Lịch sử ghi nhận rằng, trải qua sáu năm tu
khổ hạnh ở núi Tuyết, thân thể của Bồ tát Tất Đạt Đa chỉ còn da bọc xương. Bồ
tát đã đánh đổi mọi sức sống năng động và nhiệm mầu của chính mình cho những
cơn đói lạnh khôn lường, có lúc Ngài đã rơi vào hôn mê, bất tỉnh. Song, chính
nhờ vào những kinh nghiệm thống thiết như thế mà Ngài mới ngộ ra rằng, sự hủy
diệt xác thân này để cầu Vô thượng đạo là điều phi lý vô bờ, không thể có được.
Từ đó, Bồ tát thức tỉnh, và Ngài bắt đầu tìm lại cuộc sống quân bình, một đời
sống vốn tiềm tàng một khả tính nhiệm mầu vô biên trong mỗi con người, bằng
cách ăn uống, tắm rửa và nghỉ ngơi (11); rồi đi vào thiền định.
Sau khi thành đạo, bài pháp đầu tiên mà
Phật giảng tại vườn Nai là Tứ thánh đế; trên cơ sở của pháp thoại này, nguyên
lý Trung đạo được Phật nhấn mạnh như sau: "Có hai cực đoan mà người học
đạo muốn hướng đến một đời sống giải thoát cần phải tránh xa: cực đoan thứ
nhất, nếu lấy lạc thú của thân thể làm mục đích của đời người, thì đó là một
đời sống thô bỉ và ngu xuẩn; cực đoan thứ hai, nếu sống một đời khổ hạnh ép
xác, chỉ tạo thêm khổ đau và vất vả". Đây được gọi là Trung đạo tu tập;
con đường Giữa, không rơi vào hai cực đoan. Một loại Trung đạo khác, đó là
Trung đạo giải thoát. Có nghĩa là đi vào giác ngộ và thể nghiệm chân lý từ thế
giới của thực tính Duyên khởi. Vì lẽ, đối với Duyên khởi thì mọi pháp không thể
được xem là có hay không. Do đó, Duyên khởi được xem như là Trung đạo của giải
thoát.
Cơ Sở Triết Lý Của Tam Luận Tông
Khải
Thiên
I.
Lịch sử truyền thừa của Tam Luận Tông
Tam luận tông là một trong những tông phái
của Phật giáo, thiên về duy tâm luận phủ định. Về cơ sở truyền bá và xiển
dương, Tam luận lấy kinh Bát Nhã làm nền tảng; từ Bát Nhã mà tạo ra Trung quán
luận (Màdhyamika sàstra), Thập nhị môn luận (Dvàdasadvara sàstra). Hai tác phẩm
vĩ đại này đều do Long Thọ trước tác. Bên cạnh đó, là tác phẩm Bách luận
(Satasàstra) của Đề Bà (Arya deva). Do y cứ trên ba bộ kinh luận này mà có tên
là "Tam luận". Về sau, có thêm một bộ luận kỳ vĩ nữa, cũng của Long
Thọ, là Đại Trí Độ luận (Prajna pàramità sàstra), vì thế có khi gọi là "Tứ
luận".
Mục tiêu của luận thuyết này là "phá
tà hiển chánh", do đó, những nỗ lực và bước đi táo bạo của nó đều nghiêm
túc phê bình các quan điểm sai lầm về Phật pháp của tất cả bộ phái Phật giáo
cũng như là ngoại đạo tà giáo (1). Ở đây, trước hết nó phê bình những quan điểm
sai lầm của các bộ phái Phật giáo, rồi đến phê bình những quyết đoán lệch lạc
của các nhà Đại thừa (Mahayanists). Đây là lý do khai sinh của Tam luận.
Nhưng cho đến khi Tam luận được truyền sang
Trung Hoa, thì nó bắt đầu xuất hiện như là một tông phái cùng với sự xuất hiện
của Cưu Ma La Thập (Kumàrajìva), người Kucca (Qui Tư). Từ đó, Tam luận tông ra
đời.
Khởi đầu vào thế kỷ thứ V TL, Cưu Ma La
Thập đã phiên dịch Trung luận và truyền cho Đạo Sanh, Đàm Tế và Đạo Lãng (2).
Đến thế kỷ thứ VI.TL, Pháp Lãng, một đạo sư trứ danh đương thời, truyền cho Cát
Tạng (3). Đến thế kỷ thứ VII.TL, Cát Tạng truyền cho Huệ Quán, Huệ Quán sang
Nhật năm 625 và truyền bá Tam luận tại chùa Nguyên Hưng (Gwangoji) ở Nại Lương
(Nara)m...
Sau Cát Tạng, Tam luận tông tạm dừng phát
triển (mà chuyển sang Nhật Bản bởi Huệ Quán) vì bấy giờ Huyền Trang và đệ tử là
Khuy Cơ đang hưng khởi Pháp tướng tông. Mãi đến năm 679, một vị Tăng tên là
Suryaprabhàsa đến Trung Hoa giảng Tam luận cho Hiền Thủ, từ đó dòng tân Tam
luận tông ra đời (4).
II. Cơ sở lý luận, phê bình của Tam Luận
Tông
Trong bài tụng mở đầu của Trung quán luận,
Long Thọ viết rằng:
"Bất sinh diệc bất diệt
Bất thường diệc bất đoạn
Bất nhất diệc bất dị
Bất lai diệc bất xuất
Năng thuyết thị nhân duyên
Thiện diệt chư hý luận
Ngã khể thủ lễ Phật
Chư thuyết
trung đệ nhất." (5)
Bản dịch tiếng Anh của Stcherbatsky (6):
"The perfect Buddha,
The foremost of all teachers I salute,
He has proclaimed
The principle of (universal) relativity.
Is like Blissful (nirvana),
Quiescence of plurality
There nothing appears,
Nothing has an end,
Nor is there anything eternal
Nothing is identical (with itself)
Nor is there anything differentiated,
Nothing moves,
Neither hither no thither".
Bài tụng trên có thể tạm dịch như sau:
"Đấng Toàn giác Vô thượng
Ngài đã tuyên thuyết
Nguyên lý tương đối trong vũ trụ
Như Niết bàn
Vắng lặng mọi sai biệt
Không có gì biến mất
Cũng không có gì xuất hiện
Không có gì đoạn diệt
Cũng không có gì thường hằng
Không có gì đồng nhất (với chính nó)
Cũng không có gì sai biệt
Không có gì di chuyển từ chỗ này hay chỗ
kia".
A/ Cơ sở một: Từ bài tụng trên, trước hết
chúng ta thấy chủ đích của nó được thể hiện qua hàng loạt cách ngôn phủ định
"không... không... không...". Như thế, có thể nói, cơ sở lý luận phê
bình của Tam luận (mà ở đây là Trung luận) là "phủ định biện chứng"
(dialectical negation). Và, mục đích của phủ định biện chứng của Trung luận là
"diệt hý luận" (nisprapãnca); và, luận cứ cơ bản của pháp phủ định biện
chứng này là "tứ cú" (7):
1) Hữu (sat)
2) Vô (asat)
3) Diệc hữu diệc vô (cũng có, cũng không)
4) Phi hữu phi vô (không có, không không)
Bốn luận cứ trên là một hàng rào "tối
hậu", nhằm đưa mọi lý luận trở về kết luận. Ở đây buộc đối phương phải trả
lời một cách dứt khoát; và đương nhiên sẽ không có bất kỳ một câu trả lời xuất
sắc nào có thể lẩn trốn được bốn luận cứ xác quyết này, khỏi cần bàn đến câu
hỏi, cũng không màng đến câu trả lời nữa! Do đó, nếu không nắm được luận cứ cơ
bản này, thì sẽ không hiểu được cách lý luận phê bình của phép phủ định biện
chứng.
B/ Cơ sở hai: Bước thứ hai của phép phủ
định biện chứng này, cần phải biết, đó là Bát bất (tám cái KHÔNG), hay còn gọi
là tám cái phủ định:
1 Không sinh
2 Không diệt
3 Không thường
4 Không đoạn
5 Không giống
6 Không khác
7 Không đến
8 Không đi
Như thế, trên nền tảng của tám cái phủ định
này, cái gì có thể tồn tại? Thực ra đây là sự phủ định, phủ định tất cả sắc
thái đặc thù của hiện hữu. Ở đây, hễ cái gì bám vào hữu, vô, sinh, diệt,
thường, đoạn, đồng, dị, khứ, lai thì đều là sai lầm, hay những hiện hữu nào
sinh khởi từ chúng cũng đều là sai lầm. Do đó, đặc điểm của phép phủ định biện
chứng này là phủ định liên tiếp, phủ định luôn cả cái được phủ định. Tỉ dụ, phủ
định ý niệm sinh khởi (sinh) bằng ý niệm đoạn diệt; phủ định ý niệm đoạn diệt
bằng ý niệm đến (lai); phủ định ý niệm đến bằng ý niệm đi (khứ); phủ định mọi ý
niệm trên bằng thường hằng; phủ định ý niệm thường hằng bằng đoạn diệt; phủ
định ý niệm đoạn diệt bằng đồng thể (nhất); phủ định ý niệm đồng thể bằng sai
biệt (dị); phủ định ý niệm sai biệt bằng sinh khởi,... Cứ như thế mà phủ định
sạch sẽ mọi ý niệm chấp trước bám víu vào hữu, vô, sinh, diệt, thường, đoạn,
đồng, dị, khứ, lai.
C/ Cơ sở ba: Bước thứ ba của phép biện
chứng phủ định này là Trung đạo (Middle way) tức con đường Giữa; mà, đã ở Giữa
đương nhiên phải có hai bên, hai bên đó được gọi là Nhị đế: Chân đế và Tục đế.
Từ đó suy luận, hễ bên này là Chân, thì bên kia là Tục. Tỉ dụ:
1) Hữu đối lập với vô: Hữu là tục; vô là
chân
2) Hữu vô đối lập với phi hữu phi vô: Hữu
vô là tục; phi hữu phi vô là chân.
3) Nếu cả 4 luận cứ trên là tục, thì luận
cứ nào phủ định chúng là chân. Hữu vô, phi hữu phi vô là tục; phi phi hữu, phi
phi vô là chân.
4) Nếu cả 4 luận cứ trên đều là tục, thì
luận cứ nào đứng trên chúng và phủ định chúng là chân: Phi phi hữu, phi phi vô
là tục, phi phi bất hữu, phi phi bất vô là chân,... Cứ phủ định như thế, càng
đi sâu, càng tiến gần đến cửa chân lý. Cho đến khi nào "nhất thiết, nhất
thiết buông xả hết", thì khi đó bạn đối diện với chân lý thực tại tánh
Không, không thủ đắc (apràptitva). Trên đây chỉ là lối lập luận, vậy thôi. Nó
không có một điều gì u huyền kỳ bí hết.
D/ Cơ sở bốn: Vấn đề quan trọng là sự xác
định giá trị của chữ Trung = Giữa, đầu mối là nằm ở đó.
Chúng ta biết rằng, Trung là một khoảng ở
Giữa, một khoảng trống vô cùng giá trị mà bên nào cũng muốn lấn chiếm để kéo về
phần mình. Do đó, Trung là vị trí then chốt, là điểm tựa của hai thái cực; nếu
bám víu vào một trong hai thái cực là điều sai lầm, sẽ rơi vào cực đoan, như
kiến chấp về hữu vô, về thường hằng, về đoạn diệt v.v..., nhưng nếu bám víu vào
cả hai thái cực thì cũng là điều sai lầm, như muốn đến thì lại đi, muốn sinh
thì lại diệt; nhưng ngay tại đây, nếu một phen buông bỏ mọi kiến chấp vào hữu,
vô, sinh, diệt, thường, đoạn, đồng, dị, khứ, lai, thì đó là lúc trực nhận chân
lý. Vì thế, Tam luận đề cập đến "Năm huyền nghĩa" như sau:
1) Nếu có người cho rằng, thế giới sự vật
hiện tượng này là thực sinh thực diệt, thì đó là tục đế phiến diện.
2) Nếu có người cho rằng, thế giới sự vật
hiện tượng này là bất sinh bất diệt, thì đó là chân đế phiến diện.
3) Nếu có người cho rằng, thế giới sự vật
hiện tượng này là không thực sinh, không thực diệt, thì đó là trung đạo của tục
đế.
4) Nếu có người cho rằng, thế giới sự vật
hiện tượng này là không thực bất sinh, không thực bất diệt, thì đó là trung đạo
của chân đế.
5) Nếu có người cho rằng, thế giới sự vật
hiện tượng này là không có sinh diệt hay bất sinh bất diệt, thì đó là trung đạo
được biểu thị từ sự kết hợp giữa tục đế và chân đế (Nhị đế hiệp minh trung
đạo).
Do vậy, Trung luận viết rằng: "Nếu
không nương vào tục đế, thì không thể đạt đến chân đế". Cũng như nếu không
dùng thuyền, thì không thể sang sông. Và "Tất cả đều hợp lý vì hợp lý với
Tánh Không, tất cả không hợp lý vì không hợp lý với Tánh Không". (Mk.
XXIV.14).
E/ Cơ sở năm: Cuối cùng là nguyên lý Duyên
khởi. Chúng ta biết rằng, Duyên khởi (Paticcasamuppàda) là giáo lý vô cùng quan
trọng, có một không hai trong lịch sử tôn giáo và triết Đông Tây. Đây cũng là
giáo lý thống nhất được ghi lại trong hệ thống kinh tạng Nam truyền và Bắc
truyền. Như Phật nói, Ngài và các Đức Phật thời quá khứ đều chứng đắc giác ngộ
từ giáo lý Duyên khởi (8). Từ đó, cho thấy tính cách quan trọng của giáo lý này
(9). Ở đây, nếu muốn hiểu một phần nào đó về Tánh Không, thì trước hết phải
nghiên cứu về Duyên khởi, vì nó là con đường "độc nhất vô nhị" dẫn
đến tri nhận thực tại tính Không. Duyên khởi và tính Không là hai mặt của một
thực tại, dầu nó được giải minh trên bất kỳ bình diện nào, công ước hay tuyệt
đối, tục đế hay chân đế. Duyên khởi, trên mặt hiển thị, là hiện tượng của tính
Không; và tính Không, trên cái nhìn tuyệt đối, là bản chất của Duyên khởi. Đây
là một loại hệ luận, mà nói theo ngôn ngữ của Hoa Nghiêm là "tương tức",
"tương nhập" cùng sinh khởi và cùng hiện hữu. Do đó, "tính
Không" (sunyata), nếu được xem là một loại thể tính đặc thù, một loại thể
tính mà nó luôn luôn phá hủy chính nó, phá hủy liên hồi, thì tác dụng khả thể
của tính Không là như Tâm kinh (Hridaya sutra) nói "viễn ly điên đảo mộng
tưởng", "cứu cánh Niết bàn". Như thế, Duyên khởi và tính Không
chính là khái niệm cuối cùng của ngôn ngữ vì không còn ngôn từ nào khác hơn có
thể thay thế cho nó được, khả dĩ nói về Viễn Ly (Naiskramya). Nó viễn ly mọi tự
tính (svahàva), mọi tự tướng (svalaksana). Duyên khởi như bọt bóng, bất giác từ
khi nào chẳng biết, lặng lẽ trôi theo ghềnh thác đổ, và khi chạm phải dòng
nước, nó liền biệt tăm, trở về với bản thể ư? Không. Ở đây không có bất kỳ một
bản thể nào hiện hữu cả! Vì, như theo lối nói của viễn ly, bản thể của Duyên
khởi là "Không Tự Tính" (svabhavaabhàva), nó trôi lăn từ nơi này đến
nơi kia trong cơn tuần hoàn mộng mị của những sự nối kết và nương tựa nhau (y
tha), như từng giọt nước, nối kết và nương tựa nhau để tạo thành dòng nước; còn
cái mà được gọi là dòng nước chỉ là lâm thời, nó là "duyên hội" (10)
vậy thôi. Duyên khởi là như thế.
Qua năm cơ sở như được đề cập trên đây,
chúng ta phần nào nắm bắt được những điểm khái quát về Tam luận tông, và đây
cũng là tiền đề để đi vào tìm hiểu triết học tánh Không.
III.
Nguyên lý Trung đạo (Madhyama pratipada)
Như đã được nói đến ngay từ đầu, Trung đạo
là một khái niệm do chính Đức Phật nói lên sau những biến cố quan trọng trong
cuộc hành trình trở về Niết bàn của Ngài. Nó, ngay từ thời Phật giáo Nguyên
thủy, vốn được xem là một giáo lý đặc thù trên cả hai bình diện: đời sống thực
tiễn tu hành và đạo lý đưa đến giải thoát.
Lịch sử ghi nhận rằng, trải qua sáu năm tu
khổ hạnh ở núi Tuyết, thân thể của Bồ tát Tất Đạt Đa chỉ còn da bọc xương. Bồ
tát đã đánh đổi mọi sức sống năng động và nhiệm mầu của chính mình cho những
cơn đói lạnh khôn lường, có lúc Ngài đã rơi vào hôn mê, bất tỉnh. Song, chính
nhờ vào những kinh nghiệm thống thiết như thế mà Ngài mới ngộ ra rằng, sự hủy
diệt xác thân này để cầu Vô thượng đạo là điều phi lý vô bờ, không thể có được.
Từ đó, Bồ tát thức tỉnh, và Ngài bắt đầu tìm lại cuộc sống quân bình, một đời
sống vốn tiềm tàng một khả tính nhiệm mầu vô biên trong mỗi con người, bằng
cách ăn uống, tắm rửa và nghỉ ngơi (11); rồi đi vào thiền định.
Sau khi thành đạo, bài pháp đầu tiên mà
Phật giảng tại vườn Nai là Tứ thánh đế; trên cơ sở của pháp thoại này, nguyên
lý Trung đạo được Phật nhấn mạnh như sau: "Có hai cực đoan mà người học
đạo muốn hướng đến một đời sống giải thoát cần phải tránh xa: cực đoan thứ
nhất, nếu lấy lạc thú của thân thể làm mục đích của đời người, thì đó là một
đời sống thô bỉ và ngu xuẩn; cực đoan thứ hai, nếu sống một đời khổ hạnh ép
xác, chỉ tạo thêm khổ đau và vất vả". Đây được gọi là Trung đạo tu tập;
con đường Giữa, không rơi vào hai cực đoan. Một loại Trung đạo khác, đó là
Trung đạo giải thoát. Có nghĩa là đi vào giác ngộ và thể nghiệm chân lý từ thế
giới của thực tính Duyên khởi. Vì lẽ, đối với Duyên khởi thì mọi pháp không thể
được xem là có hay không. Do đó, Duyên khởi được xem như là Trung đạo của giải
thoát.
Từ cái nền móng cơ bản này, mà về sau, trải
qua một lịch sử lâu dài, cũng lắm phen phiêu lưu bồng bềnh, Long Thọ đã xây
dựng lại nguyên lý Trung đạo trên cơ sở của Bát bất. Cố nhiên, tại sao Long Thọ
không xây dựng luận thuyết của mình trên cái đã có (như Trung đạo thời Nguyên
thủy) mà lại y cứ trên một nền tảng mới là có lý do của nó; và lý do đó là
những gì được trình bày trong thời kỳ Phật giáo Bộ phái và Phật giáo tiền Đại thừa.
Đó là một đề tài thuộc sự phát triển của lịch sử tư tưởng, khi mà giới tuyến
giữa "ngôn" và "hành" bị xóa nhòa, và kinh nghiệm thể chứng
tự nội phải nhường chỗ cho sự biện biệt phân tranh. Lúc bấy giờ kẻ chấp có,
người chấp không, kẻ chấp vừa có lại vừa không, người chấp vừa không có lại vừa
không không..., cứ như thế, những định kiến của có và không đã diễn tiến trong
suốt quá trình phát triển tư tưởng Phật giáo. Hết thời đại này, đến thời đại
khác, vấn đề đó cứ sinh rồi diệt, diệt rồi sinh như là vòng luân hồi vĩnh cửu
(le retouré ternel) của Nietzsche. Có lẽ vì thế mà Long Thọ phải xây dựng lại
nguyên lý Trung đạo trên một nền tảng mới của Bát không (12).
Như thế, rõ ràng Trung đạo ở đây được ra
đời trong một bối cảnh mới, hẳn nhiên nó cũng cưu mang theo những thể cách đặc
thù của nó. Tuy nhiên, không vì vậy mà học thuyết của Long Thọ khác biệt với
hay chống trái với giáo lý của Phật; trái lại, nó chỉ có thể được xem là sự
phát triển bản ý của Phật trong một bối cảnh mới, cũng tựa hồ như dùng một tên gọi
mới cho một khái niệm cũ, vậy thôi.
Do đó, khi Trung đạo nằm giữa chiến trận
của Bát bất hay được bao quanh bởi Bát bất, thế có nghĩa Trung đạo là chân lý
lâm thời, khả dĩ không rơi vào mọi kiến chấp của hữu vô sinh diệt thường đoạn
khứ lai. Do đó, nếu nhìn từ thực tế, Trung đạo không phải là bản chất của chân
lý tuyệt đối, hay là bản thể của chân lý thực tại nào cả, nó chỉ đóng vai trò
biểu hiện trong kết cấu của tư duy mà thôi. Cũng như giữa bóng tối và ánh sáng,
trong tư duy chúng ta cho rằng nó phải có một giới tuyến hảo huyền nào đó để
phân chia hai thái cực sáng và tối khác nhau; và đó là một nhu cầu của tư duy
hữu ngã. Nhưng với chân lý thực tại, sẽ không hề có và không bao giờ có bất kỳ
một giới tuyến lẻ loi nào hiện hữu như là biên tế của giữa ánh sáng và bóng
tối. Vì thế, cái mà gọi là Trung đạo đế, nên nhớ rằng, chỉ là điểm tựa của
những kết cấu lâm thời trong tư duy hữu ngã, đây là điểm đặc thù nhất về nguyên
lý Trung đạo.
Như vừa đề cập trong luận đề trên, chúng ta
thấy rõ Trung đạo không phải là Niết bàn, mà là con đường dẫn đến Niết bàn. Ở
đây, một vấn nạn khác có thể được đặt ra là tại sao Trung đạo, một con đường
mong manh như thế, lại có khả năng dẫn đến Niết bàn, và chỉ có nó mới có đủ
năng lực để dẫn đến Niết bàn?
Ngay tại chi tiết này lộ rõ cho ta thấy
tính cách nhiệm mầu và vô cùng kỳ vĩ của những cái vốn được xem là mong manh,
sương khói; và có khi chúng được xem là vô tích sự, vô giá trị. Trong viễn kiến
của các nhà Đại thừa độc đoán, họ cho rằng chỉ có vô là trên hết, hoặc chỉ có chân
đế là trên hết v.v..., mà họ không biết rằng vô chỉ có thể được nhận diện trong
hữu, cũng như chân đế hiện hữu từ tục đế (13). Và khi đã ôm chặt lấy quan điểm
(hoặc vô, hoặc hữu) của mình, thì lập tức họ rơi vào lầm lỗi. Vì thế, cái biên
giới mong manh mà gần như là không biên giới này, tác dụng của nó là cực mạnh
và dùng để phá hủy mọi thiên chấp trong cơ đồ của ngã kiến; nó phóng thích tất
cả mọi phần tử cấu uế trong ngục tù của tâm thức, rồi đập tan luôn cả cái ngục
tù huyễn mộng này để cho mọi tâm thức trở về với cái bản thể thanh nguyên. Và,
khi tâm thức đã được gội rửa, nó sẽ trở nên trong sạch như Trung đạo, mọi ý
niệm về có và không không còn hiện hữu trong nó nữa, bấy giờ nó đang đối diện
và tắm mình trước chân lý thực tại đấy. Do đó, chính cái không là gì cả và
không có hệ lụy nào cả mới có thể đập vỡ cái hữu hạn, biến nó trở thành vô
biên. Đó là vai trò trọng yếu của Trung đạo. Có thể tỉ dụ như người lái xe đạp,
nó không vướng bận vào đâu cả, bên phải hay bên trái, phía trước hay phía sau;
nó chỉ chủ động không nghiêng ngả về bất kỳ bên nào trong một thể cách lắm diệu
vợi và bấp bênh. Nhưng chính sự nối kết của từng giây phút bấp bênh đó mà con
người có thể đạt đến mục đích. Trung đạo là như thế. Như vậy, do tính cách bao
dung và không thiên chấp mà Trung đạo được xem là con đường giữa dẫn đến trú xứ
của Niết bàn. Đây là điểm đặc thù thứ hai về nguyên lý Trung đạo.
Cuối cùng là vấn đề của chính Trung đạo.
Thông qua bút pháp của La Thập, chúng ta hiểu được tôn chỉ của Tam luận, mà cụ
thể là Trung đạo trong Trung luận. Ngay từ đầu, ý nghĩa của chữ Trung đã đóng
vai trò trung tâm của mọi luận thuyết, nó là cánh cửa giữa của ba "huyền
môn" để bước vào thực tại tính Không. Do đó, trên cơ sở của tư duy và ngôn
ngữ, thì "Trung" thủ vai của những chứng lý tối thượng. Và cũng tại
đó là điểm cao nhất mà bậc thức giả khả dĩ đạt đến bằng con đường ngôn ngữ. Còn
cảnh giới thực tại, cho dù có được xem là đối tượng của nhận thức hay không,
thì nghìn năm vẫn bất khả thuyết bởi ngôn ngữ. Song, nếu như thế thì làm sao
Phật độ chúng sinh, vì cái mà Phật biết thì chúng sinh không thể biết? Từ đó,
cánh cửa phương tiện được mở ra cho những ai có mắt để nhìn thấy, có tai để
nghe. Ở đây, chữ "Luận" đóng vai trò của phương tiện. Như thế, nếu
Trung là cứu cánh, thì Luận là con đường phương tiện dẫn đến cứu cánh, tương tự
như thế đối với Trung đạo. Và hai bình diện phương tiện và cứu cánh trong
nguyên lý Trung đạo được gọi là Nhị đế, tức hai chân lý: chân lý công ước (tục
đế) và chân lý tuyệt đối (chân đế). Mối quan hệ của hai chân lý này là bất khả
phân ly. Nếu chỉ chấp nhận một trong hai thì lại tiếp tục rơi vào hoặc thường
kiến, hoặc đoạn kiến,... Cho đến khi nào đạt đến cảnh giới Niết bàn vô thượng,
thì chân hay tục sẽ không còn được bàn đến nữa. Tuy nhiên, ở đây trên góc độ
nhận thức, hai chân lý này mở ra cho chúng ta một chân trời bao la mênh mông
đầy hy vọng. Đó chính là khả tính vô biên của Duyên khởi được biểu hiện trên cả
hai phương diện của chân đế lẫn tục đế. Và cũng từ đây, cuộc đối thoại giữa
Phật và chúng sinh bắt đầu.
"Mượn chỉ đưa diều lên khỏi gió
Buông thuyền lúc khách đã sang sông
Gaté gaté, paragaté, parasamgaté
Bodhi Svahà!"
Chú
thích
(1) Ngoại đạo tà giáo ở đây không hẳn là
ngoài Phật giáo, mà trái lại, đó là người theo Phật giáo nhưng có những quan
điểm sai lầm (tà kiến).
(2) Xem bảng số 8, Hệ truyền thừa của Long
Thọ ở Ấn Độ và Trung Hoa.
(3) Cát Tạng là một trong 25 đồ đệ xuất sắc
của Pháp Lăng. Ông sống vào đời Tùy, quê ở Kim Lăng, họ An Thế, tổ tiên là
người An Túc (dân tộc Hồ) nên gọi là An Cát Tạng hoặc Hồ Cát Tạng. Thuở nhỏ,
ông theo cha học đạo với ngài Chân Đế (Paramàrtha), được phú hiệu là Cát Tạng.
Đến năm 13 tuổi, (có chỗ nói là 7 tuổi), ông theo học Tam luận với Pháp Lăng.
Năm 19 tuổi bắt đầu đi thuyết giảng. Năm 32 tuổi, sau khi thầy tịch, Cát Tạng
về chùa Gia Tường ở Cối Khê, tỉnh Chiết Giang, hành đạo. Vì mỗi pháp hội của sư
có hơn 1.000 thính giả, nên được gọi là Gia Tường Đại sư. Về công trình nghiên
cứu của sư, gồm: Tam luận huyền nghĩa, Đại thừa huyền luận, Nhị đế chương, 7 sớ
giải về kinh Pháp Hoa, 2 tác phẩm sớ giải về kinh Niết Bàn, Đại Bát Nhã, và 120
quyển sớ giải về kinh Hoa Nghiêm, Thắng Man, Tịnh Danh, Đại Vô Lượng Thọ, Quán
Vô Lượng Thọ... Sư đã từng biện luận với Tam quốc luận sư Tăng Xán. Năm 618, sư
là một trong 10 vị thầy được vua Cao Tổ tuyển làm Quản tăng. Tháng 5 năm 623,
trước khi viên tịch, tắm gội xong, sư viết bài "Tử bất bố luận" (Luận
không sợ chết) rồi thị tịch, thọ 75 tuổi. Nhà vua cấp kinh phí để an táng cho
sư (xem Tục cao tăng truyện, Phật Tổ thống ký..., Phật Quang đại từ điển).
(4) Cựu Tam luận tông chỉ truyền bá từ ngài
Cưu Ma La Thập đến Cát Tạng (kéo dài từ 409 - 623 TL).
(5) Xem Đại tạng kinh, Đại chính tân tu, No
1564 (cf Nos, 1565 1567) thượng Quán nhân duyên phẩm, đệ nhất, thập lục kệ, tập
30, tr.1, trung.
(6) Xem The Conception of Buddhist Nirvana,
Stcherbatsky, tr.69.
(7) "Tứ cú", ở đây là bốn mệnh đề
xác định, hoặc là có, hoặc là không, hoặc là vừa có, vừa không, hoặc là vừa
không có, vừa không không.
(8) Kinh Tương Ưng Nhân Duyên, Tương Ưng Bộ
II, bản dịch của Thích Minh Châu, ĐTKVN.
(9) Xem Tìm hiểu nhân sinh quan Phật giáo
của Thích Tâm Thiện.
(10) Tam luận tông ở Trung Hoa dùng từ
"duyên hội" như là sự hội ngộ của Duyên khởi và tánh Không để diễn
đạt về ý nghĩa Trung đạo.
(11) Trong suốt thời gian tu khổ hạnh, lúc
nào bất luận ngày hay đêm, Ngài cũng đều dồn nén tư tưởng và thân thể để truy
cầu chân lý vĩnh cửu.
(12) Kinh Nikàya có không ít đoạn đề cập
đến những loại thiên kiến này, như trường hợp của 62 tà thuyết trong Trường Bộ
kinh, phẩm Sa môn quả (xem ĐTKVN).
(13) Phật thường dùng hình ảnh hoa sen mọc
trong bùn để dụ cho điều này.
tkl