Mục Lục   
 
   
   
   
   
   
   
   
   
| Mấy     
Lời Bày Tỏ Lời     
Bạt | 
    
    
| Phần     
Một | Thơ  
đáp  
Cư  
Sĩ  
Bao  
Sư  
Hiền Thơ  
đáp  
Cư  
Sĩ  
Bộc  
Đại  
Phàm Thơ  
đáp  
Cư  
Sĩ  
Cừu  
Bội  
Khanh  
(1-2) Cư  
Sĩ  
Cao  
Thiệu  
Lân  
(1-2) Thơ  
đáp  
Cư  
Sĩ  
Châu  
Trí  
Mậu  
(1-3) | 
   
   
| Phần     
Hai | Thơ  
đáp  
Cư  
Sĩ  
Châu  
Mạnh  
Do  
(1-10) Cư  
Sĩ  
Đặng  
Bá  
Thành  
(1-2) Cư  
Sĩ  
Đặng  
Tân  
An Thơ  
đáp  
Cư  
Sĩ  
Dương  
Đức  
Quan Thơ  
đáp  
Cư  
Sĩ  
Hoàng  
Hàm  
Chi | 
   
   
| Phần     
Ba | Thơ  
đáp  
Cư  
Sĩ  
Hoàng  
Tụng  
Bình Thơ  
gởi  
Cư  
Sĩ  
Tạ  
Dung  
Thoát Thơ  
đáp  
Cư  
Sĩ  
Hà  
Huệ  
Chiêu Thơ  
đáp  
Cư  
Sĩ  
Lâm  
Giới  
Sanh Thơ  
đáp  
Cư  
Sĩ  
Lưu  
Trí  
Không | 
   
   
| Phần     
Bốn | Thơ  
đáp  
Ly  
Tẩu 
 Thơ  
đáp  
Cư  
Sĩ  
Mã  
Khế  
Tây  
(1-3) Thơ  
đáp  
hai  
Cư  
Sĩ  
Ngạn  
Như,  
Dật  
Như Thơ  
đáp  
Cư  
Sĩ  
Ngô  
Hi  
Chân Thơ  
đáp  
Nhạc  
Tiên  
Kiều | 
   
   
| Phần     
Năm | Thơ  
đáp  
Cư  
Sĩ  
Phạm  
Cổ  
Nông Thơ  
đáp  
Cư  
Sĩ  
Phật  
Điển Thơ  
đáp  
Cư  
Sĩ  
Tạ  
Thành  
Minh Thơ  
đáp  
Cư  
Sĩ  
Trạch  
Phạm Thơ  
đáp  
Cư  
Sĩ  
Trần  
Huệ  
Siêu | 
   
   
| Phần     
Sáu | Thơ  
gửi  
Cư  
Sĩ  
Trần  
Tích  
Châu Thơ  
đáp  
Cư  
Sĩ  
Úc  
Trí  
Lãng Thơ  
đáp  
một  
Cư  
Sĩ  
ở  
Vĩnh  
Gia Thơ  
đáp  
Cư  
Sĩ  
Châu  
Tụng  
Nghiêu Thơ  
đáp  
Cư  
Sĩ  
Uông  
Võ  
Mộc | 
   
   
| Phần     
Bảy | Thơ  
gởi  
Cư  
Sĩ  
Vệ  
Cẩm  
Châu Thơ  
đáp  
Cư  
Sĩ  
Trương  
Vân  
Lôi Thơ  
gởi  
Nữ  
Sĩ  
Từ  
Phước  
Hiền. | 
   
   
| Phần    
Tám | Thơ  
khuyên  
dạy  
một  
vị  
Tỳ  
Kheo  
Ni Thơ  
gởi  
Đế  
Nhàn  
Pháp  
Sư Một  
bức  
thơ  
phúc  
đáp  
khắp  
nơi Thơ  
đáp  
Pháp  
Hải  
Đại  
Sư | 
 ---o0o---
   
   
Mấy Lời     
Bày Tỏ 
    
    
Trong     
các hành môn của đức Phật đã chỉ     
dạy, môn nào cũng có pháp nghi riêng biệt, từ cách thờ cúng, lễ     
bái, trì tụng, sám hối, phát nguyện v.v... Như Mật Tông lại còn     
sự lập đàn, kiết ấn nữa.
    
Riêng về     
tông Tịnh Độ, tôi thấy có nhiều người không biết nghi thức     
hành trì cho đúng pháp. Lại có những vị không hiểu nghĩa chữ     
Hán, thành ra khi trì tụng chỉ đọc suông theo thông lệ, khó phát     
lòng thành khẩn, không thể chuyển hướng tâm niệm của mình y     
như lời văn. Nghĩ vì dòng đời cứ mãi trôi qua, người sau càng     
ngày lại càng ít am hiểu văn từ Hán Việt, nên theo lời yêu cầu     
của một số đông, tôi soạn dịch nghi thức     
tu Tịnh Độ ra Việt văn để giúp bạn đồng tu.
    
Về     
pháp nghi Tịnh Độ, có ba bậc: thượng, trung, hạ. Để không quá     
đơn giản và khỏi phiền toái, tôi     
căn cứ theo pháp nghi của ngài Từ Vân trong Tịnh Độ Thập Yếu,     
soạn dịch nghi thức theo bậc trung. Về cách trì danh, vẫn có nhiều     
đường lối, theo chỗ kinh nghiệm và so với thời cơ, tôi     
chọn pháp Thập Niệm Ký Số.
    
Về     
pháp nghi Tịnh Độ, thuở xưa chia làm năm môn, tôi ước kết     
lại thành ba môn: lễ bái, trì tụng và phát nguyện hồi hướng.     
Vả lại, pháp môn Tịnh Độ có chuyên tu và kiêm tu; có vị     
chuyên niệm Phật, có vị lại kiêm tụng kinh, trì chú, sám hối     
hoặc tham thiền. Theo Ấn Quang Pháp Sư, thì người tu tịnh nghiệp     
phải lấy sự niệm Phật làm phần chính, mấy món kia làm phần     
phụ, phần chính cố nhiên phải giữ cho nhiều hơn. Riêng về tụng     
kinh, trì chú, nếu dùng để giúp cho phần niệm Phật và chí tâm     
hồi hướng, cầu vãng sanh, cũng có thể gọi là chuyên tu.
    
Trên pháp     
môn trì danh, sự hơn kém thật ra không phải ở nơi nghi thức, mà     
ở chỗ: âm thanh rành rõ hay lờ mờ, tâm niệm thành khẩn hay thờ     
ơ tán loạn, công trì tụng sâu nhiều hay cạn ít. Nếu người biết     
tu thì một lượt chiêm lễ, một câu xưng danh, công đức cũng     
hơn kẻ không biết tu rất nhiều. Tuy nhiên, nếu không có pháp     
nghi cho đúng, thì công đức hành trì thì cũng khó phát huy đến     
chỗ viên mãn. Và vì thế tôi mới soạn ra nghi thức nầy.
    
Xưa và nay     
cách nhau, chúng sanh căn cơ sở thích đều     
sai khác, tôi không dám gọi việc làm nầy là hợp với mọi     
người, cũng không dám cho nghi thức đây là hơn những pháp nghi     
đã có, chỉ tùy chỗ mong cầu mà lạo thảo viết ra vậy thôi.
    
    
Liên Du Thích Thiền Tâm
    
    
---o0o---
    
    
Lời Bạt 
    
Trong     
quyển nầy, ta thấy Ấn Quang Pháp Sư, về cách khuyến hóa, chỉ     
dùng lời lẽ bình thường chân thật, mà điểm cốt yếu duy ở một     
chữ thành. Người học đạo biết đặt chân từ chỗ bình thật     
đi vào, thì không còn vọng cầu xa xôi; có chí thành khẩn thiết     
tất dễ cảm thông với Phật. Sự huyền diệu của đạo chính     
là ở chỗ đó. Cho nên thuở xưa, một vị Tổ Sư đã bảo: 'Tâm     
bình thường là đạo.' Nhưng, trên đường giải thoát, các tông     
khác tuy cũng dùng tâm bình thường thanh tịnh làm căn bản, song chỉ     
nương ở tự lực, riêng môn Tịnh Độ đã chuyên dùng tự lực lại     
kiêm chú trọng về tha lực. Như bên tông Thiền tuy tham cứu câu     
niệm Phật, nhưng chỉ dùng đó để ngăn làn sóng vọng tưởng,     
trở về tâm thanh tịnh; bên tông Mật như phái Lạt Ma giáo ở     
Tây Tạng, cũng có người chuyên trì danh hiệu của một đức Phật,     
một bậc Bồ Tát hay một vị thần, song họ chỉ xem đó là một     
câu chú, hoặc một đấng ủng hộ mà thôi. Tuy nhiên, nếu đem so     
sánh, ta thấy bên Mật có điểm thắng hơn bên Thiền, vì bên Mật     
trong khi tu niệm đã biết giữ ba nghiệp thanh tịnh (tam mật     
tương ưng) để tiêu trừ vọng tưởng đồng thời lại dùng công     
đức, năng lực của chân ngôn hay hiệu Phật, giúp sức phá tan hoặc     
nghiệp, để mau chứng quả Bồ Đề. Nhưng đó là những lối tu     
hành của bậc thượng căn, hơn nữa chúng sanh từ kiếp vô thỉ     
đến nay gây nên nghiệp chướng vô lượng vô biên, dù có tu được,     
cũng khó hy vọng trong một đời phá hết phiền hoặc, thoát đường     
sanh tử. Và một khi nghiệp hoặc còn chừng một mảy tơ, cũng bị     
luân hồi, mà đã luân hồi tất dễ quên mất túc căn, bị trần     
cảnh mê mờ lôi cuốn vào trong lục đạo! Khác hơn thế, môn Tịnh     
Độ bậc căn cơ thượng, trung, hạ đều có thể tu; cách tu chỉ     
dùng tâm thanh tịnh làm nền tảng, rồi từ nơi đó khởi công     
năng chí thành khẩn thiết niệm danh hiệu Phật cầu sanh Tịnh Độ.     
Nếu đủ lòng tín nguyện trì danh, không luận người đã dứt hết     
phiền não, dù cho kẻ nghiệp nặng như biển cả non cao, trong một     
đời cũng được Phật tiếp dẫn sanh về Tịnh Độ. Khi niệm Phật     
chí thành, trong ấy có ba năng lực: sức Phật, sức Pháp và sức     
công đức không thể nghĩ bàn của tự tâm. Sức Phật là được     
Phật phóng quang nhiếp thọ, thường thường hộ trì. Sức Pháp     
là hồng danh A Di Đà vẫn đầy đủ muôn đức, chí thành niệm một     
câu tất sẽ tiêu tội nặng sanh tử trong tám mươi ức kiếp, phước     
huệ tăng thêm. Sức công đức của tự tâm là tâm ta có đủ mười     
pháp giới, trong khi ta niệm Phật thành khẩn, thì pháp giới ác bị     
tiêu ngưng, pháp giới lành biến chuyển lớn mãi cho đến khi     
thành thục, kết quả lúc mạng chung sẽ hóa sanh trong liên bào     
nơi cõi Tây Phương. - đây, ta cần nên phân biệt có hai lối niệm     
Phật tương tợ như Tịnh Độ mà không phải thuộc về tông Tịnh     
Độ: 1/ Niệm Phật tương tục mong đàn áp vọng tưởng chứng ngộ     
bản tâm, không cầu vãng sanh, giống như tông Thiền. 2/ Niệm Phật     
như trì một câu thần chú, mong Phật ủng hộ cho xa lìa ma chướng,     
tiêu hoặc nghiệp, hiện đời phước huệ tăng thêm, mà không cầu     
vãng sanh, giống như tông Mật. Niệm Phật như thế là lạc với     
đường lối của Tịnh Tông, chỉ được kết quả nhỏ mà mất sự     
lợi ích lớn. Nếu người biết trì niệm hiệu như giữ gìn bổn     
mạng, chỉ tha thiết cầu sanh Tây Phương, thì tuy không cầu dứt     
phiền não mà phiền não tự tiêu, không cầu sanh phước huệ mà     
phước huệ tự nhiên thêm lớn, cho đến không cầu chứng ngộ     
mà hoặc sớm hoặc chầy cũng được chứng ngộ; kết quả trong một     
đời sẽ thoát vòng luân chuyển, lên vị Bất Thối nơi cõi bảo     
liên. Thế thì chỉ thành tâm niệm Phật cầu vãng sanh, trong ấy     
đã có đủ Thiền và Mật rồi. Cho nên „n Quang Đại Sư thường     
nói: 'Pháp môn Tịnh Độ thống nhiếp cả Thiền, Giáo, Luật, cao     
siêu hơn Thiền, Giáo, Luật.'
    
Môn Niệm Phật     
xem giản dị mà có công năng rất huyền diệu như thế, nên một     
hạng người học Phật vì nhận thức không thấu đáo, sanh tâm tự     
cao, bài báng, khinh thường. Bởi thế, có kẻ dẫn câu niệm Phật     
đem về lý tánh, cho lời nói trong các kinh Tịnh Độ là tượng     
trưng. Lại có một hạng người nhiều chủng tử ngoại đạo,     
đem sáu chữ niệm Phật bố khắp chi thể, hoặc hợp câu niệm Phật     
với phép luyện khí cho đi tuần hoàn trong châu thân, hoặc dùng     
câu niệm Phật tụ hỏa nơi ấn đường. Họ lại lầm cho đó là     
quí báu, chỉ mật thọ nhau trong phòng kín không dám tuyên dương,     
sợ e lạm truyền. Sự lầm lạc ấy khiến cho nhiều người mang     
chứng lớn bụng, mờ mắt, đau đầu, kết cuộc chỉ có tổn hại     
không được lợi ích. Nên biết pháp môn Tịnh Độ chính do đức     
Thích Ca Mâu Ni nói ra, sáu phương chư Phật đều khen ngợi; các bậc     
Đại Bồ Tát, Đại Tổ Sư như đức Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh,     
Long Thọ đều tuân giữ; các Kinh Đại Thừa như Hoa Nghiêm, Pháp     
Hoa, Đại Bảo Tích, Đại Bát Nhã đều tuyên dương. Kẻ ngoại đạo     
vì tà kiến, hủy báng môn Tịnh Độ, vẫn không đáng nói; hàng     
Phật tử nếu sanh tâm tự cao hủy báng, tức là vô tình hủy     
báng ngôi Tam Bảo, ngăn lấp con đường giác ngộ của mọi người.     
Tại sao thế? Vì môn Tịnh Độ là cửa mầu giải thoát duy nhất,     
yên ổn nhất của chúng sanh đời mạt pháp; chính đức Phật đã     
từng có lời huyền ký thuở xưa.
    
Trên đây,     
không phải tôi cố ý phân biệt môn Tịnh Độ giữa các tông     
phái, hay thiếu mỹ cảm với những kẻ đã lầm lạc, mà chính     
vì tưởng niệm ân sâu của Phật, muốn cho mọi người đồng     
được lợi ích đó thôi. Tuy nhiên, trên đường đạo, sở thích     
của mỗi người có khác nhau, khúc nhạc hương quê chưa dễ cảm     
được lòng du khách! Xem quyển nầy, ai có mến „n Quang Pháp Sư,     
cũng nên theo Ngài mà đọc bài ca quy khứ:
    
Phải     
nên phát nguyện, nguyện vãng sanh,
    
Đất     
khách sơn khê mặc người luyến?
    
Tự     
không muốn về, về sẽ được,
    
Quê     
xưa trăng gió có ai tranh?
    
    
    
    
 
    
Người     
Bạn     
Sen             
    
Liên     
Du Thích Thiền Tâm
    
quangduc.com