Toàn
văn
phân ra làm ba, trước là nêu chung, thứ là giải riêng, sau
cùng là kết luận.
Nay
nói phần đầu:
Là đệ
tử Phật, phải ngày lẫn đêm, chí tâm tụng niệm, Tám Điều
Giác Ngộ của bậc đại nhân.
Bất kể
tại gia, xuất gia, hễ đã quy y nơi Phật, đều là đệ tử
Phật. Đã là đệ tử Phật, ắt phải hằng tu Tám Điều
Giác Ngộ này. Nói cả ngày lẫn đêm để nêu rõ công phu
không gián đoạn. Bảo chí tâm là chỉ sự chân thành tha thiết.
Lại nói tụng niệm, để hiển bày văn nghĩa thuần tịnh,
ghi nhớ không quên vậy. Tám Điều Giác Ngộ, sẽ chú thích
trong văn kết thán.
Thứ
hai giải riêng tám điều:
- Trước
nhất giác vô thường vô ngã:
Giác
ngộ
thứ nhất: Thế gian vô thường, quốc độ mong manh, tứ đại
khổ không, năm ấm vô ngã, sinh diệt đổi dời, hư ngụy
không chủ, tâm là nguồn ác, thân là mọi tội, quán sát như
vậy, xa dần sinh tử.
Đây là
cửa
đầu nhập đạo, trước bầy pháp ngã pháp hai chấp. Trước
tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các
thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt
nơi y báo (1) không còn tham cầu. Thứ đến do bốn đại quán
thân, đất nước gió lửa gây hại lẫn nhau, nên có 404 bệnh
khổ. Đại nào cũng không thật tính, nên cứu cánh đều không.
Lại do năm uẩn quán tâm, thọ tưởng hành thức hợp cùng
sắc thân gọi là năm ấm, thọ tưởng hành thức hợp cùng
sắc thân gọi là năm ấm, nơi đây thực chẳng có ngã và
ngã sở, chỉ là pháp sanh diệt biến hoại đổi dời trong
từng sát na, không thật nên hư ảo, chẳng chân thành giả
ngụy. Chỉ do nơi các tướng đổi thay nên thật không chủ,
do vậy nơi chánh báo (2) không khởi tâm tham đắm. Lại thân
tâm chính báo này, dẫu ta có yêu mến nó, cũng chí luống
công chẳng được lợi ích, mà còn do vừa mê sáu trần duyên
cảnh, cho là tướng tự tâm, tâm lập tức trở thành cội
gốc của tội ác. Vừa mê bốn đại tưởng tướng của tự
thân, thân liền thành chỗ chứa mọi tội lỗi. Nếu không
xét thấu điều này, tất hại cho sự an lành vô cùng. Có
quán sát được vậy, ắt hai chấp thân tâm giảm nhẹ, đó
là phương tiện thứ nhất xa dần sinh tử.
- Thứ
hai giác thường tu thiểu dục:
Giác
tri
thứ nhì: Đa dục là khổ, sinh tử nhọc nhằn, do tham dục
khởi, thiểu dục vô vi (3), thân tâm tự tại.
Đã do
điều
giác ngộ thứ nhất hàng phúc kiến hoặc (4) nay lại do điều
giác ngộ thứ hai hàng phục tư hoặc (5) vậy. Tư hoặc tuy
nhiều, dục tham đứng đầu, hễ tu thiểu dục, tất ngộ
vô vi mà được tư tại.
- Thứ
ba giác tri túc thủ đạo.
Giác
tri
thứ ba: Tâm không chán đủ, chỉ hay đa cầu, tăng trưởng
tội ác, Bồ Tát không vậy, thường niệm tri túc, an bần
giữ đạo, Huệ là sự nghiệp.
Đã tu
thiểu
dục, nên tu tri túc, bằng cách chuyên tâm nơi huệ nghiệp
vậy. Người đa dục không tri túc, ngăn che trí huệ vô cùng.
Nay nơi thiểu dục, lại thêm tri túc, tất huệ nghiệp tự
nhiên thăng tiến.
Thứ
tư
thường hành tinh tiến:
Giác
tri
thứ tư: Giãi đãi đọa lạc, thường hành tinh tiến, phá
ác phiền não, hàng phục bốn ma, ra khỏi nhà ngục ấm giới.
Phàm gọi
là thiểu dục tri túc, chính là muốn tự xét sức mình để
làm các việc. Nếu mượn cớ tri túc mà ngồi trong hầm giãi
đãi, tất đọa lạc càng sâu, nên phải thường hành tinh
tiến để phá trừ hai món phiền não kiến tư. Trừ ma phiền
não, ắt hàng phục được hết ấm ma, tử ma (6), có như vậy
mới ra khỏ nhà ngục ngũ ấm thập bát giới (7).
-Thứ
năm
giác đa văn trí huệ.
Giác
ngộ
thứ năm: Sinh tử ngu si, Bồ Tát thường niệm, quảng học
đa văn, tăng trưởng trí huệ, thành tựu biện tài, giáo hóa
hết thảy, khiến được vui lớn.
Tuy nói
tinh
tiến, mà không quảng học đa văn để tăng trưởng trí huệ,
tất thành cái lỗi ám chứng (8), lai có nghe mà không huệ,
như đem lửa tự đốt; có huệ mà thiếu nghe, như cầm dao
tự cắt. Nghe (Văn) và Huệ phải đầy đủ, mới tự lợi
lợi tha.
-Thứ
sáu
giác bố thí bình đẳng.
Giác
tri
thứ sáu: Nghèo khổ đa oán, thường kết ác duyên, Bồ Tát
bố thí, oán thân bình đẳng, không nhớ ác cũ, không ghét
ác nhân.
Tuy có
trí
huệ mà không phúc đức, cũng không sao tự lợi lợi tha, nên
cần hành đủ tam đàn vậy. Biết nghèo khổ nhiều oán trái,
nên hành bố thí, đó là tài thí. Rõ oán thân nên bình đẳng,
mà không nhớ ghét, tức vô úy thí. Pháp thí như văn trên
đã nói, nay thêm tài thí và vô úy thí để đủ tam đàn vậy.
-Thứ
bảy
giác xuất gia phạm hạnh.
Giác
ngộ
thứ bẩy: Năm dục tội lỗi, tuy là tục nhân, không nhiễm
dục lạc thế gian, thường niệm pháp thí, ba y một bát, chí
nguyện xuất gia, thủ đạo thanh bạch, phạm hạnh cao vời,
từ bi mọi loài.
Tuy trí
huệ
phúc đức, nếu không dứt hẳn ngũ dục gia đình, ắt không
sao thiệu long Tam Bảo, thụ trì Phật pháp. Phải biết ba đời
chư Phật, chưa từng không thị hiện thân xuất gia mà thành
đạo cả. Tam y (9), một là An Đà Hội, hai là Ưu Đa La Tăng,
ba là Tăng Già Lê. Nên tuy cư thân xuất gia mà không giữ đạo
thanh bạch, phạm hạnh cao vời, tư bi với muôn loài, tất
chỉ là gã trộm Phật hình nghi, càng gây thêm tội, phải
hiểu rõ như vậy.
-Thứ
tám
giác đại tâm phổ tế.
Giác
tri
thứ tám: Sinh tử thiêu đốt, khổ não vô cùng, phát tâm đại
thừa, cứu vớt hết thảy, nguyện thay chúng sanh, chịu vô
lượng khổ, khiến mọi chúng sanh, tất cánh an lạc.
Tuy đã
xuất
gia, không phát tâm Đại thừa rộng độ, tất từ tâm không
trọn, không phát tâm chịu khổ thay chúng sanh, ắt bi tâm không
vẹn. Từ bi trọn đủ mới thức là người con chấn hương
gia nghiệp nhà Phật.
Phần
kết thán:
Tám điều
như vậy, là chỗ giác ngộ của Bậc Đại Nhân, chư Phật
bồ Tát tinh tấn hành đạo từ bi tu huệ, ngồi thuyền pháp
thân đến bờ Niết Bàn lại vào sinh tử độ thoát chúng
sanh, dùng tám điều này khai đạo tất cả, khiến các chúng
sanh rõ sinh tử khổ, xả bỏ ngũ dục, tu tâm thánh đạo.
Nếu đệ tử Phật, trong hằng mỗi niệm, tụng tám điều
này, diệt vô lượng tội, tiến đến Bồ Đề, tốc chứng
chính giác, vĩnh đoạn sanh tử, thường trụ khoái lạc.
Từ Tu
Tám
điều như vậy trở xuống đến chữ thứ 16, kết thành danh
nghĩa. Từ Tinh Tiến hành đạo trở xuống đến chữ thứ
16, kết thành công đức tự giác. Thuyền Pháp thân chỉ cho
đức tánh giác ngộ, bờ Niết Bàn hiển bày chỗ tu đức.
Từ Lại vào sinh tử độ thoát chúng sanh trở xuống đến
chữ thứ 32 (tu tâm thánh đạo), kết thành công đức giác
tha, chỉ có tự giác mới giác tha được. Từ Nếu đệ tử
phật cho hết phần kết thán, kết thành công đức tụng niệm.
Đã thường tụng văn này, tất khéo hiểu chân ý nghĩa, nhờ
khéo tư duy nghĩa này, mà có thể tự giác giác tha. Do vậy
diệt tội lỗi và đoạn trừ sinh tử khổ, hướng đến bờ
giác và chứng được sự an lạc vĩnh hằng.
Chú
Thích Kinh Bát Đại Nhân Giác
Y Báo: Y báo
và chánh báo gọi chung là nhị báo. Y báo còn gọi là Y qủa,
tức quốc độ,thế giới, nhà cửa, khí cụ các thứ, do nghiệp
đời trước mà chúng sanh cảm được, thân của chúng sanh
nương các thứ này mà tồn tại, nên gọi là Y báo.
Chính báo:
Còn gọi là Chính qủa, tức thân ngũ uẩn, chúng sanh do nghiệp
đời trước mà cảm được thân này, đó là qủa báo chính,
nên gọi là chính báo (xem Hoa Nghiêm Đại sớ 1)
Vô Vi:
Kiến tư:
Là Kiến hoặc và Tư hoặc, còn gọi là Kiến Ái, Kiến Tu,
Tứ Trụ, Nhiễm Ô Vô Tri, Chi Mạt Vô Minh, Thông Hoặc, Giới
Nội Hoặc, đều khái qúat gọi chung phiền não của Tam Giới.
Kiến
Hoặc:
Các loại vọng kiến, phân biệt và suy lường lệch lạc của
các đạo lý, mà phát sanh ra các thự vọng hoặc như Ngã Kiến,
Biên Kiến.Tư Hoặc:
Các mê tình như Tham, Sân, Si, các vọng hoặc phát khởi do
tư lự các sự vật ở thế gian.
Như vậy dựa
theo sự mê chấp, gọi là Kiến hoặc là Lý hoặc, Tư Hoặc
là Sự Hoặc. Vì Kiến hoặc là những thứ tà tưởng, thường
kiên, ngã kiến phát sanh bởi sự mê lầm chân lý, vô thường,
vô ngã, và vì Tư hoặc là những vọng tình tham sân si phát
sinh do sự mê nhiễm sắc thanh của cás sự vật ở thế gian.
Song phâng Kiến, hoặc, Tư Hoặc theo mê lý và mê sự, là theo
Pháp Tướng của Tiểu Thừa Câu Xá. Còn theo Pháp Tướng của
Đại Thừa Duy Thức, thì phân loại theo hai thứ Phân Biệt
khởi và Câu Sinh khởi. Hai chướng phiền não là sở tri do
Phân Biệt khởi là Kiến hoặc, hai chướng phiền não và sở
tri do Câu Sinh Khởi là Tư Hoặc. Lại gọi là Kiến vì gồm
hai nghĩa.
a) Các hoặc
bị đoạn trừ khi chiếu kiến chân lý, nên gọi là kiến
hoặc
b) Kiến
có
nghĩa suy lường, hoặc này lấy suy lường làm tính, nên gọi
là kiến hoặc.
Tư cũng
có
hai nghĩa:
a) Một
khi
đã kiến thấy chân lý đoạn kiến hoặc rồi\, lại tư duy
tu tập chân lý để đoạn hoặc này, nên gọi là tư hoặc.
b) Vì tư
duy thế gian, vọng chấp sự vật mà khởi hơặc nên gọi
là tư hoặc.
Cả hai
hoặc
này là nhân chính thọsinh tử trong tam giới, đoạn hai hoặc
này mới thoát được sanh tử trong tam giới. Ðoạn hoặc cũng
theo thứ tự, trước đoạn kiến hoặc, sau đoạn tư hoặc.
Kiến hoặc có tính mãnh lợi, khi kiến (thấy) đế lý liền
đoạn sạch. Còn tính hoặc có tính độn muội , phải nhiều
lần tư duy đế lý mới từ từ đoạn được. Vị đoạn
kiến hoặc gọi là kiến đạo, vị đoạn tư hoặc gọi là
tu đạo. Vị đoạn cả hai hoặc gọi là Vô Học đạo.
Thiên
Thai
Tông quy kết hết thảy vọng hoặc làm ba thứ:
a) Kiến
Tư
là chướng ngăn Niết Bàn.
b) Trần
Sa là chướng ngăn Bồ Ðề.
c) Vô Minh
là chướng ngăn Trung Ðạo thật tướng.
Tư Hoặc:
Ấm ma,
Thiên
ma, Tử Ma: Gọi là Tam Ma. Chỉ trì tập âm nghĩa giải thích
Tam Ma như sau:
1) Phiền
não ma: Chỉ hết thảy vọng hoặc trong Tam giới, các vọng
hoặc này nhiễu loạn tâm thần hành giả, khiến không thành
tựu Bồ đề được, nên gọi là Phiền não ma. Ngũ ấm ma
được nhiếp trong ma này.
2) Thiên
ma:
Tức trời thứ sáu của dục giới. Nếu người nào muốn
cần tu các thắng thiện để siêu xuất sinh tử của Tam giới,
ắt bị Thiên ma này chướng ngại, tạo nên đủ nhiễu loạn,
khiến hành giả không thể thành tụu được thiện căn xuất
thế. Gọi đó là Thiên ma.
3) Tử
ma:
Chỉ bốn đại phân tán, cái chét ngăn chận sự kéo dài huệ
mệnh, nên gọi là Tử ma.
Lại Trí
Ðộ Luận quyển năm và Nghĩa Lâm Chương quyển sáu gọi Phiền
Não ma, Ấm ma, Thiên ma và Tử ma là Tứ ma.
1) Phiền
não ma: Các thứ phiền não tham dục , san khuể thường gây
não hại thân tâm, nên gọi là Ma.
2) Ấm
ma:
Hay còn gọi là ngũ chúng ma, tan dịch là Uẩn ma. Năm ấm thường
sinh đủ mọi khổ não , nên gọi là Ma\.
3) Tử
ma:
Sự chết hay đoạn mệnh căn của người nên gọi là Ma.
4) Thiên
ma:
TứcTha Hóa Tự Tại Thiên Tử Ma, tân dịch là Tự Tại Thiên
Ma, là ma vương của trời thứ sáu dục giới\, thường phá
ại các thiện sự của người, nên gọi là ma. Chỉ có ma
này trong tứ ma là bổn pháp, còn ba thứ kia theo ý nghĩa mà
gọi là ma.
Thập bát
giới: Gồm lục căn (Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý). Lục
trần: (Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp), và lục thức
(nhãn cho đến ý thức). Giới có hai nghĩa sai khác, vật này
vật nọ không xen tạp được nhau. Ðại Thừa Nghĩa Chương
quyển tám mạt (Giới là phân giới, do các pháp có tính khác
biệt gọi là "Giới"). Vì lục căn, lục trần, lục thức
có tính cách khác biệt, nên gọi chung là 18 giới. Lại Câu
Xá Luận quyển nhất nói: "Giới có nghĩa các loại pháp (pháp
chủng tộc), như trong một núi có nhiều loại như đồng ,
sắt, vàng, ... gọi là đa giới (nhiều chất loại). Như vậy
một thân hoặc một tương tục có đến 18 loại pháp chủng
tộc , gọi là 18 giới . Hiểu theo nghĩa trên, giới của Tam
giới và Thập Bát giới là giới theo Ða giới, không nên hiểu
theo là pháp giới.
Ám
Chướng:
Chuyên lấy tọa thiền làm công phu , còn nơi văn nghĩa của
nghĩa lý thì mờ ám.
Tam Y: Y
phục
do Phật chế phân làm ba loại :
1) Tăng
Già
Lê (Sanghati) dịch là Chú Tụ Thời Y. Y này để mặc vào những
lúc đại chúng tề tập truyền giới hay thuyết giới .
2) Uất
Ða
La Tăng (Uttarasanga) dịch là Thượng Y (y trên) mặc trên y An
Ðà Hội .
3) An Ðà
Hội (Antarvasaka) dịch là Trung Trước Y (áo mặc bên trong).
Sau này
ba
y được theo Ðiều , như An Ðà Hội là Ngũ điều y, Uất
Ðà La Tăng là Thất Ðiều Y, và Tăng Già Le là Cửu Ðiều
trở lên, hay còn gọi là Ðại y.
TT Thích
Thiện Huệhttp://www.thuvienhoasen.org