
hông phải là thuận lợi cuối cùng, đó là về
đạo lý.
Ăn thịt, chúng ta buộc phải giết
hàng triệu bò, cừu, lợn, ngỗng,
vịt, gà, tạo ra hàng nghìn, hàng nghìn người lạnh
lùng trước sự đổ máu, ......Và điều
đó rất không phù hợp với
sự giáo dục tình yêu thiên nhiên, lòng tốt, lòng nhân
ái.
Thức ăn tổng hợp
sẽ vĩnh viễn loại trừ mâu thuẩn này. Sẽ
có thịt, nhưng hông cần đổ máu. Sẽ có những
động vật, nhưng chỉ ở vườn
hoa hoặc sống tự do.
Giả chay. Nhiều
người nấu ăn chay vừa khéo tay, vừa
khéo chế biến, từ tàu hủ, mì căn, rong biển
... chế biến thành những món ăn chay giống y
như món mặn, nào là thịt heo, đùi gà, trứng
gà, cá, gà ... Vấn đề này có ý kiến cho rằng
đã ăn chay mà tâm còn vọng mặn, như vậy thì
ăn mặn cho xong. Cũng có ý kiến
cho rằng nhiều người không ăn chay được,
làm giả cho họ ăn tránh được nghiệp sát
sanh.
Đối với chư Tăng, Ni đã
ăn chay rồi thì đâu còn nghĩ đến ngon hay không
ngon, ăn uống để nuôi sống thân tứ đại,
tránh bệnh hoạn để giúp cho đường tu hành
được dễ dàng trên con đường giác
ngộ. Cho nên có làm ra hình con gà hay không thì cũng chỉ
là món ăn.
Từ tàu hủ ky, bánh mì, bột chế biến
thành món ăn như thịt, đem
chiên gọi là "thịt
heo quay", làm cho người
khác bài bác là ăn chay còn vọng mặn, thì chúng ta gọi
nó là "tàu hủ bánh mì
chiên", còn mì căn nắn
hình con cá, con gà, con vịt tự chế biến thì chúng
ta đừng nắn hình những con vật ấy nữa,
nên nắn hình vuông, hình tròn mà thôi; nếu mua từ thực
phẩm người ta làm sẳn, khi đem về nấu
nướng hay bày biện vào tô, dĩa, chúng ta cắt ra
thành những miếng và bày biện rời rạc thì
không còn hình thù con chi hết, chỉ thấy món kho, món
xào, món canh, món mặn. Vừa tránh tránh được sự
bài bác, vừa giúp cho bửa chay được thanh tịnh
hơn.
Nhưng coi chừng, trên internet người
ta cho biết một số thực phẩm
chay chế biến ở Đài Loan không được
tinh khiết, trong hai mươi hai món thức ăn chay chế
biến sẵn đem thử nghiệm, có đến mười
lăm thứ không tinh khiết, chẳng hạn như Ham
chay có trộn thịt bò. Do vậy người ăn chay có
thể bị phạm
"Giới".
Có thứ
chao chế biến rất mất vệ sinh. Ở Canada cho
biết nước tương Lá Bồ Đề có chứa
hoá chất độc:
"HEALTH HAZARD ALERT
BETTER TREE BRAND LA BO DE VEGETARIAN SOYA SAUCE MAY CONTAIN
HARMFUL CHEMICAL CONTAMINANTS: 1,3-DCP AND 3-MCPD
OTTAWA, March 22, 2005 - The Canadian Food Inspection Agency
(CFIA) and and Kim Phat Inc. are warning the public not to consume Better Tree
brand LA BO DE Vegetarian Soya Sauce as it may contain harmful chemical
contaminants: 1,3-DCP and 3-MCPD..."
Vài món ăn chay.
Khoai mì chiên:
Vật liệu:
- Chuối sứ 1 trái
- Khoai mì nấu 1 củ tương đương với
trái chuối.
- Chao 2 hay 3 miếng.
- Gia vị: Bột nêm, muối, đường, tiêu.
Cách làm: Chuối tán nhuyển, khoai mì tán
nhuyển, trộn chung khoai mì với chuối và chao, thêm
gia vị vừa đủ, trộn cho vừa cứng, nắn
thành hình trụ, dài chừng 3 lóng tay, đem chiên.
Khô bắp chuối:
Vật liệu:
- Bắp chuối.
- Gia vị: Bột nêm, muối, đường, tiêu.
Cách làm: - Bắp chuối bốc bỏ những
bẹ cứng ở ngoài, luộc chín, vắt ráo nước,
tán nhuyển, thêm gia vị vừa đủ, nắn thành
miếng tròn dầy chừng đầu
đủa ăn, đường kính chừng 2 lóng tay. Phơi
khô rồi đem chiên. (Không phơi
khô, đem chiên cũng được nhưng không thành
khô).
Khô bả đậu nành:
Vật liệu:
- Bả đậu nành.
(Ðậu nành xay, vắt nước để
nấu sửa đậu nành hay nấu
tàu hủ, phần xác hạt đậu xay sau khi vắt
nước gọi là bả, phần này thường
người ta đổ bỏ)
- Gia vị: Bột nêm, muối, đường, tiêu.
Cách làm:
Thêm gia vị vào bả đậu nành, ép
thành miếng hình tròn dầy chừng bằng đầu
đủa ăn, đường kính chừng 3 lóng tay. Phơi
khô rồi chiên.
Lưu ý: Tránh dùng Bột ngọt, nó rất
có hại cho sức khỏe. Bột nêm làm bằng trái
cây và rau cải.
Lợi ích của Ăn chay.
Ăn chay có nhiều lợi ích, tránh
được những bệnh tật do súc vật mang
đến như "Bệnh bò điên"
ở Âu Châu, "dịch cúm gà" ở Á châu. Hơn nữa
năm 1945, hậu quả bôm nguyên tử ở Hyroshima làm
cho hàng ngàn người tử vong, nhưng chính
tại nơi quả bôm nổ có những người sống
sót, qua điều tra, người ta thấy những
người ấy gần như ăn chay, do đó người
ta cho rằng ăn chay tránh được nhiễm xạ
bôm nguyên tử. Nhưng trên hết,
ăn chay vừa
để thể hiện tấm lòng
thương yêu loài vật vừa tránh tạo thêm ác nghiệp.
- Theo tài liệu y học của các Bác sĩ
: Nguyễn Khắc Minh, Nguyễn Ý Ðức, Vũ Văn
Dzi, Lisa Nguyễn, Linda Nguyễn.
- Tâm Diệu Quan Ðiểm Về Ăn Chay Của Ðạo
Phật, Hoa Sen tái bản lần thứ hai, 1998, USA
- Trần Trúc Lâm Những Mẫu Chuyện Thiền
- Protein information sheet
- Harvard School of Public Health