CÂU-XÁ TÔNG
Khai tổ: Bồ Tát Thế Thân khởi đầu ở Ấn Độ và Huyền Trang ở Trung Hoa vào khoảng năm 654.
Tchitsu và Tchitasu truyền sang Nhật năm 658.
Giáo lý căn bản: Bộ luận A-tỳ-đạt-ma Câu-xá
Tông chỉ: Không có bản ngã, tất cả hiện tượng chỉ là hư dối, là sự hợp thành của các pháp mà thôi.
LỊCH SỬ
Tông Câu-xá ngày nay không còn, mặc dù trước kia, tông ấy đã có một thời 
hưng thịnh với rất nhiều người tu tập theo. Tuy nhiên, ảnh hưởng sâu sắc 
của tông này cho đến nay vẫn còn rất rõ rệt trong Phật giáo.
Tên gọi Câu-xá của tông này vốn được phiên âm từ tiếng Phạn là Kośa, có 
nghĩa là “kho báu”. Đây cũng là tên gọi một bộ luận nổi tiếng của Bồ Tát 
Thế Thân. Tên tiếng Phạn của bộ luận này là Abhidharmakoa-stra, phiên âm 
là A-tỳ-đạt-ma Câu-xá luận, và là giáo lý căn bản của Câu-xá tông. 
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4.
Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền 
tông Ấn Độ. Ngài là em ruột của Bồ Tát Vô Trước, người đã sáng lập ra 
Duy thức tông. Câu-xá tông là một tông thuộc Tiểu thừa, trong khi đó Duy 
thức tông là một tông Đại thừa. Ban đầu, ngài 
Thế Thân học theo giáo lý Tiểu thừa, thuộc Nhất thiết hữu bộ, là một 
trong 18 bộ phái Tiểu thừa đầu tiên của Ấn Độ đã phân chia sau khi Phật 
nhập diệt khoảng gần 200 năm. Ngài học tinh thông giáo lý của bộ phái 
này, nghiên cứu sâu bộ Đại Tỳ-bà-sa luận. Sau 
ngài lại học thêm giáo lý của Kinh lượng bộ, cũng là một bộ phái lớn. 
Ngài thấy có những điểm không hài lòng với giáo lý của các bộ phái này, 
mới soạn ra bộ A-tỳ-đạt-ma Câu-xá luận là một sự tổng hợp rất công phu 
từ bộ Đại Tỳ-bà-sa luận và giáo lý của Kinh lượng bộ. Vì dựa vào Đại 
Tỳ-bà-sa luận, nên bộ luận của ngài đôi khi cũng được xếp vào Nhất thiết 
hữu bộ, nhưng thật ra nội dung luận này đã hình thành nên một tông chỉ 
mới. Vì thế mà Câu-xá tông ra đời.[5]  
Bộ luận A-tỳ-đạt-ma Câu-xá phân ra làm 9 phẩm, được người đương thời 
mệnh danh là Huệ luận, hay Thông minh luận, để tỏ ý ca tụng sự uyên bác, 
trí huệ được hàm chứa trong đó. Chín phẩm này đề cập đến và phân tích rõ 
chín vấn đề căn bản khác nhau, có thể lược kể ra như sau:
1.   Giới phẩm, nói về cái thể của giới pháp.
2.   Căn phẩm, nói về cái dụng của các pháp.
3.   Thế gian phẩm, nói về các thế giới, với sáu đường thác 
sanh trong luân hồi: cõi trời, cõi người, cõi a-tu-la, cõi địa ngục, ngạ 
quỷ và súc sanh.
4.   Nghiệp phẩm, luận về các nghiệp thiện ác.
5.   Tùy miên phẩm, nói về tùy miên, tức là khuynh hướng sa 
vào các điều ngăn trở việc tu đạo. Có 7 pháp tùy miên là: tham dục, sân 
hận, nghi ngờ, kiêu mạn, chấp hữu và si mê. 
6.   Hiền thánh phẩm, nói về các bậc hiền thánh.
7.   Trí phẩm, nói về 10 loại trí tuệ.
8.   Định phẩm, nói về tâm an định.
9.   Phá ngã phẩm, nói về thật tướng vô ngã vì tất cả các pháp 
đều giả hợp, hư dối. Đây là phẩm cuối cùng, tổng kết toàn bộ luận thuyết 
để nêu lên tông chỉ.
Các phẩm 3, 4 và 5 đều luận về pháp hữu lậu. Trong đó, phẩm thứ 3 là quả 
hữu lậu (thác sanh trong 6 nẻo), và hai phẩm 4, 5 là nhân hữu lậu (tạo 
ra các nghiệp thiện ác).
Các phẩm 6, 7 và 8 luận về pháp vô lậu. Trong đó, phẩm thứ 6 là quả vô 
lậu (chứng đắc các quả vị hiền thánh), và 2 phẩm 7, 8 là nhân vô lậu (tu 
tập trí huệ và định lực).
Qua phân tích như trên, có thể thấy bộ luận A-tỳ-đạt-ma Câu-xá nhằm hiển 
bày giáo lý vô ngã, trên cơ sở tất cả các pháp đều giả hợp, không có 
thật, chỉ hiện hữu nhất thời và không chân thật. Trong các pháp lại chia 
làm hai là pháp hữu lậu và pháp vô lậu. 
Về mặt hình thức, bộ luận cũng được trình bày thành hai phần. Phần thứ 
nhất gọi là A-tỳ-đạt-ma Câu-xá luận tụng, gồm khoảng 600 bài kệ tụng. 
Phần thứ nhất gọi là A-tỳ-đạt-ma Câu-xá luận thích, là phần bình giải về 
600 bài kệ tụng đó. 
Năm 563, vào đời Trần, ngài Chân Đế, một cao tăng Ấn Độ sang Trung Hoa 
có dịch sang chữ Hán với tên là A-tỳ-đạt-ma Câu-xá thích luận, gồm 22 
quyển.[6] Năm 654, vào đời Đường, ngài Huyền Trang 
lại dịch với tên là A-tỳ-đạt-ma Câu-xá luận, gồm 30 quyển.[7] 
Chính qua 2 dịch phẩm này mà Câu-xá tông được truyền bá ở Trung Hoa. Mặc 
dù khá ngắn ngủi, chỉ tồn tại trong đời nhà Đường, nhưng tông phái này 
đã để lại ảnh hưởng khá nhiều trong các tông phái khác, nhất là giáo lý 
vô ngã đã trở thành nền tảng trong giáo lý chung, nên những cơ sở lý 
luận của bộ luận này được rất nhiều vị luận sư sử dụng để biện giải cho 
lý thuyết của tông phái mình.
Cũng trong thế kỷ thứ 7, hai cao tăng Nhật Bản là Tchitsu và Tchitasu 
sang Trung Hoa cầu học với ngài Huyền Trang. Năm 658, hai vị này về nước 
và truyền bá giáo lý Câu-xá tông tại nước Nhật, với tên gọi là Kusha-sh. 
Ngày nay, tông Câu-xá cũng không còn ở Nhật. Nhưng giáo lý của tông này 
vẫn được đưa vào giảng dạy trong các trường Phật học và trong các tự 
viện. Về mặt văn chương, bộ A-tỳ-đạt-ma Câu-xá luận cũng vẫn được xem là 
một tác phẩm luận giải nổi tiếng trong văn học Phật giáo.
HỌC THUYẾT
Đúng như tên gọi với ý nghĩa là một “kho báu”, bộ luận A-tỳ-đạt-ma 
Câu-xá quả đúng là một kho báu vô giá về mặt tinh thần. Những ai đã có 
được nó, tất sẽ không còn tham đắm vào những thứ gọi là báu vật của thế 
tục nữa. Người hiểu rõ được giáo lý Câu-xá tông sẽ nhận ra được chính 
thân xác của mình cũng là hư dối, giả hợp, nên chẳng đáng để mê đắm, 
chiều lụy theo nó. Khi hiểu thấu được về bản ngã, người ta sẽ tỉnh ngộ, 
không còn mê lầm trong những giả dối của cuộc đời, không còn đau khổ, 
phiền lụy, than tiếc gì nữa. Bấy giờ, dầu cho ở đời có gặp bao nhiêu sự 
thành bại đi nữa, cũng có thể đạt đến sự an nhiên tự tại. Giàu không 
tham, nghèo không sợ, hoạn nạn không dễ làm cho nao núng trong lòng. Tâm 
trí đạt đến chỗ giải thoát, như bông hoa tự nhiên hé nở, khoe sắc tỏa 
hương mà không chút ô nhiễm bởi bụi trần bao quanh.
Triết học Câu-xá tông cho rằng các pháp (dharma) là yếu tố chính của mọi 
sự hiện hữu. Việc thừa nhận sự tồn tại của các pháp cũng là theo với 
giáo lý của Nhất thiết hữu bộ trước đây. Tuy nhiên, Câu-xá luận thừa 
nhận sự tồn tại của các pháp mà không nhận sự chân thật của các tướng do 
chúng tạo ra, bởi các tướng đó đều vô thường, luôn luôn biến chuyển và 
hoại diệt. Từ nhận thức đó, không thể nào tìm được một bản ngã chân thật 
trong các pháp, vì ngay chính thân xác này cũng chỉ là giả hợp, vô 
thường. Người ta sở dĩ không ngừng tạo ra các nghiệp thiện ác trôi lăn 
trong luân hồi chỉ là vì mê chấp vào sự hiện hữu của các pháp, trong khi 
chúng chỉ là hư dối.
Như một vầng sáng đom đóm trong đêm tối, có thể ví như cái gọi là “bản 
ngã”. Vầng sáng ấy thật ra là gì? Ấy là một đoàn đom đóm tụ lại, nếu 
tách ra thì không còn vầng sáng ấy nữa. Song người ta nhìn thấy được nó 
như một vật thể rõ ràng, nên gọi là “vầng đom đóm”. Nhưng chỉ là tên 
gọi, sự giả hợp mà thôi, không có sự chân thật trong đó. Lại cũng như 
một bầy ong làm tổ trên cây. Tụ họp lại đầy đủ thì gọi là tổ ong, nhưng 
tách ra thì từng yếu tố đều không phải là tổ ong! Cũng như thế, thân thể 
và trí óc được hợp lại bởi nhiều yếu tố, và được nhận lầm cho là “bản 
ngã”, mà kỳ thật chỉ là sự giả hợp. Khi sự kết hợp không còn nữa thì cái 
gọi là “bản ngã” ấy cũng chẳng còn.
Trong kinh Na-tiên Tỳ-kheo, có một đoạn đối thoại giữa tỳ-kheo Na-tiên 
với vua Di-lan-đà về bản ngã, thể hiện khá rõ ý nghĩa này:
Na-tiên hỏi vua rằng: “Đại vương gọi tên chiếc xe, thật ra đâu mới là 
xe? Cái trục xe là xe chăng?”
Vua đáp: “Trục xe chẳng phải là xe.”
Na-tiên hỏi: “Vậy vành bánh xe là xe chăng?” 
Vua đáp: “Vành bánh xe cũng chẳng phải là xe?”
Na-tiên lại hỏi: “Vậy nan bánh xe là xe chăng?”
Vua đáp: “Nan bánh xe chẳng phải là xe.”
Na-tiên hỏi: “Vậy bánh xe là xe chăng?”
Vua đáp: “Bánh xe cũng chẳng phải là xe.”[8]
Na-tiên hỏi: “Vậy càng xe là xe chăng?”
Vua đáp: “Càng xe chẳng phải là xe.”
Na-tiên hỏi: “Vậy cái ách[9] có phải là xe chăng?”
Vua đáp: “Ách chẳng phải là xe.”
Na-tiên lại hỏi: “Chỗ ngồi có phải là xe chăng?”
Vua đáp: “Chỗ ngồi chẳng phải là xe.”
Na-tiên hỏi tiếp: “Chỗ gác chân có phải là xe chăng?”
Vua đáp: “Chỗ gác chân chẳng phải là xe.”
Na-tiên hỏi: “Vậy mui xe là xe chăng?”
Vua đáp: “Mui xe chẳng phải là xe.”
Na-tiên lại hỏi: “Vậy hợp đủ tất cả các món ấy lại là xe chăng?”
Vua đáp: “Dù hợp đủ tất cả các món ấy lại cũng không phải là xe.”[10]
Na-tiên hỏi: “Giả sử như không hợp tất cả các món ấy lại, vậy là xe 
chăng?”
Vua đáp: “Không hợp các món ấy lại, cũng không phải là xe.”[11]
Na-tiên hỏi: “Vậy âm thanh phát ra là xe đó chăng?”[12]
Vua đáp: “Âm thanh cũng chẳng phải là xe.”
Na-tiên liền hỏi: “Nói như vậy thì thật ra đâu mới là xe?”
Vua lặng thinh không đáp được. 
Đại đức Na-tiên bấy giờ mới thong thả nói: “Kinh Phật dạy rằng, nếu hợp 
tất cả các yếu tố ấy lại mà làm xe,[13] người ta 
sẽ có cái vật được gọi là xe. Con người cũng vậy. Như hòa hợp tất cả các 
yếu tố đầu, mặt, tai, mũi, lưỡi, cổ, gáy, vai, tay chân, xương, thịt, 
nội tạng, nhan sắc, âm thanh, tiếng vọng, hơi thở ra vào, cảm thọ khổ 
vui, phân biệt thiện ác... sẽ hình thành một thực thể được gọi là con 
người.[14]
Cũng như thế, giáo lý Câu-xá tông dạy rằng không có con người thật sự và 
không có cái gọi là cuộc đời. Tất cả chỉ là sự giả hợp của các pháp, và 
tông này chia tất cả ra làm bảy mươi lăm pháp, cùng giả hiệp thành ra 
những hình tượng, sự kiện mà ta gọi là con người, là cuộc đời.
Vì thế không nên chấp lấy tên gọi, vì chúng chỉ là những khái niệm để 
chỉ vào sự hiện hữu tạm thời của sự vật. Không thể tìm thấy bản chất 
chân thật, trường tồn trong những tên gọi của sự vật.
Mặt khác, cái “bản ngã” giả hợp lại chính là cội nguồn của mọi sự đau 
khổ. Vì người ta chấp lấy cái giả hợp ấy mà cho là chân thật, mà sanh 
khởi nên sự tham đắm, tranh giành lẫn nhau từ lúc sinh ra cho đến khi 
nhắm mắt, tạo tác không biết bao nhiêu là ác nghiệp chất chồng... Nếu 
hiểu ra được cái “bản ngã” ấy là không chân thật, thì con người không 
còn bị lôi kéo bởi tham dục, ái luyến, cũng không chấp lấy sự được mất, 
hơn thua... Và từ đó dễ dàng an tịnh nội tâm và đạt đến sự an lạc, giải 
thoát. Ngay cả khi đối mặt với đau khổ thì cũng nhận chân được sự đau 
khổ ấy vốn chỉ là giả hợp không thật có, nên tâm ý vẫn thản nhiên an 
định mà không hề bị chi phối.
Các pháp hợp thành “bản ngã” được phân chia ra khá chi tiết trong 
A-tỳ-đạt-ma Câu-xá luận. Tất cả là bảy mươi lăm pháp. Trong đó, có bảy 
mươi hai pháp thuộc về hữu vi và ba pháp được xem là thuộc về vô vi.
Bảy mươi hai pháp hữu vi được chia làm 4 nhóm là:
–    11 pháp thuộc sắc (rupas)
–    1 pháp thuộc về thức
–    46 pháp thuộc về tâm sở
–    14 pháp không thuộc tâm cũng không thuộc vật
Ba pháp vô vi là:
–    Trạch diệt (Pratisamdikhy-nirodha)
–    Phi trạch diệt (Apratisamkhy-nirodha)
–    Hư không (ka)
Trong các pháp được kể ra, lại hàm chứa cả nhân, duyên và kết quả. Khi 
nắm vững được những điều này, người tu tập có thể tự mình tìm thấy 
phương cách thích hợp để đạt đến sự giải thoát rốt ráo.
rongmotamhon.net