Người
tu chấp có, không thể tột được lý đạo. Nhưng dù chấp
có nhiều như núi Tu Di vẫn không tai hại như chấp không bằng
hạt cải. Đó là tai họa lớn. Vì vậy người xưa hay nhắc
nhở chúng ta đừng nên chấp không, thế mà trong Bát Nhã nói
cái gì cũng không hết. Không mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý,
không sắc, thinh, hương, vị, xúc v.v... Trong kinh nói không
mà các vị tiền bối bảo đừng chấp không. Vậy hai chữ
không đó khác nhau chỗ nào? Đây là điều tôi muốn giảng
trạch cho tất cả Tăng Ni, Phật tử nắm cho vững, để đường
tu chúng ta không bị trở ngại lại còn có thể tiến nhanh
hơn.
Muốn
biết chữ Không trong kinh Bát Nhã hay cả hệ thống Bát Nhã,
trước hết chúng ta phải nắm thật vững giáo lý nhân duyên.
Người không nắm vững giáo lý nhân duyên thì không bao giờ
hiểu được chữ Không trong kinh Bát Nhã. Chữ Không của Bát
Nhã đứng vững là dựa trên lý nhân duyên, nếu lý nhân duyên
là chân lý thì chữ Không cũng sẽ là chân lý.
Trước
hết chúng ta thử xem xét các pháp trên thế gian này có pháp
nào không phải nhân duyên sanh hay không? Như chúng ta nhìn thấy
ngôi chùa, vậy ngôi chùa từ đâu mà thành? Ai cũng biết đều
do nhân công, thợ, thầy, gạch, cát, đá, xi măng v.v... hợp
lại thành ngôi chùa. Chớ không bao giờ bỗng dưng nó tự
thành, phải đủ nhân, đủ duyên hội hợp mới có. Nhân duyên
thì không phải một thứ mà rất nhiều thứ tụ hợp lại
thành sự vật. Cũng vậy, tất cả muôn sự muôn vật trên
thế gian này có cái nào vượt ngoài vòng nhân duyên đâu.
Gần
đây các nhà khoa học khi tìm hiểu đạo Phật, thấy rõ chủ
trương các pháp do nhân duyên sinh của đạo Phật rất phù
hợp với khoa học. Bởi vì khoa học là môn học phân tích
sự vật, mà phân tích sự vật thì không vật nào tự nó
có, tất cả đều do sự kết hợp nhiều thành phần mà có.
Như vậy vật nào cũng không đơn độc một nhân một duyên
có thể thành. Mà chúng rất phức tạp, do nhiều nhân nhiều
duyên tụ lại. Chúng ta mới thấy cái nhìn của đức Phật
hơn hai ngàn năm về trước rõ ràng, tường tận như thế
nào.
Sự
vật không tự có, không phải ngẫu nhiên có, cũng không do
ai làm ra, chỉ khi nhân duyên tụ hội thì sự vật hiện có,
thiếu duyên thì sự vật ly tán. Giáo lý Phật chỉ rõ cho
chúng ta không còn mê lầm, nghĩ rằng sự vật do người nào
hoặc ngẫu nhiên nó có. Từ cái nhà chúng ta nhìn tới cái
bàn, cái ghế, vật nào không phải từ nhân duyên sinh? Cây
cối trước mắt chúng ta cũng là nhân duyên sinh, rồi đến
con người có phải từ nhân duyên sinh không? Nếu nói đơn
giản là do tinh cha huyết mẹ kết tụ lại thành thân con người.
Ngày nay với con mắt y học, người ta phân tích có bao nhiêu
tỷ tế bào, phân ra từng loại rồi phối hợp lẫn nhau. Nhờ
chúng phối hợp sinh hoạt, phát triển thì thân chúng ta còn
sống, nếu chúng hư hoại thì thân này tan nát. Như vậy tất
cả sự vật trên thế gian không có cái nào thoát ngoài lý
nhân duyên.
Như
xét cái đồng hồ, vật gì là chủ thể của nó? Chúng ta
không thể nói cây kim là chủ thể, số là chủ thể. Bộ
phận nào là chủ thể cũng không được, mà do đủ các bộ
phận ráp lại thành cái đồng hồ. Như vậy duyên hợp thì
nó có, nếu các bộ phận phân tán ra thì đồng hồ cũng không.
Trước mắt chúng ta thấy có đồng hồ, nhưng thực thể cái
đồng hồ có hay không? Chỉ là duyên hợp tạm có chớ không
thật, vì nó không có chủ thể. Bởi không có chủ thể nên
đủ duyên nó còn, thiếu duyên nó mất, không có gì cố định
hết. Như vậy làm sao nói đồng hồ là thật được. Đã
không thật thì cái gì là chủ thể của nó, chẳng qua duyên
hợp tạm có, duyên hết hoàn không.
Trong
kinh A Hàm đức Phật có dạy, người nào thấy được lý
nhân duyên thì người đó thấy được pháp. Thấy được
pháp tức là thấy đạo hay thấy Phật. Qua đó chúng ta thấy
tầm quan trọng của lý nhân duyên như thế nào rồi. Cũng
như vậy, con người do nhân duyên sinh nên không chủ thể,
không cố định. Muôn vật trên thế gian này do nhân duyên
sinh cũng không chủ thể, không cố định. Tuy không cố định,
không chủ thể nhưng đồng hồ vẫn có, đủ duyên thì nó
hiện tiền. Hiểu lý này rồi chúng ta mới bước qua bước
thứ hai là chữ Không trong kinh Bát Nhã.
Chúng
ta đừng lầm chữ Không trong kinh Bát Nhã là trống rỗng,
không có gì hết. Không là đối với có. Nhưng chữ Không
đây là ngay nơi sự vật hiện tiền mắt thấy, tay sờ mó
được song chủ thể nó là không, không cố định. Như vậy
dù mắt thấy, tay sờ mó được mà nói là Không, đó là không
chủ thể, không cố định. Bát Nhã nói Không vì nó do nhân
duyên sinh nên không chủ thể. Cho nên chữ Không trong kinh Bát
Nhã còn gọi là tánh Không. Hệ thống Bát Nhã gọi đó là
tự tánh Không. Tức là không có chủ thể, không tự tánh
nhưng sự vật vẫn có giả tướng của nó khi đủ duyên tụ
hội.
Con
người chúng ta cũng do nhân duyên sinh, không có chủ thể,
cố định. Vậy gọi ta được không? Chỉ là cái ta tạm bợ,
còn mất theo duyên, không có giá trị thật. Thế mà lâu nay
chúng ta cứ lầm nhận ta là thật, sự vật là thật. Nhà
Phật gọi lầm nhận đó là vô minh, là si mê. Người học
Phật phải có trí tuệ sáng suốt, thấy đúng như thật. Những
gì Phật dạy chúng ta quán sát, thấu suốt mới đem ra hướng
dẫn chỉ dạy cho người khác, chớ không phải học hiểu
suông mà thấy được lẽ thật.
Chúng
ta thử nghiệm lại thân mình có phải là tạm bợ hay không
? Nếu thân chắc chắn chân thật thì không bao giờ hoại.
Vì do duyên hợp nên thiếu duyên thì nó sanh ra bệnh tật rồi
đi đến bại hoại. Đó là lẽ thật, không còn gì nghi ngờ
nữa. Vì vậy chữ Không của Bát Nhã là không có thực thể,
chớ không phải không ngơ giữa có và không. Người ta cứ
ngỡ cái bàn trước mắt là có, hư không trống rỗng là không.
Đó là cái có không của người đời, còn Không của Bát
Nhã là không tự tánh, không tự tánh tức là không thực thể.
Vì vậy đức Phật nói thân này vô ngã. Vì vô ngã nên không
chủ thể, bởi không chủ thể nên tùy duyên mà thành, tùy
duyên mà hoại, không phải lúc nào cũng nguyên vẹn. Đó là
ý nghĩa cụ thể của đạo Phật.
Chúng
ta thấy rõ ý nghĩa của chữ Không rồi thì đối với sự
vật hiện tiền mắt thấy, tay sờ mó được là thật có
hay thật không? Nói thật có hay thật không đều sai cả vì
nó tạm bợ, chỉ có giả tướng hiện tiền. Như vậy phải
nói sao ? Nói các pháp không thật có, do duyên sinh, chỉ tạm
có nên nhà Phật gọi như huyễn, như hóa. Đến đây tôi nhớ
Thiền sư Từ Đạo Hạnh ở đời Lý có bài kệ:
Tác
hữu trần sa hữu
Vi
không nhất thiết không
Hữu
không như thủy nguyệt
Vật
trước hữu không không.
Tạm
dịch:
Có
thì muôn sự có
Không
thì tất cả không
Có
không trăng đáy nước
Đừng
mắc có không không.
Ngài
Từ Đạo Hạnh diễn đạt hình ảnh cho chúng ta thấy rất
linh động. Tất cả sự vật nếu nói có thì vật nào cũng
có hết. Tại sao? Vì trên giả tướng mắt thấy, tay sờ mó
được. Còn nếu nói không thì tất cả đều không hết, vì
chúng là duyên hợp không thật. Không thật nên nói là không.
Như vậy nói có và không giống như mặt trăng dưới đáy
nước. Đêm rằm ta nhìn xuống hồ nước, thấy mặt trăng
hiện dưới đáy nước. Mặt trăng ở đáy nước là thực
có hay thực không? Nếu thực có sao đưa tay vớt lên không
được. Nếu thực không sao mắt chúng ta thấy rõ ràng. Nên
gọi là có mà chỉ là cái bóng, chớ không phải không ngơ.
Nhưng là bóng thì nó không thật.
Muôn
sự vật ở thế gian này cũng như bóng trăng đáy nước, nhìn
thấy như có nhưng rốt cuộc không thực thể. Cho nên có cũng
như không, chỉ vì duyên hợp tạm có. Người ta cứ ngỡ rằng
những gì mắt thấy tai nghe là thực có, nhưng không ngờ chúng
là duyên hợp. Đã là duyên hợp, chúng ta đừng lầm chấp
nó thật thì sẽ không đau khổ. Đây là chỗ khó của người
học Phật. Nếu thấy được lý này thì chúng ta sẽ thấy
đạo Phật hay đáo để.
Chúng
ta tu khó khăn vì chúng ta thấy cái gì cũng thật nên dễ nhiễm,
dễ kẹt. Nhiễm kẹt thì sự tu không tiến, còn thấy các
pháp không thật thì chúng ta không có gì để chấp, mà không
chấp thì đường tu hết sức dễ dàng. Cho nên si mê là động
cơ chủ yếu đưa chúng ta đến chỗ sai lầm. Từ sai lầm
đó khiến chúng ta không thấy lẽ thật, rồi bị chìm đắm
trong sinh tử, kiếp này kiếp nọ không cùng. Tuy nhiên những
thứ đó cũng là tướng duyên hợp không thật. Nhưng không
khéo tu chúng ta sẽ không ra khỏi nó, chỗ này rất là quan
trọng.
Tôi
nhấn mạnh lại chữ Không trong kinh Bát Nhã tức là tánh không
của các pháp. Từ con người cho tới muôn vật đều giả
có, không có thực thể. Đã là giả có mà chúng ta thấy thật
thì đó là mê lầm, giả có mà nói không thì trái với lẽ
thật. Vì vậy không thể khẳng định là không. Phải biết
muôn sự muôn vật trước mắt chúng ta là tướng duyên hợp
giả có.
Kinh
Bát Nhã có câu: "Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhã Ba
La Mật Đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai Không, độ nhất
thiết khổ ách”. Nghĩa là, Bồ Tát Quán Tự Tại khi thực
hành sâu vào trí tuệ Bát Nhã, Ngài xem thấy tất cả sự
vật, tất cả pháp hay nói gọn là con người gồm năm uẩn:
sắc, thọ, tưởng, hành, thức đều không có thực thể, không
cố định. Khi thấy như vậy Ngài liền qua hết thảy khổ
nạn.
Ngày
nay chúng ta tụng kinh Bát Nhã từ lúc mới vào chùa cho tới
năm sáu mươi tuổi, biết bao nhiêu biến? Trăm ngàn biến mà
khổ ách vẫn là khổ ách. Bởi vì tụng Bát Nhã thì tụng
mà nhìn thấy thân năm uẩn thật. Nếu thấy thân năm uẩn
duyên hợp hư dối thì có ai chửi thân năm uẩn này chúng
ta thấy sao? Thân năm uẩn đã không thật thì lời chửi có
thật đâu. Chẳng qua cũng là tạm bợ hư giả thôi. Mình hư
giả, người hư giả, lời nói hư giả, có gì mà khổ, có
gì mà phiền. Cho tới tất cả những thiệt thòi, khổ sở
khác, nếu xét kỹ chúng có thật không? Cũng không thật. Như
vậy có gì làm chúng ta khổ sở đâu? Chỉ cần dùng trí tuệ
Bát Nhã soi thấu muôn sự vật, soi thấu lại bản thân mình
đều là duyên hợp hư giả. Thấy được như vậy thì khổ
ách nào cũng qua hết.
Như
vậy chúng ta chỉ cần tụng một câu đó cũng hết khổ rồi,
đâu cần phải tụng nhiều. Chủ yếu là biết vận dụng
lời Phật dạy vào việc tu của mình. Lời Phật dạy rất
chí lý nhưng chúng ta cứ đọc thuộc lòng. Đọc lại cho Phật
nghe phải không? Chúng ta đọc kinh đúng ra là đọc cho mình
nhớ và thực hành theo lời Phật dạy. Nhưng thường Phật
tử cứ nghĩ rằng đọc như vậy có phước. Đọc hai lần
phước nhiều hơn một chút. Do không biết lời Phật dạy
để ứng dụng quán chiếu lại bản thân và mọi vật chung
quanh, thấu triệt được lẽ thật của nó nên chúng ta cứ
đọc cho Phật nghe hoài, còn mình thì không dính dáng gì hết.
Phật nói chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhất thiết
khổ ách, chúng ta tụng hoài sao không qua được khổ ách?
Bởi vì có chiếu kiến đâu! Chiếu kiến là soi sáng, mà chúng
ta không chịu soi sáng thì làm sao thấu tỏ được. Đó là
lầm lẫn của chúng ta.
Đức
Phật dạy thân này được kết hợp từ năm uẩn: sắc uẩn,
thọ uẩn, hành uẩn, tưởng uẩn, thức uẩn. Sắc uẩn là
tứ đại đất nước gió lửa hợp lại. Thọ uẩn là những
cảm giác của chúng ta như đang nóng có ngọn gió thổi qua
nghe mát, cảm giác ấy gọi là thọ. Lưỡi chúng ta nếm một
món ăn nghe ngọt, nghe đắng v.v... cảm giác ấy là thọ. Mắt
chúng ta nhìn thấy người thấy vật, nhận ra đẹp xấu. Thân
xúc chạm sanh thích hoặc chán v.v... Đó là cảm giác của
thọ. Sáu căn tiếp xúc sáu trần có cảm giác khổ vui, không
khổ không vui. Đó gọi là thọ. Tưởng uẩn là tâm mình tưởng
tượng việc quá khứ vị lai. Hành là suy tư, những ý niệm
nhẹ nhàng tế nhị. Có chỗ nói hành cũng là ý chí. ý chí
vươn lên hay ý chí mạnh mẽ. Thức uẩn, phân biệt cái này
tốt, cái kia xấu, cái này phải, cái kia quấy v.v...
Như
vậy thân chúng ta có năm phần. Một phần thuộc về sắc
chất, bốn phần kia thuộc về tinh thần. Có chỗ khác lại
chia thân này do bốn thứ hợp lại là sắc. Sắc đó gồm
bốn thứ đất nước gió lửa. Phần tinh thần bốn thứ:
thọ, tưởng, hành, thức. Hai thứ cộng lại thành tám thứ
đều nhau.
Tóm
lại, thân này từ vật chất cho đến tinh thần đều do duyên
hợp, không có gì cố định. Xưa Thiền sư Lương Giới, Tổ
tông Tào Động, lúc mới cạo tóc vào chùa, đọc kinh Bát
Nhã, Ngài thấy kinh nói: "Vô nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, ý;
vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp", Ngài bạch với thầy:
- Con
có mắt tai mũi lưỡi thân ý, nhưng sao trong kinh nói không
có. Nghĩa này thế nào?
Vị
thầy lắc đầu bảo Ngài đi tìm học chỗ khác, vì thầy
giải nghĩa không nổi. Người học đạo thấy kinh nói sao
là hay như vậy, không thắc mắc tìm hiểu nghĩa lý thì chúng
ta không tiến bộ được. Ngài Lương Giới đọc kinh không
hiểu liền sinh nghi nên Ngài phăng tìm cho ra. Sau này ngộ đạo
Ngài mới thấy được lý chân thật của Phật dạy. Tất
cả lời Phật dạy không có câu nào, lời nào là vô ý vô
nghĩa, tất cả đều chỉ lẽ thật cho chúng ta. Nhưng vì trình
độ thấp nên chúng ta không nắm vững thành ra cứ mê muội
mãi.
Trong
kinh Bát Nhã có đoạn: "Tướng không của các pháp không nhơ,
không sạch, không thêm, không bớt v.v..." cho tới không mắt
tai mũi lưỡi thân ý, rồi không cả sắc thinh hương vị xúc
pháp v.v... tất cả đều không. Như vậy tánh Không là thực
thể không của các pháp. Trên phương diện không thực thể
thì không có pháp gì có thật cả, nên nói không tất cả.
Ngũ uẩn không, thập nhị xứ không, thập bát giới không
v.v...
Tới
đoạn sau "vô vô minh tận, vô khổ tập diệt đạo, vô trí
diệc vô đắc”. Nghĩa là tất cả pháp như năm uẩn, mười
hai xứ, mười tám giới. Năm uẩn là chỉ thân này, mười
hai xứ tức là sáu căn và sáu trần, mười tám giới là căn
trần thức cộng lại là mười tám. Vậy thì thân này, tâm
thức này và trần cảnh này trên tánh Không đều không có,
không thực thể. Về thế tục đế, những thứ này không
thật có.
Còn
như pháp Thập Nhị Nhân Duyên, Tứ Đế lẽ ra nhất định
phải có. Vì Phật nói pháp Tứ Đế là chân lý, không thể
sai chạy, pháp nhân duyên cũng chân lý, không thể sai chạy
được. Nhưng tại sao kinh Bát Nhã nói cũng không luôn, như
vậy chúng ta tu cái gì? Điểm này có nhiều người thắc mắc.
Không khổ tập diệt đạo, không vô minh và không hết vô
minh v.v... thì chúng ta tu làm sao đây?
Tôi
thường hay nhắc, pháp của Phật dạy là phương thuốc trị
tâm bệnh của chúng sanh. Chúng sanh có bệnh gì Phật có thứ
thuốc ấy. Vậy nếu bệnh không thật thì thuốc có thật
không? Thân ngũ uẩn này không thật tức là bệnh không thật.
Thuốc là để trị bệnh, bệnh đã không thật thì thuốc
làm gì có thật. Rõ ràng pháp của Phật dạy chỉ là phương
tiện trị bệnh cho chúng sanh. Nếu chúng sanh hết bệnh thì
thuốc cũng không dùng. Chúng sanh không thực thể thì thuốc
cũng không thực thể.
Người
đời thường nghĩ lời phàm tục không thật, còn lời Phật
dạy là chân lý, là thật. Nhưng sự thật Phật chỉ tùy theo
bệnh của chúng sanh mà dạy, giúp họ giải trừ được căn
bệnh của mình, chớ ngôn ngữ ấy cũng không thật. Cho nên
nói kinh điển như ngón tay chỉ mặt trăng hay chiếc bè đưa
người qua sông v.v... Hiểu như vậy chúng ta mới không nghi.
Tất cả pháp thế gian (tục đế) và pháp xuất thế gian (chân
đế) đều không có thực thể, chỉ là giả tướng tạm bợ,
đối bệnh cho thuốc thôi. Thấy rõ như vậy nên không chấp,
sẽ đi tới chỗ cứu kính Niết Bàn, không còn mê lầm nữa.
Thấy
được chữ Không của Bát Nhã rồi thì chúng ta dễ tu. Bởi
vì chúng ta đang mắc bệnh chấp không. Nói tất cả pháp không
có chủ thể liền chấp không ngơ. Nếu ai chấp không ngơ
là lầm, bởi sự vật đang có giả tướng hiện tiền làm
sao nói không được. Cho nên chúng ta phải hiểu rõ, Không
là không chủ thể, không cố định, chớ lầm là không ngơ.
Hiểu như vậy chúng ta sẽ không còn chấp nữa.
Tất
cả sự vật đến với ta, ta không chấp thì dễ tu biết mấy.
Mình có phải khổ sở để dẹp nóng giận, dẹp phiền não
không? Sở dĩ chúng ta phiền não, chúng ta nóng giận là vì
chúng ta chấp nó thật. Nếu biết rõ nó không thật, chỉ
tạm bợ do duyên hợp thì có gì mà chấp. Do không chấp nên
thảnh thơi tự tại đi giữa cuộc đời mà chúng ta không
dính mắc gì cả.
Như
vậy Phật độ chúng ta hết khổ, hay chúng ta dùng trí tuệ
thấy muôn sự vật xảy đến với mình không thật, liền
vượt qua các khổ. Nỗi khổ không ai cứu ta được mà do
ta nhận ra chân tướng của nó không thật thì có gì làm ta
phiền hà, khổ sở nữa! Thấy tường tận đạo lý thì không
còn chấp. Nên nhớ chấp là gốc từ si mê, là nhân của đau
khổ. Nhờ trí tuệ sáng không chấp nên đau khổ cũng không
còn. Tụng một bài kinh Bát Nhã mà thấu triệt rồi thì chúng
ta tự tại đi trong cuộc đời. Đó là điều chắc chắn vậy.
Nhưng
sẽ có người nói thế này, Phật dạy các pháp hư giả tạm
bợ như kinh Kim Cang nói: "Nhất thiết hữu vi pháp, như mộng
huyễn bào ảnh". Nếu mọi thứ đều tạm bợ huyễn hóa hết
thì không cần làm gì nữa. Cuộc đời cứ thả trôi thì xã
hội sẽ ra sao? Đây là nghi vấn của nhiều người hiện nay.
Thật ra người tu Phật phải có đủ hai mặt: Một là trí
tuệ tức trí Bát Nhã, hai là từ bi.
Chúng
ta quán sát thấy rõ tánh các pháp là không, do duyên hợp tạm
có, thấy tường tận như vậy là chúng ta có trí tuệ Bát
Nhã. Nhưng giả sử cạnh ta có người đói khổ, chúng ta cũng
bỏ mặc chỉ ngồi cười thôi, không làm gì hết, như vậy
trở thành khô khan tiêu cực. Cho nên phải phát tâm từ bi.
Phật dạy có trí tuệ mà không có từ bi là càn tuệ tức
trí tuệ khô. Vì vậy trí tuệ phải có từ bi thì trí tuệ
ấy mới tươi nhuần. Còn từ bi mà thiếu trí tuệ thì gọi
là từ bi mù, nên chúng ta tu Phật phải có đủ từ bi và
trí tuệ.
Bởi
vì có trí tuệ rồi chẳng lẽ ngồi không, ai khổ mặc họ
không cần biết đến ? Như vậy là ích kỷ, không có lợi
ích gì cả. Cho nên người tu phải phát tâm từ bi, chúng sinh
tuy hư giả nhưng lại không biết hư giả. Vì vậy họ khổ,
chúng ta phải thương, phải cứu họ, làm cho họ hết khổ.
Như vậy nhờ trí tuệ phá kiến chấp sai lầm, phá ngu muội
tăm tối. Nhờ lòng từ bi thương người mê lầm, ta chỉ cho
họ thấy được lẽ thật, không còn chấp, không còn đau
khổ nữa. Đó mới gọi là làm tròn bổn phận người tu.
Vì
vậy trí tuệ và từ bi phải nhịp nhàng theo nhau. Người tu
Phật dù bậc thượng hay bậc hạ cũng phải đồng thời huân
tập hai phương diện đó. Phải có đầy đủ trí tuệ tức
trí Bát Nhã và từ bi để độ chúng sanh. Không vị Phật
nào chỉ có trí tuệ mà thiếu từ bi. Hiểu như vậy chúng
ta mới sẵn sàng lăn vào cuộc đời để cứu khổ, để đánh
thức những người mê muội. Không nên nói thân giả, cảnh
giả, khổ cũng không thật, có gì đâu lo. Thiên hạ đói cũng
là chuyện giả thôi, có chi phải bận lòng rồi ngồi đó
không làm gì hết.
Nên
trong kinh Phật dạy phước và huệ, cả hai phải song hành
như nhau, giống con chim có hai cánh. Chim muốn bay được phải
đủ đôi cánh, nếu chích đi một cánh thì chim bay không được.
Người tu cũng vậy, phải có trí tuệ để thấy tường tận
lẽ thật của cuộc đời và có lòng từ bi để san sớt,
chia xẻ những nỗi khổ của chúng sanh. Đó mới là người
tu Phật chân chính.
Mong
tất cả quý vị nghe suy ngẫm và ứng dụng giáo pháp Phật
dạy vào đời sống tu tập của mình. Nếu ứng dụng được
sẽ thấy giá trị cao siêu của Phật pháp, bằng ngược lại
chỉ hiểu suông, không thực hành gì cả thì không bao giờ
thấy được sự mầu nhiệm của đạo Phật. Và như vậy
chúng ta không xứng đáng gọi là đệ tử của đức Phật.
Tất cả hãy ghi nhớ và cố gắng nỗ lực thực hành để
có niềm vui chân thật ngay trong hiện đời.