Phật giáo xuất phát từ Ấn Độ nhưng khi truyền sang các quốc gia khác
thì Phật giáo đã có sự thích nghi để tồn tại. Do đó, Phật giáo được gắn
thêm tên địa phương mới vì Phật giáo nơi này phản ánh ít nhiều sự khác
biệt so với Phật giáo nơi khác. Sự khác biệt được biểu hiện qua nhiều
lĩnh vực mà ở đây tạm phân thành hai nhóm là văn hóa Phật giáo và tín
ngưỡng tu tập. Trong hai lĩnh vực này, Phật giáo Việt Nam có những đặc
trưng gì để giới thiệu và khẳng định vị thế Phật giáo Việt Nam đối với
bạn bè quốc tế? Đây là một đề tài lớn và bản thân Phật giáo khó có thể
hoàn tất, trừ khi có được sự hỗ trợ từ nhà nước. Bài viết đưa ra một vài
quan điểm nhằm góp phần phác thảo một bản đồ về việc nghiên cứu và giới
thiệu Phật giáo Việt Nam.
Xác định đặc điểm Phật giáo Việt Nam qua các thời kỳ
Các
nhà nghiên cứu phân chia Phật giáo Việt Nam thành các thời kỳ khác
nhau. Ở đây dựa vào yếu tố lịch sử Việt Nam, chúng tôi tạm phân Phật
giáo Việt Nam thành ba giai đoạn. Giai đoạn một là Phật giáo vào thời
Bắc thuộc. Phật giáo được cho là truyền vào Việt Nam (Giao Châu) từ thế
kỷ III-II tr.TL và phổ biến rộng rãi vào thế kỷ thứ II TL. Suốt khoảng
1.000 năm Bắc thuộc từ khi bị đô hộ cho đến khi độc lập tự chủ vào năm
938, Phật giáo Việt Nam tồn tại không thể không bị ảnh hưởng bởi văn hóa
của quốc gia đô hộ. Trong thời gian này, Phật giáo Việt Nam có Thiền sư
Khương Tăng Hội người Việt dạy thiền và có hai dòng thiền là
Tỳ-ni-đa-lưu-chi do Tổ sư người Ấn sáng lập và dòng thiền Vô Ngôn Thông
do Tổ sư người Hoa sáng lập. Hai dòng thiền này được du nhập vào Việt
Nam. Dựa vào các sử liệu được công bố như Lịch sử Phật giáo Việt Nam của Lê Mạnh Thát, Việt Nam Phật giáo sử luận của Nguyễn Lang…, Phật giáo Việt Nam giai đoạn Bắc thuộc đồng hành cùng dân tộc chống ngoại xâm1
nhưng chưa cho thấy đặc điểm khác biệt nổi bật của Phật giáo Việt Nam
so với Phật giáo Trung Quốc về sinh hoạt, pháp tu… Có chăng là tên gọi
của các dòng thiền và các vị Tổ sư các đời kế thừa. Như vậy, giai đoạn
này Phật giáo Việt Nam phát triển nhưng để chứng minh Phật giáo Việt Nam
(khu vực miền Bắc Việt Nam ngày nay) có đặc điểm riêng so với Phật giáo
các nước thì cần phải nghiên cứu và công bố.
Giai đoạn hai là
dưới thời Lý và Trần (thuộc khu vực Bắc và Bắc Trung Bộ Việt Nam ngày
nay). Phật giáo Việt Nam giai đoạn này phát triển rực rỡ và được xem như
là quốc giáo nên được nhà nước quan tâm phát triển. Có nhiều vua quan
là thiền sư, Tổ sư như Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông… Phật giáo Việt
Nam vào thời Trần có dòng thiền Trúc Lâm riêng của Việt Nam mặc dù đó là
sự thống nhất ba dòng thiền được du nhập vào Việt Nam trước đó. Dòng
thiền Trúc Lâm ra đời được tổ chức như Giáo hội có chức năng quản lý
Tăng Ni tu học và sinh hoạt. Các thế hệ thiền sư tiếp nối được ghi nhận
là 18 đời.2 Có thể nói đây là thời kỳ Phật giáo phát triển
rực rỡ nhất ở Việt Nam với dòng thiền (cũng là Giáo hội) đặc trưng riêng
của Việt Nam do thiền sư người Việt sáng lập. Tuy nhiên, một số tác
phẩm văn học và nghiên cứu, sáng tác của các thiền sư để lại hiện còn
khá khiêm tốn để tạo nên một Phật giáo Việt Nam rõ nét. Do đó, việc truy
tìm các tư liệu để nghiên cứu đặc trưng của Phật giáo Việt Nam giai
đoạn này là rất cần thiết.
Giai đoạn ba là sau thời Lý và Trần
đến nay. Phật giáo Việt Nam sau thời Lý-Trần vẫn được duy trì nhưng sau
đó phần lớn đi theo phong cách Phật giáo Trung Quốc do các Tổ sư người
Hoa truyền dạy. Từ miền Trung trở vào Nam và một phần miền Bắc sinh hoạt
tu tập theo phong cách này. Tăng Ni các tự viện từ Trung vào Nam đều có
nguồn gốc từ hai dòng thiền Trung Hoa là Lâm Tế và Tào Động. Thế kỷ XX,
Phật giáo Việt Nam có thêm Phật giáo Nam tông, Phật giáo Khất sĩ, dòng
thiền Trúc Lâm do Thiền sư Thanh Từ phục hưng và dòng thiền Làng Mai do
Thiền sư Nhất Hạnh sáng lập. Trong đó, các dòng thiền có nguồn gốc từ
Phật giáo Trung Quốc chỉ phản ánh danh nghĩa hình thức kế tục dòng thiền
chứ không tạo nét thiền đặc trưng riêng của Phật giáo Việt Nam qua
phương pháp tu tập và tác phẩm kinh sách hướng dẫn. Tóm lại, chưa có nội
dung mang nét đặc trưng Phật giáo Việt Nam được giảng dạy, ứng dụng
trong đời sống tu tập của tín đồ Phật tử, ngoại trừ các nghi thức tụng
niệm và nghi cúng được dịch ra tiếng Việt từ các nghi thức của các Tổ sư
người Hoa biên soạn. Phật giáo Khất sĩ, thiền Trúc Lâm do Thiền sư
Thanh Từ phục hưng và thiền Làng Mai dù là thiểu số nhưng đã khẳng định
được nét đặc trưng riêng của Phật giáo Việt Nam.
Xác định đặc trưng văn hóa Phật giáo Việt Nam
Thời
gian qua, Ban Văn hóa Trung ương đã đưa ra bốn lĩnh vực nghiên cứu về
văn hóa Phật giáo Việt Nam gồm: di sản, kiến trúc, ngôn ngữ và pháp
phục. Trong đó, hai lĩnh vực dễ tạo nên đặc trưng riêng cho Phật giáo
Việt Nam là kiến trúc và pháp phục. Về kiến trúc, chùa Một Cột là biểu
tượng chùa Việt Nam nhưng chỉ được sử dụng làm biểu tượng. Do đó, công
việc nghiên cứu lĩnh vực này là tổng hợp chọn ra một số chùa có kiến
trúc mẫu số chung để giới thiệu về kiến trúc Phật giáo Việt Nam. Trong
đó, màu sắc, mái ngói, họa tiết cần chú trọng. Về pháp phục, sự thật khó
phân biệt pháp phục của Tăng Ni Việt Nam với Tăng Ni Trung Quốc về màu
sắc, kiểu dáng dù chi tiết có khác. Công việc này Ban Văn hóa đã làm bốn
năm qua nên hy vọng sẽ có kết quả khả quan trong thời gian tới. Việc
tìm kiếm các tư liệu liên quan sẽ rất hữu ích cho dự án này.
Xác định đặc trưng tu tập
Phật
giáo Việt Nam không có xu hướng theo tông phái riêng như Trung Quốc hay
Nhật Bản mà là theo xu hướng tổng hợp Thiền, Tịnh, Mật. Suốt chiều dài
lịch sử Phật giáo Việt Nam có nhiều dòng thiền du nhập vào, cũng như
được sáng lập trong nước nhưng đặc trưng tu thiền cụ thể như thế nào khó
có thể chứng minh được. Do đó, việc tìm lại các tài liệu hướng dẫn tu
tập và khảo sát những tự viện nào đang thực hành theo phương pháp mà các
dòng thiền nêu trên hướng dẫn là rất cần thiết để xác chứng pháp tu tập
đặc trưng của Phật giáo Việt Nam. Từ thế kỷ XVII khi tiếp nhận Phật
giáo truyền từ Trung Quốc vào, mặc dù các tự viện trên danh nghĩa thuộc
các dòng thiền nhưng sự tu tập chủ yếu dựa vào hai thời công phu, niệm
danh hiệu Đức Phật A Di Đà và thực hành các nghi thức sinh hoạt thiền
môn. Thiền, Tịnh, Mật kết hợp nhưng trì danh hiệu Phật A Di Đà chiếm ưu
thế. Phương pháp tu này cũng không khác so với Phật giáo Trung Quốc. Vài
thập niên gần đây, dòng thiền Trúc Lâm do Thiền sư Thanh Từ phục hưng
và thiền Làng Mai do Thiền sư Nhất Hạnh sáng lập có nét đặc trưng riêng
nhưng chưa được áp dụng một cách rộng rãi trong cộng đồng Phật giáo Việt
Nam. Bên cạnh đó, Phật giáo Nam tông và Khất sĩ tạo sự khác biệt với
Phật giáo Bắc tông Việt Nam nhưng là thiểu số. Như vậy, việc nghiên cứu
pháp tu đặc trưng của các tông phái, các dòng thiền trong Phật giáo Việt
Nam là rất cần thiết để khẳng định nét riêng của Phật giáo Việt Nam nếu
có.
Xác định sự đóng góp của các vị Tổ sư, cư sĩ cho Phật giáo Việt Nam
Phật
giáo Việt Nam được duy trì và phát triển là do Tăng Ni và Phật tử cư sĩ
đóng góp công sức qua nhiều lĩnh vực. Do đó, những Tăng Ni, cư sĩ nào
có đóng góp to lớn cho Phật giáo Việt Nam cần phải nghiên cứu để phổ
biến. Các lĩnh vực cần tìm hiểu gồm: sáng lập tông phái, pháp môn tu
tập, công trình để lại, giáo hóa đồ chúng, phát triển tự viện… Gia tài
của chư vị ấy để lại còn ảnh hưởng đến Phật giáo Việt Nam hiện tại như
thế nào? Những lời giáo huấn có được giảng dạy trong các trường hay tự
viện hiện nay? Về phần này có thể phân hai nhóm là Tổ sư ngoại quốc và
Tổ sư, Phật tử Việt Nam. Chẳng hạn, khi nhắc đến chư Tổ sư như Khương
Tăng Hội, Vạn Hạnh, Trần Nhân Tông, Huyền Quang, Chân Nguyên, Nguyên
Thiều… thì đặc trưng pháp tu của chư Tổ là gì, thiền ngữ gì gắn với chư
Tổ ấy để làm bài học đưa vào giảng dạy ứng dụng trong cộng đồng Phật
giáo Việt Nam…?
Cách thức thực hiện
Thực
tế mà nói, Phật giáo Việt Nam 2.000 năm lịch sử chỉ đúng ở miền Bắc.
Miền Trung và miền Nam được sáp nhập vào để trở thành nước Việt Nam chỉ
khoảng 5, 6 thế kỷ. Phật giáo miền Trung và miền Nam cho tới nay phần
lớn cũng sinh hoạt theo cách chư Tổ sư người Hoa truyền dạy. Do đó, việc
nghiên cứu đặc trưng Phật giáo Việt Nam chủ yếu là ở miền Bắc và ở miền
Trung, miền Nam chỉ từ thời Lý-Trần đến nay. Trước hết, Phật giáo phải
phân công cụ thể ban viện thực hiện, chẳng hạn Viện Nghiên cứu, kết hợp
với các ban liên quan chọn nhân sự thực hiện. Thứ đến, ban được phân
công chọn người đi thu thập tư liệu từ các tự viện, thư viện, cục lưu
trữ quốc gia và từ các nước có tư liệu về Phật giáo Việt Nam. Sau đó,
ban phân loại chủ đề, tạo mục lục các tư liệu để kêu gọi Tăng Ni, Phật
tử có năng lực, có chuyên môn, có sở thích… tham gia dịch, nghiên cứu.
Giáo hội là cơ quan chủ quản nên có trách nhiệm vận động tài chính thực
hiện và có chính sách ưu đãi thích hợp cho người tham gia.
Kết quả mong đợi
Sau
quá trình thu thập tư liệu, dịch, nghiên cứu và xuất bản, chúng ta sẽ
có bằng chứng để xác định những đặc điểm đặc trưng của Phật giáo Việt
Nam. Những đặc điểm đó cần đưa vào giảng dạy cho tất cả Tăng Ni và rộng
ra cho Phật tử hiểu rõ về Phật giáo Việt Nam. Chẳng hạn, Phật giáo Việt
Nam thời Lý-Trần quy định xuất gia, học luật nào, tổ chức giới đàn, nghi
thức tụng niệm, các nghi lễ sinh hoạt… có gì đặc trưng, và nó giống hay
khác với cách Tăng Ni đang tu tập hiện nay. Việt Nam có những Tổ sư nào
có thể nêu gương học tập như chư Tổ Trung Quốc Bách Trượng, Liên Trì,
Ấn Quang… mà Tăng Ni Việt Nam hay trích dẫn.
Thực sự, khi có bản
đồ nghiên cứu Phật giáo Việt Nam thì Tăng Ni và Phật tử mới hy vọng tham
gia đóng góp dịch thuật, nghiên cứu một cách hiệu quả, không trùng lặp
lãng phí. Dựa trên kết quả đạt được, Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt
Nam sẽ được bổ sung nguồn tư liệu mới của riêng Phật giáo Việt Nam.
Thích Hạnh Chơn/Nguyệt san Giác Ngộ
______________________
(1) Lê Mạnh Thát, Lịch sử Phật giáo Việt Nam, tập 1, HCM: NXB.TP.HCM, 1999, tr.656-657.
(2) Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, tập 1, Hà Nội: NXB.Văn Học, 1994, tr.479.