THIÊN THAI TÔNG
Khai tổ: Trí Khải Đại sư sáng lập vào thế kỷ 6 tại Trung Hoa.
             Truyền 
Giáo Đại sư truyền sang Nhật Bản vào thế kỷ 9.
Giáo lý căn bản: Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Tông chỉ: Tất cả chúng sinh đều 
có tánh Phật, đều có thể giác ngộ thành Phật. 
LỊCH SỬ
	 
Tên gọi Thiên Thai là theo tên núi Thiên Thai, nơi vị tổ sư khai sáng 
tông này cư ngụ. Nhân vì lấy kinh Diệu Pháp Liên Hoa làm yếu chỉ nên 
người ta cũng thường gọi là Pháp Hoa tông. 
Tông này được sáng lập vào khoảng thế kỷ 6, được truyền bá sâu rộng và 
phát triển mạnh mẽ cho đến khoảng thế kỷ 14 mới suy dần, chủ yếu là do 
ảnh hưởng phát triển quá nhanh chóng của Tịnh độ tông vào lúc đó.
Đại sư Trí Khải khi chưa xuất gia là con nhà họ Trần, tự là Đức An, tổ 
tiên trước kia là người vùng Dĩnh Xuyên (nay thuộc Hứa Xương, Hà Nam) 
nhưng ngài sinh ra vào năm 538 ở  Hoa Dung, Kinh Châu, (nay thuộc 
Hồ Bắc). 
Từ nhỏ ngài đã có lòng tin Phật. Năm 17 tuổi, gặp lúc nhà Lương suy mạt, 
binh loạn khắp nơi, ngài phải lưu lạc đây đó. Năm 18 tuổi đến chùa Quả 
Nguyện ở Tương Châu xuất gia, đủ 20 tuổi thì thọ Cụ túc giới.
Vào niên hiệu Thiên Gia thứ nhất đời Trần Văn Đế (560),ngài đến núi Đại 
Tô, Quang Châu (nay là Hoàng Xuyên, Hà Nam) theo ngài Huệ Tư học Tứ an 
lạc hạnh, tu chứng được Pháp Hoa Tam-muội.
Niên hiệu Quang Đại thứ nhất đời Trần Phế Đế (567), ngài đến Kiến Khương 
giảng dạy pháp Thiền, ở chùa Ngõa Quan trong 8 năm, giảng Đại Trí Độ 
luận và thuyết Thứ đệ thiền môn, cùng giảng kinh Diệu Pháp Liên Hoa và 
nhiều kinh điển khác.
Đến niên hiệu Thái Kiến thứ 7 đời Trần Tuyên Đế (575), ngài vào núi 
Thiên Thai (cũng gọi là Thiên Đài) ẩn cư tu tập. Cho đến niên hiệu Chí 
Đức thứ 3 (585), Trần Hậu Chủ ban sắc chỉ thỉnh ngài trở về Kiến Khương 
giảng kinh Nhân vương Bát-nhã và một số kinh khác. 
Năm sau đó (586), thái tử nhà Trần đến xin thọ giới với ngài. Năm 587, 
ngài ở chùa Quang Trạch giảng kinh Diệu Vị Năng Liên Hoa, đệ tử là ngài 
Quán Đỉnh ghi chép tất cả lời giảng, soạn lại thành sách Pháp Hoa văn 
cú.
Từ sau khi nhà Trần bị nhà Tùy diệt, ngài đến ở Lư Sơn. Đến niên hiệu 
Khai Hoàng thứ 11 đời Tùy Văn Đế (591), Tấn Vương Dương Quảng (con Tùy 
Văn Đế) thỉnh ngài đến Dương Châu để thọ giới với ngài, ban tôn hiệu là 
Trí Giả, nhân đó đương thời tôn xưng ngài là  Trí Giả Đại sư.
Năm 592, ngài đến Kinh Châu xây dựng chùa Ngọc Tuyền, thuyết giảng Pháp 
Hoa huyền nghĩa và Ma-ha chỉ quán, đệ tử là Quán Đỉnh cũng chép lại 
thành sách lưu truyền. Đến niên hiệu Khai Hoàng thứ 15 (595), ngài lại 
vì Tấn Vương Dương Quảng mà soạn bộ Tịnh Danh kinh sớ (Sớ giải kinh 
Duy-ma-cật). Năm sau đó (596), ngài từ biệt trở về núi Thiên Thai, trùng 
tu tự viện. Sang năm sau nữa (597) thì viên tịch.
Suốt một đời ngài đã kiến lập đến 36 ngôi chùa, truyền giới độ tăng đến 
14.000 vị, đệ tử nối pháp có 32 người, đứng đầu là ngài Quán Đỉnh. Trước 
tác các sách luận giải chú thích có đến 29 bộ, 151 quyển. Ngay cả trước 
lúc lâm chung còn khẩu truyền bộ Quán tâm luận, cũng là một quyển luận 
được người sau xem trọng. Đó là chưa kể còn có rất nhiều sách khác vẫn 
được cho là của ngài nhưng chưa dám xác quyết, vì còn ngờ là do người 
đời sau nhầm lẫn. Quả thật là một vị danh tăng xưa nay ít có!
Thiên Thai tông truyền sang Nhật Bản vào khoảng đầu thế kỷ 9, do công 
của ngài Tối Trừng, được người đời tôn xưng là Truyền Giáo Đại sư. 
Năm 803, Truyền Giáo Đại sư vâng chiếu chỉ của Nhật hoàng sang Trung Hoa 
học đạo. Khi về nước, ngài mang theo rất nhiều kinh luận của Thiên Thai 
tông, rồi truyền bá giáo lý của tông này ở Nhật, lập thành một trong hai 
tông phái mạnh nhất của thời đại Bình An (794 – 1186). Các nhà nghiên 
cứu thường dùng danh xưng “Bình An nhị tông” để chỉ cho hai tông mạnh 
nhất vào thời đại Bình An, đó chính là Thiên Thai tông và Chân ngôn 
tông. 
Truyền Giáo Đại sư trụ ở núi Tỉ-duệ (Hiei) hoằng truyền giáo nghĩa Thiên 
Thai tông, nên núi ấy cũng trở thành một danh sơn được nhiều người biết 
đến. Vào thời đó, cả vùng núi Tỉ-duệ không bao lâu đã có đến hơn 3.000 
ngôi chùa và giảng đường. Và những ngọn núi ở đây cũng được đổi tên gọi 
là Thiên Thai. 
Ngài Tối Trừng, tên tiếng Nhật là Dengyo Daishi, hay Saichơ, dịch sang 
tiếng Hán là Tối Trừng, sinh năm 767, viên tịch vào năm 822. Ngài học 
đạo từ năm 12 tuổi, là môn đệ của ngài Gyơ hyơ (Hành Biểu) tại chùa 
Kokubunji (Quốc Phần Tự) ở Ơmi (Cận Giang), ban đầu học theo Thiền học 
Bắc tông. Ngài xuất gia năm 14 tuổi, thọ Cụ túc giới năm 19 tuổi ở chùa 
Tơdaiji (Đông Đại Tự), sau đó đến tu học ở núi Tỉ-duệ. Nơi đây ngài thực 
hành thiền định và nghiên cứu giáo lý Hoa nghiêm tông. Nhưng ngài sớm 
quan tâm nhiều hơn đến giáo lý của Thiên Thai tông, và trở nên uyên bác 
sau khi đọc qua các trước tác của ngài Trí Khải. 
Danh tiếng về sự uyên bác của ngài lan rộng đến nỗi Nhật hoàng thời bấy 
giờ chính thức đề nghị ngài sang Trung Hoa để học hỏi về Phật giáo, nhằm 
khi trở về nước có thể thiết lập được một hình thức Phật giáo thích hợp 
với Nhật Bản. 
Ngài sang Trung Hoa bằng đường biển vào năm 804, đi cùng chuyến tàu với 
một người bạn nổi tiếng là ngài Kkai (Không Hải). Đến Trung Hoa, ngài 
theo học với ngài thiền sư Tiêu Thiền và học giáo lý Thiên Thai tông với 
ngài Đạo Thúy, tổ thứ 10 của Thiên Thai tông ở Trung Hoa. Ngài cũng học 
giáo lý Chân ngôn tông với ngài Thuận Hiểu. Tất cả những giáo lý này đều 
chưa được truyền dạy như một tông độc lập tại Nhật Bản trong thời đại 
Thiên Bình (hay Nại Lương thời đại, tức là giai đoạn từ năm 710 đến năm 
784). 
Ngài trở về Nhật Bản vào năm 806 và chính thức thành lập Thiên Thai tông 
ở Nhật. Mặc dù chịu ảnh hưởng rất lớn của giáo lý Thiên Thai tông, nhưng 
thông qua mối quan hệ với ngài Không Hải, ngài cũng rất quan tâm đến 
Chân ngôn tông. Và vì vậy, hệ thống giáo lý của ngài cũng có khuynh 
hướng pha trộn. 
Ngài dành trọn phần đời còn lại để truyền bá chỗ sở đắc về Phật học của 
mình ngay tại vùng núi Tỉ-duệ, nhưng cũng thường xuyên gặp phải sự chống 
đối từ những tông đã thành lập trước, đặc biệt là về những sự cải cách 
mà ngài nỗ lực thực hiện khi muốn hợp lý hóa một số nghi  thức 
truyền giới xuất gia của Đại thừa. 
Ngài trước tác rất nhiều, trong số đó quan trọng hơn hết là các tác phẩm 
Shugo kokkaishơ (Thủ hộ quốc giới chương, Hokkeshku (Pháp Hoa tú cú)và 
Kenkai ron (Hiển giới luận).
Hiện nay, Thiên Thai tông ở Nhật vẫn còn hưng thịnh, có đến khoảng 6.000 
ngôi chùa thuộc tông này, với 11.300 vị tăng sĩ, 900.000 cư sĩ tu tập 
tại gia và hơn một triệu tín đồ thường xuyên lui tới lễ bái cúng dường. 
Tông này cũng có những hoạt động từ thiện xã hội đáng kể như xây dựng 
trường học, chẩn tế cho người nghèo, cấp dưỡng trẻ em mồ côi, người già 
neo đơn, người tật nguyền...
HỌC THUYẾT
A. Tất cả chúng sinh đều sẵn có tánh Phật: Thiên Thai tông dựa vào giáo 
nghĩa của kinh Diệu Pháp Liên Hoa mà phát triển nguyên lý “tất cả chúng 
sinh đều có tánh Phật”. Vì sẵn có tánh Phật, nên tất cả chúng sinh đều 
có khả năng giác ngộ thành Phật, cho dù là con sâu, con kiến, cho đến 
loài người, chư thiên, quỷ thần... đều không khác nhau về bản tánh này.
Khi nhận thức được rằng tất cả chúng sinh đều sẵn có tánh Phật, đều là 
những vị Phật sẽ thành, người tu tập sẽ có được một nhận thức thật sự 
bình đẳng đối với hết thảy muôn loài, muôn vật. Và đó chính là cơ sở đầu 
tiên giúp người tu tập có thể trừ bỏ được hết thảy mọi sự phân biệt 
trong cách đối nhân tiếp vật, vốn là nguyên nhân quan trọng nhất làm 
phát triển những sự thương, ghét, oán giận, si mê... 
Tuy là sẵn có tánh Phật như nhau, nhưng do vô số những ngoại duyên trần 
cảnh, nên tất cả chúng sinh đều trôi lăn trong vòng sinh tử, thọ lãnh 
những nghiệp quả khác nhau, phải thọ sinh vào những cảnh giới khác 
nhau... Nhưng cho dù có tất cả những sự khác nhau đó, cho dù có chìm đắm 
vô lượng kiếp trong luân hồi sinh tử, thì tánh Phật sẵn có kia cũng 
chẳng bao giờ có thể mất đi hay đổi khác. Chỉ cần chúng sinh nhất thời 
nhận ra được điều đó, quay về hướng đến việc rũ bỏ mọi nghiệp duyên trần 
cảnh thì ngay lập tức có thể thể hiển lộ được tánh Phật của mình, có thể 
đạt đến cảnh giới giải thoát rốt ráo không khác gì chư Phật.
B. Ba ngàn pháp giới trong một niệm: Giáo lý Thiên Thai tông chia toàn 
thể vũ trụ ra làm mười cảnh giới, gọi là Thập giới. Trong Thập giới có 4 
cảnh giới thuộc về các bậc thánh là Phật giới, Bồ Tát giới, Duyên giác 
giới và Thanh văn giới; 6 cảnh giới thuộc về phàm phu là thiên giới, 
nhân giới, a-tu-la giới, địa ngục giới, ngạ quỷ giới và súc sinh giới. 
Mười cảnh giới này lại biểu hiện thành ba dạng thế gian là ngũ ấm thế 
gian, chúng sinh thế gian và y báo quốc độ thế gian. Cả ba dạng thế gian 
này đồng thời hiện hữu và hỗ tương chi phối lẫn nhau. 
Mỗi một tâm niệm của chúng sinh đều có đủ mười cảnh giới, mỗi cảnh giới 
lại hợp với những cảnh giới khác thành ra trăm pháp giới, và đều có đủ 
ba dạng thế gian, nên biến hiện thành cả thảy là ba ngàn pháp giới. Ba 
ngàn pháp giới có đủ trong một tâm niệm, nên việc tu chứng cũng không ra 
ngoài tâm niệm ấy. Một niệm chân chánh thì chân như, tánh Phật tự nhiên 
hiển lộ, hiển bày toàn thể ba ngàn pháp giới. Một niệm mê lầm thì tánh 
Phật bị che lấp, dẫu có đủ ba ngàn pháp giới mà không hề nhận biết, chỉ 
trôi lăn theo nghiệp duyên trần cảnh, chịu muôn ngàn sự khổ não trong 
chốn luân hồi.
Thế nên, dù là Phật hay chúng sinh cũng đều từ một niệm mà thành. Khi mê 
tức là chúng sinh, khi ngộ tức là Phật. Phật và chúng sinh vốn không 
hai, không khác, chỉ do một niệm mê ngộ khác nhau mà thành. Cũng như mặt 
nước lúc yên tĩnh hay lúc nổi sóng vốn không thay đổi tánh nước, chỉ 
khác nhau ở lúc trời nổi gió mạnh hay yên tĩnh mà thôi. Nhưng ngay cả 
khi gió mạnh làm nổi sóng, thì sóng kia cũng không lìa khỏi nước. Chỉ 
cần khi trời yên gió lặng thì sóng kia tự mất, tánh nước hiển bày. Cho 
nên chúng sinh dẫu mê lầm cũng không mất đi tánh Phật. Chỉ cần biết thức 
tỉnh tu tập, rũ bỏ nghiệp duyên trần cảnh thì tánh Phật tự nhiên hiển 
lộ, phá sạch mê lầm. 
Do đó, Phật và chúng sinh vốn không lìa nhau, chỉ như hai mặt của một tờ 
giấy. Nếu chê bỏ chúng sinh mà cầu được thành Phật thì đó là sự mong cầu 
điên đảo, chẳng bao giờ có được. Chỉ cần quay về nơi một niệm của tự 
tâm, giữ cho chân chánh thì có thể thấy được cả ba ngàn pháp giới.