Trong
Phật giáo Ðại thừa, Giới không phải chỉ là một căn bản chung cho
mọi người
tu Ðạo của bất cứ tông phái nào, Giới cũng không phải chỉ là một
bài học
vỡ lòng về Ðạo, hay chỉ là một sự thực hành phụ kèm theo các sự
thực hành
chính yếu của Thiền Quán, mà Giới còn là một chủ trương và thực
hành chính
yếu lập thành một Tông phái riêng rẽ quan trọng nữa. Mà đã là một
tông
phái thì phải có giáo thuyết lập trường chính xác và rõ ràng.
Chính vì thế
mà mọi ý nghĩa về Giới mới được quán sát và giải thích tinh vi
tường tận
qua các tổ sư của Luật tông. Sự hiểu lầm hay lơ là về thật nghĩa
của Giới
thường bị các tổ Luật tông than phiền và chỉ trích... Dù gì đi nữa
thì bất
kể tông phái sai khác, Giới vẫn là một cánh cửa mà ai cũng phải di
qua nếu
họ muốn vào trong kho tàng của đạo Phật. Vậy, Giới là gì vậy ?
Phần trình
bày sau đây chỉ nói về các ý nghĩa căn bản chung của Giới trong
khuôn khổ
của Giới luật tại gia mà thôi.
Thường
khi nói
đến thọ Giới, chúng ta thường hay nghĩ ngay là không được làm điều
này,
không được làm điều kia, phải giữ gìn các điều cấm giới rất khó
giữ mà
phạm vào là coi như có tội, chúng ta cảm thấy Giới như một sự gò
bó
khó
chịu, một gánh nặng phải đeo mang. Nếu có ai trì giữ được
nghiêm ngặt
thì quá lắm được mọi người xung quanh khen tặng và thán phục,
nhưng rồi để
làm gì thì chúng ta không mấy rõ ràng lắm. Ðại đa số thì chỉ lo là
"
khó
lắm ! giữ không được tội chết !". Chúng ta làm như thể rằng là
đức
Phật, khi Ngài chế lập ra Giới, là vô tình hay cố ý đã tạo cho
chúng ta
một vấn đề khó xử. Có người thành tâm
muốn thọ Giới, song băn khoăn
"tham sân si như mình thì làm sao
giữ
giới đây ?".Có người tự hào là chỉ có mình là
giới hạnh
vẹn toàn, có người chuyên dùng Giới để xoi mói và chỉ trích người
khác.
Có
phải chăng
đức Phật chế lập ra Giới là để tạo ra tất cả mọi vấn đề nêu trên ?
Dĩ
nhiên là Không ! Và để xác định cái chữ "
Không" này, chúng
ta cần
phải xác định lại về ý nghĩa chính yếu của Giới vậy.
Trước
tiên nói
đến Giới, chúng ta cần thiết phải phân biệt ngay ra hai thành phần
chính
yếu của Giới, đó là
Giới thể và
Giới tướng.
Khi nghe nói đến Giới, lập tức người ta nghĩ ngay là không được
làm điều
này, không được làm điều kia, nghĩ ngay đến các giới điều mà mình
phải trì
giữ. Các điều không được làm ấy, các Giới điều ấy, được gọi là
Giới
tướng. Chúng ta cho rằng thọ Giới có nghĩa là nhận lãnh
các
Giới tướng ấy mà trì giữ, và đó là toàn thể ý nghĩa của
thọ Giới.
Nghĩ như thế là một thiếu sót quá lớn và dễ đưa đến các nhận định
sai lạc
hoàn toàn về ý nghĩa chân chính của Giới. Trái lại và đúng ra, khi
nói đến
chữ Giới, tức nói đến
Giới thể, khi nói đến thọ
Giới, tức
nói là thọ nhận
Giới thể ; khi trong Luật nói một
người đắc
Giới, thì có nghĩa là người đó đắc Giới thể chứ không phải là
Giới
tướng, tức các giới điều này nọ. Tất cả toàn bộ các nghi
thức thọ
Giới đều là các pháp thức truyền trao và thọ nhận
Giới thể
chứ không phải là truyền trao hay thọ nhận
Giới tướng.
Vậy
Giới thể là gì vậy ?
Ðức
Phật không
bao giờ giết hại dù là đối với bất cứ chúng sinh loại nào. Loài
người
chúng ta, đa số chỉ không giết chính loài người, chứ còn các loài
khác thì
chúng ta vẫn giết hại như thường. Ngay cả đối với loài người, đôi
khi
chúng ta chỉ không giết người lành, chứ còn kẻ ác, kẻ thù thì vẫn
coi là
giết được. Vậy khi chúng ta không giết hại một người hiền, thì
hành động
không giết của chúng ta có khác gì vói hành động không giết của
đức Phật
hay không ? Trên mặt hiện tượng thì không khác nhau, song trong
Luật cho
là không hề giống nhau chút nào. Vì hành động không giết của chúng
ta chỉ
giới hạn nơi người hiền mà thôi, với kẻ ác và kẻ thù chúng ta có
thể giết
; trong khi đức Phật hiền hay ác, thân thay thù, Ngài cũng không
bao giờ
giết. Vậy nếu tôi cũng không giết ai hết dù là kẻ ác hay người thù
thì
phải chăng hành động không giết của tôi sẽ không khác gì với hành
động
không giết của đức Phật ? Vẫn khác, vì hành động không giết của
tôi vẫn
chỉ giới hạn nơi loài người mà thôi ; còn Phật không giết là đối
với tất
cả mọi loài hữu tình. Nếu tôi cũng vậy, không giết bất cứ loài hữu
tình
nào hết, thì có khác gì với hành động không giết của đức Phật hay
không ?
Vẫn khác, vì có thể gặp trường hợp chẳng đặng đừng tôi vẫn phải ra
tay
giết như thường ; Phật không vậy, dù là bất cứ trường hợp nào, tế
nhị ra
sao đi nữa, Ngài cũng không giết. Vậy nếu tôi cũng thế, thà là mất
mạng
của chính mình chứ quyết không giết bất cứ loài nào trong bất cứ
hoàn cảnh
nào, như thế tôi có có được hành động không giết của đức Phật rồi
hay chưa
? Vẫn chưa, vì hành động dứt khoát không sát của tôi vẫn chỉ giới
hạn nơi
hiện tại và trong một khoảng không gian hạn hẹp này thôi ; trong
khi hành
động không sát của đức Phật thể nhập khắp hết mười phương và ba
thời vô
cùng tận. Song nếu tôi cũng thế, tôi sẽ không sát khắp cùng hết
mười
phương và ba thời thì sao đây ? Không lẽ vẫn không phải là hành
động không
sát của đức Phật ? Vẫn hoàn toàn không phải ! Vì hành động không
sát viên
mãn đó của tôi vẫn đưa đến luân hồi nên ô nhiễm và không giải
thoát ;
trong khi hành động không sát của đức Phật hoàn toàn chấm dứt luân
hồi nên
thanh tịnh và giải thoát.
Bằng
mọi cách,
cho dù tôi có thực hành các điều không sát sinh, không trộm cắp,
không dâm
dục, không nói láo v.v... có vẹn toàn đến đâu đi nữa, tôi vẫn chỉ
là người
làm thiện chứ không phải là người
trì Giới. Bởi vì
các việc
làm thiện ấy vẫn đưa tôi vào luân hồi bất tận như thường ;
trong
khi Giới có nghĩa là vượt thoát ra khỏi luân hồi. Thế nên trong
Luật tông
mới nhắc nhở chúng ta cần phải biết phân biệt giữa
thiện và
Giới
là vậy. Bằng cách nào đi nữa hành động không giết của chúng ta vẫn
chỉ là
thiện luân hồi, và chỉ có hành động không giết của đức Phật
mới là
Giới giải thoát. Tại sao tôi không thể y như đức Phật mà tôi vẫn
chỉ có
thiện thôi chứ không sao có Giới được ?
Bởi
vì làm sao
đi nữa thì tôi vẫn là tôi, Phật vẫn là Phật. Có nghĩa là bản thể
của tôi
luôn luôn chỉ là vô minh chấp ngã, tham sân si, trong khi bản thể
của Phật
luôn luôn lại là giác ngộ vô ngã, thanh tịnh giải thoát. Từ bản
thể thanh
tịnh giải thoát vô ngã này tự động đức Phật, đối với vô lượng pháp
giới
chúng sinh trong ba thời mười phương, không bao giờ lại giết,
trộm, dâm
hay vọng... Các hành động không giết, không trộm... này có bản thể
là
thanh tịnh giải thoát giác ngộ vô ngã, nên chúng được gọi là Giới.
Trong
khi các hành động không giết... của tôi được điều động từ bản ngã
của tôi,
từ tâm phân biệt phải trái đúng sai, từ tình cảm thương ghét nặc
mùi tham
sân si của tôi, bản thể của chúng ô nhiễm như thế, thế nên chúng
chỉ là
thiện chứ không sao là Giới được.
Do
đó, nếu tôi
muốn các hành động không giết v.v... của tôi trở thành Giới, thì
tôi phải
làm sao cho các hành động
thiện ấy có được một bản thể
thanh tịnh
giải thoát y như của đức Phật. Khi các hành động
thiện này
có được
một bản thể thanh tịnh như thế rồi thì chúng mới được gọi là các
điều
Giới tướng, và bản thể thanh tịnh giải thoát kia của
các điều
Giới tướng kia được gọi là
Giới thể.
Thọ
Giới do đó
chính là để thọ nhận Giới thể này vậy. Do đó, điều một người thọ
Giới phải
phân vân là làm sao để đắc được Giới thể chứ không phải là có giữ
được
điều này hay giữ được điều kia hay không. Và thọ Giới không có
nghĩa là
vào một kỷ luật sắt thép nào đó để rồi cứ tiếp tục lòng vòng trong
các cõi
luân hồi bất tận, mà thọ Giới có nghĩa là thâu nhận lấy một bản
thể thanh
tịnh giải thoát vào tâm mình để rồi ra sức trì giữ và phát triển
cho bản
thể ấy trở thành quả giải thoát viên mãn khỏi luân hồi. Thọ Giới
như thế
là gieo nhân mà giải thoát Niết Bàn là kết quả, con đường hay tiến
trình
từ nhân đến quả gọi là Ðạo. Người thọ Giới như thế là người cất
bước đi
vào con đường Ðạo giải thoát, một con đường tâm linh, chứ không
phải là
một người hành thiện hay một nhà đạo đức.
Như
vậy, vấn
đề thọ Giới hoàn toàn thuộc về con đường Ðạo. Khi một người lưỡng
lự không
biết là mình có nên thọ Giới hay không, thì đó có nghĩa là mình có
nên
chấp nhận đức Phật làm Thầy hay không, có nên quy y về với Tam Bảo
hay
không, có nên đi theo Ðạo Phật, tức con đường mà đức Phật chỉ ra,
để đạt
đến cứu cánh giải thoát hay không, chứ không phải lưỡng lự chỉ là
vì chưa
giữ được giới điều này hay làm sao giữ được giới điều kia. Một khi
đã dứt
khoát là chúng ta sẽ "
theo" Ðạo Phật, thì bước đầu tiên để
đi theo
ấy chính là thọ Giới, là làm sao có được một bản thể thanh tịnh
gọi là
Giới thể cho sự tu tập của mình trở thành một sự hành đạo, tức có
nghĩa là
mình đi trên con đường Ðạo vậy. Muốn có Giới thể ấy, chúng ta cần
phải
thực hiện pháp thức thọ Giới. Vậy pháp thức thọ Giới này ra sao mà
chúng
ta có thể đạt được một Giới thể như thế ?
Pháp
thức thọ
Giới giản dị chỉ là thực hiện sự Quy Y cho chúng ta. Quy y có tác
dụng
nhằm thọ nạp lấy bản thể thanh tịnh giải thoát từ đức Phật truyền
vào
trong tâm của chúng ta để trở thành Giới thể thanh tịnh giải thoát
của
chúng ta. Các tổ Luật tông Trung Hoa dựa theo Tứ phần Luật xác
định rằng
chính ngay lúc Tam quy vừa chấm dứt là lúc thọ đắc Giới thể ; và
đồng thời
các ngài thể theo Thành Thật Luận và Duy Thức Tông mà xác định
tiếp rằng
Giới thể ấy là
chủng tử Ðạo thanh tịnh và giải thoát
được
gieo vào trong A Lại Gia Thức của người thọ giới, nhờ có
chủng
tử như thế nên khi chúng ta ra sức tu hành mới có
được kết
quả của Phật Ðạo. Tam quy để có Giới thể như thế là căn bản
duy
nhất
phải có của toàn thể tòa kiến trúc của Ðạo pháp, như một
nhà trồng
trọt muốn có hoa mầu để thu hoạch thì cần thiết nhất là phải có
hạt giống
để mà gieo cấy trước đã. Tâm chúng ta là đất ruộng, Giới thể là
hạt giống,
hành động quy y là gieo hạt giống vào đất ruộng, nhận lấy Giới
tướng để tu
trì là cầy cấy tưới bón chăm sóc cho hạt giống tăng trưởng. Ðạo
quả là vụ
mùa thu hoạch được.
Quy y
do đó có
tầm vóc quan trọng bậc nhất đối với sự tu hành trên con đường Ðạo
Phật,
song vẫn luôn luôn bị người Phật tử lơ là và coi nhẹ, chúng ta
thường coi
đó là một hình thức lấy lệ. Chúng ta cho rằng tu hành là phải thực
hành
pháp môn này hay pháp môn kia thì mới là tu hành. Nhưng nếu chúng
ta không
có được một
chủng tử Ðạo trong tâm thì hành pháp môn
nào
cũng chỉ là xây lâu đài trong không. Thế nên chúng ta cần thiết
phải quy y
thọ Giới để mà có được
chủng tử của Ðạo gọi là
Giới
thể trước khi áp dụng tu tập bất cứ pháp môn nào.
Một
cách tổng
quát quy y thọ Giới thể có nghĩa như sau : vì bản thể của chúng ta
căn bản
là tham sân si, nên chúng ta không hề có
chủng tử
của Ðạo ;
chúng ta lại muốn đạt đến kết quả của Ðạo, nên chúng ta hết sức
cần có
chủng tử ấy. Phật là
quả của Ðạo, Ngài là
toàn
thể những gì là Ðạo, thế nên một khi chúng ta muốn có được
chủng
tử
Ðạo, bắt buộc chúng ta phải nương về Ngài, mong rằng Ngài sẽ
truyền đạt
cái bản thể Ðạo ấy lại cho chúng ta. Ðức Phật thành Ðạo không
ngoài mục
tiêu là để cứu độ tất cả chúng sinh, phương tiện để cứu độ này
chính là
Tam Bảo, tức là nơi mà bản thể thanh tịnh giải thoát và giác ngộ
hiển hiện
ra trọn vẹn toàn thân, được coi như một suối nguồn truyền đạt Ðạo
chủng
đến cho tất cả chúng sinh vậy.
Lại
vì Ðạo hay
bản thể thanh tịnh giải thoát của Ngài chính là bản
Tâm của
Ngài,
thế nên Ngài không thể truyền lại cho chúng ta như truyền một cái y
hay
truyền một cái bát, và chúng ta cũng không thể thọ nhận bằng cách
đưa tay
ra lấy như lấy cái y hay cái bát được. Mà Ngài truyền Ðạo là
truyền từ Tâm
của Ngài qua âm thanh và chữ nghĩa bằng cách nói Pháp (
tức ngữ
nghiệp),
và chúng ta đón nhận lấy cũng bằng tâm của chúng ta qua sự tác ý
lắng nghe
âm thanh từ ngữ của Ngài, rồi tư duy về các ý nghĩa của các từ ngữ
ấy. Tâm
thanh tịnh của Ngài, xuyên qua các ý nghĩa và các từ ngữ ấy, sẵn
sàng để
thâm nhập vào trong
tâm địa của chúng ta. Nếu chúng
ta phát
lòng tin tưởng và mong muốn đi theo Ngài, có được Ðạo như Ngài,
thì lúc ấy
chúng ta cần phải dùng đến ba nghiệp mà thực hiện pháp thức Tam
quy, nhờ
đó Tâm đạo thanh tịnh giải thoát và giác ngộ của Ngài sẽ truyền
thẳng vào
tâm chúng ta để trở thành Giới thể trong
tâm chúng
ta.
Lại
vì
tâm
của chúng ta vẫn luôn là tâm phiền não vô mình ngã chấp, thế nên
các Giới
pháp mà đức Phật truyền sang
tâm chúng ta khi ở nơi Tâm
Ngài thì là
một kết quả hoàn toàn viên mãn thanh tịnh. Khi truyền qua
tâm
chúng
ta thì các Giới pháp thanh tịnh ấy bị pha trộn lẫn lộn với các
pháp phiền
não vô minh ngã chấp nơi tâm chúng ta, song Giới pháp thanh tịnh
ấy không
hề bị ô nhiễm lây mà luôn luôn giữ nguyên tính chất thanh tịnh của
mình.
Có điều nó không hiển lộ ra rõ ràng viên mãn như một kết quả, nó
được coi
là một
chủng tử thanh tịnh trong lòng phiền não, mà
trong
Luật và Luận gọi là Giới thể
vô biểu.
Chính
nhờ
chủng tử vô biểu này mà người tu
đạo mới
có được kết quả giải thoát vậy. Tại sao lại gọi Giới thể là
vô
biểu
?
Theo
Luật và
Luận nói, khi thọ Giới xong rồi, giới tử đã đắc Giới thể, khi ra
khỏi giới
tràng tâm của giới tử trở lại trạng thái bình thường hằng ngày,
nghĩa là
các phiền não tiếp tục khởi lên quấy nhiễu, giới tử có thể khởi đủ
thứ ác
tâm nữa, song cái
chủng tử Giới thể
kia vẫn
tiếp tục có mặt liên tục trong tâm của giới tử hoàn toàn rất ẩn
mật, như
hạt giống ẩn kín dưới mặt đất không hiển lộ ra bên ngoài, nên được
gọi là
vô biểu.
Như
thế, ý
nghĩa thọ Giới rõ ràng là một hoạt động "
truyền đạo"
hay "
điểm
đạo", hay đúng hơn là một hoạt động "
lấy tâm truyền
tâm"
giống như khẩu hiệu "
dĩ tâm truyền tâm"
phổ
thông trong tông Thiền. Tuy nhiên sự khác biệt vẫn là rõ ràng giữa
một
đàng là
Tông môn (tức Thiền tông) một đàng là
Giáo
môn (tức tất cả các tông phái Ðại thừa khác ngoài
Thiền).
Trong khi với Thiền, tâm được truyền ở đây chính là tâm của người
học đạo,
chứ không phải là tâm của một ai khác từ bên ngoài truyền vào, thế
nên
Thiền thích nói "
dĩ tâm ấn tâm" hơn là "
dĩ
tâm truyền tâm". Vì với Thiền chính tự tâm của chúng ta
là Phật
rồi, thì tại sao lại còn cần phải có Phật khác truyền vào nữa ?
Trong khi
với Luật tông, mà vốn là căn bản của tất cả mọi tông phái khác,
thì tâm
của chúng ta là tâm phiền não ô nhiễm, khác hẳn với tâm của Phật
là giác
ngộ và thanh tịnh. Ðã đành Luật tông cũng chấp nhận rằng là tất cả
chúng
sinh đều có Phật tính, tâm chúng sinh cũng vốn là bản giác đồng
đẳng với
tất cả chư Phật, song chúng sinh vẫn là chúng sinh và Phật vẫn là
Phật
khác hẳn nhau, như nước trong nước đục thì cũng đều là nước, song
không
phải vì vậy nước đục cũng chính là nước trong.
Thiền
tông
truyền tâm là chỉ thẳng ra (trực chỉ) cho người học cái tâm thể
siêu việt
thường hằng phi thời gian phi không gian mà vốn sẵn có ngay đó của
họ, và
tâm này được trực tiếp truyền đến kẻ học bởi một vị Thầy
thật
sự giác
ngộ.
Trong
khi
trong Luật tông, cái tâm thể siêu việt kia không phải là vấn đề
của Ðạo,
của sự tu tập hành đạo với nguyên tắc nhân và quả. Tâm chúng sinh
có hai
phương diện, nơi phương diện "
tâm tức là Phật" thời
tất cả
tịch diệt bình đẳng từ Phật cho đến ruồi muỗi côn trùng, nơi ấy
không có
chuyện nhân quả tu tập, không có phân biệt tội phúc thánh phàm gì
hết, nơi
phương diện này không có tâm nào truyền tâm nào hết, quá lắm là
tâm này ấn
khả cho tâm kia mà thôi. Cũng như nếu chỉ nói về bản thể của nước
không
thôi, thì hễ cứ là chất lỏng thấm ướt thì gọi là nước, chứ không
có phân
biệt gì trong đục, mặn nhạt, nước thuốc nước độc gì hết, tất cả
mọi loại
nước đều bình đẳng. Song một khi đã nói đến tu tập tức nói đến
nhân quả,
đúng sai hay dở, thì phải trở qua phương diện "
tâm chúng sinh
căn bổn
là phiền não", nơi phương diện này Phật là Phật và chúng sinh
là chúng
sinh, chúng sinh là đau khổ phiền não và Phật là giải thoát thanh
tịnh, và
chúng sinh phải thọ Giới tu tập vô lượng vô biên kiếp mới thành
Phật được,
nơi phương diện này người tu muốn có Ðạo chủng thì phải dùng
tâm
phiền
não của mình mà thọ nhận lấy Ðạo pháp ấy từ Tâm Phật truyền
sang. Cũng
như cùng là nước, song trong vẫn khác với đục, mặn vẫn khác với
ngọt, độc
vẫn khác với thuốc. Tâm chúng sinh như là nước có thuốc độc, Tâm
Phật như
nước có chất giải độc, nay thọ Giới là truyền Tâm Phật vào tâm
chúng sinh,
không khác gì cho nước giải độc vào trong nước độc để trị cho hết
độc, chứ
không phải cứ nói "
nước độc nước thuốc cũng đều là nước",
thế nên
cứ chỉ thẳng ra cho thấy nước độc cũng chính là nước thì đó là
chân lý tối
thượng rồi. Và người truyền ở đây chính là đức Phật hiện thân qua
Tam Bảo,
còn giới sư truyền giới chỉ là trung gian mà thôi. Bởi vì khi thọ
nhận
Giới thể là quy y về với Tam Bảo để thọ nhận lấy phần bản thể
thanh tịnh
ấy nơi Tam Bảo, chứ không phải là quy y riêng với cá nhân của giới
sư mà
có thể có được Giới thể ấy.
Chính
vì trong
Luật tông vị thầy chỉ là trung gian để Tam Bảo truyền tâm cho
mình, thế
nên vị thầy không bắt buộc phải giác ngộ, mà chỉ cần là vị giới sư
thọ
giới trước mình và hiểu biết rõ ràng về cách thức thọ giới để
hướng dẫn và
chỉ bảo cho mình, thầy và trò đều là phàm như nhau và đều được Tam
Bảo
truyền Ðạo sang cho. Do đó cách truyền Ðạo trong Luật tông là phổ
thông
cho tất cả mọi hạng chúng sinh, không cần phải là một vị "
thầy"
giác ngộ đặc biệt nào đó và người đệ tử phải là một nhân vật
hữu duyên
với căn tính siêu việt nào đó, như sơ tổ Ðạt Ma quán vách nhập
định chín
năm để chỉ đợi chờ có một người mà truyền tâm ấn, đó là nhị tổ Huệ
Khả với
căn tính siêu việt sẵn sàng chặt tay cầu Ðạo. Với Luật tông, Tam
Bảo là
Ðạo và là nền tảng Ðạo cho tất cả mọi loài chúng sinh, mọi hạng
chúng sinh
bất kể căn tính cao hay thấp đều đắc được Giới, nghĩa là đều được
Tam Bảo
truyền Ðạo sang cho mình, chỉ miễn là mình thực hiện đúng cách
pháp thức
thọ Giới. Vì thế pháp thức thọ giới hết sức quan trọng trong Luật
tông
vậy.
Người
thọ
Giới, tức là giới tử, cần phải có một giai đoạn chuẩn bị để hiểu
rõ về các
ý nghĩa của Tam Bảo, của Giới pháp, của Giới thể, rồi phải biết
cách quán
tâm vận tưởng, đại khái như sau : vì bản thể của đức Phật là giác
ngộ
thoát khỏi tất cả mọi xung lực của kiến chấp và phiền não tham sân
si, thế
nên bản thể ấy hoàn toàn thanh tịnh giải thoát và chấm dứt tất cả
mọi ác
nghiệp đối với toàn thể pháp giới chúng sinh. Sự thanh tịnh và
chấm dứt ác
nghiệp này gọi là Giới pháp, vì pháp giới chúng sinh vốn vô lượng
nên Giới
pháp này cũng theo đó mà thành vô lượng. Do đó giới tử muốn đón
nhận Tâm
giới thanh tịnh ấy của Phật vào tâm mình, giới tử cần phải lấy
toàn thể
pháp giới chúng sinh vô lượng làm cảnh đối tượng để quán và đồng
thời phải
phát khởi một tâm phẩm thanh tịnh là dứt khoát thực hành giới đối
với vô
lượng chúng sinh như thế. Thêm vào, giới tử phải thật tâm chân
thành và
tha thiết mong muốn thâu nhận hết vô lượng vô biên giới thanh tịnh
ấy vào
tâm mình, trong Luật gọi là tâm "
thuần trọng". Ðể
được như
thế, giới tử phải quán tưởng thân của mình rộng lớn bao trùm hết
hư không
giới để thâu nạp trọn vô lượng Giới pháp vào thân tâm mình, trong
Luật
tông nói :
"nếu Giới pháp vốn vô lượng này mà lại là vật chất
thì khi
thâu nhận vào trong thân này, thân này sẽ nổ tung ra. Cũng vì Giới
pháp là
tâm pháp, thế nên nhờ vào nghiệp lực quán tưởng bất khả tư nghị
của tâm,
mà chúng sinh mới thâu nạp Giới pháp được..."
Sau
khi đã ý
thức rõ ràng hết mọi ý nghĩa chân thật lợi ích vô cùng của Giới
rồi, và
sau khi đã khởi tâm đúng phẩm, quán tưởng đúng cảnh rồi, giới tử
còn cần
phải sám hối cho ba nghiệp thanh tịnh nữa. Với Luật tông, cũng như
Mật
tông hay Tịnh Ðộ tông, ba nghiệp thân khẩu ý là căn bản và là
phương tiện
duy nhất của tất cả mọi sự tu tập thực hành. Sự thực hành giữa ba
nghiệp
hầu như quan trọng ngang nhau, chứ không thiên hẳn hoàn toàn về
tâm như
các tông phái ưa tu thiền quán. Ba nghiệp là phương tiện duy nhất
để
chuyển biến tất cả tinh túy của Tâm Phật truyền sang tâm mình.
Ngay đức
Phật, khi Ngài muốn cứu độ chúng sinh thì Ngài cũng không có
phương tiện
nào hơn là ba nghiệp của Ngài. Vì thế ba nghiệp cần phải dọn sẵn
cho thanh
tịnh để chuyẩn bị thâu nạp Giới pháp của Phật chuyển sang thành
Giới thể
của mình.
Nhờ
có hiểu rõ
về mọi ý nghĩa của Giới rồi, giới tử mới có tâm nguyện tha thiết
trân quý
thọ Giới và phát tâm quán tưởng đúng pháp. Tâm nguyện ấy thúc đẩy
hai
nghiệp thân và khẩu của giới tử vào đến giới tràng, trước giới sư,
sẵn
sàng hoan hỉ chân thành thực hiện pháp thức Tam quy. Ðây cũng
chính là
giai đoạn chính thức hoạt động của ba nghiệp để thọ nạp Giới thể :
giới tử
chắp tay quỳ ngay ngắn (
tức thân nghiệp), lập lại ba lần
theo giới
sư lời pháp ngữ Tam quy (
tức ngữ nghiệp), và tâm đồng thời
thực
hành ba quán pháp (
tức ý nghiệp). Pháp thức Tam quy vừa
chấm dứt là
giới tử đắc Giới thể. Tại sao Giới lại chỉ đắc được vào ngay sau
lúc pháp
thức Tam quy vừa chấm dứt này ?
Bởi
vì khi nào
cái tâm chấp ngã của chúng ta chịu thật sự quy y về Tam Bảo, thì
lúc ấy
Tâm Phật hay năng lực của Pháp Phật mới thật sự thâm nhập được vào
trong
tâm của chúng ta mà thôi, và Tam Bảo mới thật sự trở thành bản thể
đạo
thanh tịnh cho mọi sự tu hành của chúng ta. Còn cho dù chúng ta có
tu hành
đúng y như lời Phật dạy mà không có quy y Tam Bảo, thì coi như
chúng ta
không hề đi theo con đường của Ðạo Phật, bởi vì một sự tu hành như
thế chỉ
là tu cho "
tôi", theo ý thích "
của tôi", tất cả do "
tôi"
điều động làm chủ, cái "
tôi" vẫn luôn luôn là bản thể của
sự tu
hành ấy, cho nên nó không bao giờ đưa đến một kết quả đúng nghĩa
của Ðạo
là giác ngộ và giải thoát.
Ngoài
ra, trên
phương diện giáo lý thời nếu do một ý muốn thiện hay ác điều động
mà thân
khẩu phát khởi lên các hành động lộ rõ ý muốn ấy ra, thì các hành
động của
thân khẩu này được gọi là
biểu nghiệp ; và ngay khi
các
biểu nghiệp ấy hoàn tất, thì các
biểu nghiệp
ấy
không chấm dứt luôn song tiếp tục để lại một "
ảnh
hưởng" của chúng trong tạng thức không hề lộ rõ ra ngoài,
gọi là
vô biểu.
Vô biểu
này chính là nhân để sẽ mang lại quả báo đáp lại tương xứng vói
các hành
động thiện ác nọ. Do đó muốn có nhân chủng
vô biểu
của Ðạo gọi là Giới thể, thì dù tâm nguyện đã tha thiết chắc chắn
rồi,
song vẫn phải đợi đến khi hai
biểu nghiệp
thân
và khẩu quy y xong xuôi thì Giới thể mới thành tựu vậy.
Theo
Luật tông
thì Tam quy không phải là chỉ vận dụng có hai biểu nghiệp thân
khẩu mà
thôi, mà chúng ta còn phải phát khởi ý nghiệp theo ba cách quán
nữa :
khi nói lời Tam quy thứ nhất, giới tử phải quán tưởng do nghiệp
lực của
tâm thiện khao khát thọ giới của mình mà tất cả vô lượng Giới pháp
duyên
sẵn nơi vô lượng cảnh giới chúng sinh không còn ở yên nơi đó nữa,
mà bắt
đầu chuyển động để hướng về nơi giới tràng của mình. Khi nói lời
Tam quy
thứ hai, giới tử quán thấy vô biên Giới pháp quy về đến giới tràng
tụ lại
trong hư không ngay trên đỉnh đầu của mình như một đài mây sáng
rực khổng
lồ hay như một tàng lọng che trang nghiêm tuyệt diệu, chờ sẵn đó
để tưới
rót vào thân tâm mình. Khi nói lời Tam quy thứ ba, giới tử quán
tưởng tất
cả các Giới pháp ấy từ trên hư không tuôn rót qua đỉnh đầu mình,
tràn ngập
vào khắp trong thân tâm mình như tắm gội sạch tất cả mọi trần cấu
và tràn
đầy an lạc thanh tịnh. Và như thế là Giới thể thành tựu, pháp
thức thọ
Giới kết thúc. Phần còn lại sau đó là phần giới sư trao Giới
tướng.
Theo
Luật
tông, giới tử không nhất thiết phải thọ nhận hết mọi Giới tướng để
tu trì,
mà tùy theo khả năng và hoàn cảnh của mình mà chọn lựa từ một giới
cho đến
trọn hết năm giới. Lý do cho chọn lựa theo khả năng và hoàn cảnh
như thế
là để cho giới tử có thể thực hành sự trì giới được, và tránh được
sự phạm
giới vì phải giữ các giới quá khả năng hay không đúng hoàn cảnh
của mình.
Nhưng lý do chính yếu nhất là thọ Giới là để đắc
Giới thể,
chứ không phải là
Giới tướng. Có được Giới thể rồi
thì sự
hành trì các Giới tướng sau đó để duy trì và làm phát triển Giới
thể này
mới có ý nghĩa và mới trở thành cần thiết và quan trọng vậy.
Trong
Luật
tông, thể theo Thành Thật Luận, còn cho phép tùy nghi mà ước định
thời
gian thọ Giới nữa. Nghĩa là giới tử có thể thọ Năm giới trong vòng
một
ngày cho đến một tháng, một đời ; và có thể thọ Tám giới (bát quan
trai)
trong vòng nửa ngày cho đến suốt đời, chứ không cố định là phải
một ngày
một đêm.
Hạn
kỳ thời
gian thọ Giới này rất quan trọng. Nếu một giới tử chỉ nói lên
thành lời rõ
ràng rằng :"
Con tên là... quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng"
thì
đó không phải là thọ Giới mà chỉ là thọ Tam quy thôi. Nếu muốn Tam
quy trở
thành là thọ Giới, thì giới tử phải nói như sau :"
Con tên là...
quy y
Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Nguyện suốt đời (hay ba tháng,
một
năm... tùy ý)
làm Ưu Bà Tắc (hoạc Ưu Bà Di, nếu là nữ)
Năm
giới".
Theo đó, Giới thể sẽ hiện hữu và có mặt trong A Lại gia thức của
giới tử
cho đến bao giờ kỳ hạn ấy chấm dứt thì Giới thể mới mất theo,
nghĩa là
người đó không còn có Giới nữa. Theo nguyên tắc thì thời hạn thọ
Giới tối
đa của tất cả các loại giới như Năm giới, Tám giới, Mười giới cho
đến Cụ
Túc giới của vị tỳ kheo, chỉ trừ Bồ Tát giới ra, là trọn đời cho
đến lúc
chết. Tại sao nguyện lại phải có một kỳ hạn như vậy ?
Bởi
vì nguyện
(
tức Tư) là một tác động của tâm thức có tác dụng làm phát
sinh
năng lực. Mỗi năng lực lại chỉ kéo dài trong một thời hạn nào đó
mà thôi,
thế nên việc ước định hạn kỳ là một yếu tố chính yếu trợ giúp cho
năng lực
của nguyện phát sinh. Khi tôi nguyện sẽ thọ Giới trong vòng một
tháng, thì
năng lực hành giới sẽ phát tiết ra đúng một tháng như vậy. Nếu một
tâm
nguyện mà không có thời hạn nào hết, thì lực của nguyện cũng vẫn
phát sinh
như thường, song nó có thể dập tắt, nghĩa là đổi ý bất cứ lúc nào
nếu lại
có một ý nguyện khác khởi lên. Do đó, thọ Giới phải có ước nguyện
hạn kỳ
rõ rệt.
Ngoài
ra mỗi
loại giới đều có Giới thể riêng, như Năm giới có Giới thể của Năm
giới,
Tám giới có Giới thể của Tám giới v.v... Do đó mà Tam quy tuy là
một hình
thức, song tùy theo có bao nhiêu loại giới thì có bấy nhiêu loại
Tam quy,
và dĩ nhiên khi thọ bất cứ loại giới nào, trừ Tỳ kheo giới và Bồ
Tát giới,
chúng ta cũng đều phải thực hiện pháp thức Tam quy để đắc Giới thể
của
loại giới ấy.
Những
gì được
đề cập đến trong suốt bài này tuy là những yếu tố chính yếu và căn
bản của
Giới luật nói chung, song vẫn chưa bao quát được hết mọi lãnh vực
của
Giới, như Tỳ kheo giới chẳng hạn, trong lãnh vực ấy vị Tỳ kheo đắc
Giới
thể không qua pháp thức Tam quy mà bằng pháp thức Yết ma ; và nhất
là Bồ
Tát giới, một lãnh vực mà nơi đó ý nghĩa của Giới đôi khi như mang
hẳn một
bộ mặt khác lạ hoàn toàn. Song trước khi bước sang các lãnh vực
ấy, chúng
ta còn phải hiểu rằng vấn đề thọ Giới trong Luật tông là cả một lý
thuyết
tinh vi về Nghiệp mà chúng ta sẽ có dịp bàn đến trong một đề tài
riêng rẽ.
Lại còn ý nghĩa của Tam Bảo, nơi nương tựa của toàn thể chúng
sinh, kho
năng lực bất tận cung cấp vô lượng nhân chủng thanh tịnh và giải
thoát cho
vô biên chúng sinh, mà vốn là bản thể của Giới luật, dĩ nhiên là
một đề
tài tối quan trọng nên cũng cần được khảo sát riêng.
Luật
tông,
cũng như Thiền tông hay Tịnh Ðộ tông, là các tông phái chuyên về
thực
hành, nên dù hàm chứa rất nhiều ý nghĩa và giáo thuyết tinh vi
thâm sâu
song lại ít được khai triển ra cho tường tận rõ ràng, thế nên
chúng ta mới
thường hay bắt gặp các thành kiến sai lầm như : Giới luật là hình
thức gò
bó, Tịnh Ðộ là tín ngưỡng bình dân, Thiền tông là mặc tình phá
chấp. Thật
ra, Luật và Tịnh là hai tông phái của đại chúng, nhằm nối kết vào
với Tam
Bảo tất cả mọi loại chúng sinh, mọi hạng hữu tình, bất kể già trẻ,
nam nữ,
khôn ngu, lợi căn độn căn..., cho tất cả được trực tiếp mà nhận
lãnh lấy "
Ðạo
phần" từ nơi Tam Bảo hay từ nơi cảnh giới Tịnh Ðộ, lấy đó làm
vốn
liếng cho sự nghiệp giác ngộ và giải thoát của mình. Trong hai
tông phái
này không có "
guru" truyền Ðạo cá nhân, không có "
Master"
điểm Ðạo riêng rẽ nào ngoài Tam Bảo hay cảnh giới Tịnh Ðộ. Các vị
thầy chỉ
là những người bạn tốt, các thiện hữu tri thức, các kalyànamitra
của tất
cả chúng sinh ở chỗ giúp cho chúng sinh có được đại sự nhân duyên "
gặp
gỡ" được Tam Bảo và mười phương chư Phật qua cảnh giới của
Phật A Di
Ðà, và sự gặp gỡ ấy là tất cả đầu mối của sự nghiệp Ðạo của riêng
từng cá
nhân mỗi chúng sinh vậy.
Thượng
Tọa
Thích Nhất Chân
tháng 7 năm 1998