Theo các nhà Sử học Phật giáo thì niên đại ra đời của Phật giáo Đại thừa tại Ấn Độ là vào khoảng thế kỉ thứ I TCN. Với sự phát triển vượt bậc của Phật giáo Bắc truyền kể từ thế kỷ II trở về sau thì Kinh điển và Văn học Đại thừa bấy giờ cũng rất đa dạng. Trong đó, kinh Pháp Hoa là bộ kinh nổi bật nhất trong hệ thống giáo điển Đại thừa. Xuyên suốt bộ kinh này Đức Phật dùng rất nhiều thủ pháp nghệ thuật trong văn học (nói theo ngôn ngữ thời nay) mà hình thức tự sự là chính yếu. Ngài đưa ra rất nhiều ví dụ để thính chúng dễ tiếp nhận. Sau đó, Đức Phật đúc kết lại bằng kệ tụng ở cuối mỗi phẩm kinh để nhấn mạnh lại triết lí thâm diệu mà Ngài muốn dạy cho hàng đệ tử. Về sau, các nhà Dịch thuật trau chuốt văn chương làm cho lời kinh thêm sáng tỏ và gần gũi với người đọc (nghe), khiến họ thích thú và dễ dàng nắm bắt được nội dung của kinh.
Giáo nghĩa của Pháp Hoa vô cùng uyên áo nên được giới trí thức nghiên cứu rất sâu rộng. Đỉnh cao nhất đó là hình thành nên Pháp Hoa tông lấy nội hàm của kinh làm tôn chỉ tu tập.
QUÁ TRÌNH PHIÊN DỊCH VÀ HOẰNG TUYỀN KINH PHÁP HOA
Kinh Pháp Hoa tên tiếng Phạn là Saddharmapundarika-sutra. Đây là một bản kinh hết sức uyên áo cả về giá trị văn học lẫn triết thuyết hàm ẩn. Vì thế, kinh này được giới dịch giả phiên dịch, chú giải rất nhiều bằng các ngôn ngữ: Anh, Pháp, Nhật, Hán, Việt,…
Theo sử liệu phiên dịch Hán tạng thì Chi Khiêm – người thời Tam Quốc (nước Ngô) là người dịch kinh Pháp Hoa đầu tiên. Tuy nhiên Ngài chỉ dịch phẩm Thí Dụ của kinh và đặt tên là Phật Dĩ Tam Xa Hoán Kinh. Tiếp nối sự nghiệp phiên dịch kinh Pháp Hoa có các vị như: Cương Lương Tiếp dịch Pháp Hoa Tam Muội Kinh (năm 256), Pháp Hộ dịch Tát-đàm Phân-đà-lị Kinh (năm 265) và Chánh Pháp Hoa Kinh (năm 286), Chi Đạo Căn dịch Phương Đẳng Pháp Hoa Kinh (năm 335), Cưu-ma-la-thập dịch Diệu Pháp Liên Hoa Kinh (năm 406), Trí Nghiêm dịch Phật Thuyết Pháp Hoa Tam Muội Kinh, hai vị Xà-na-quật-đa và Đạt-ma Cấp-đa dịch Thiêm Phẩm Diệu Pháp Liên Hoa Kinh (năm 601). Tuy nhiên, hiện nay chỉ còn có ba truyền bản là: Thiêm Phẩm Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, Chánh Pháp Hoa Kinh và Diệu Pháp Liên Hoa Kinh. Trong đó, với văn phong trau chuốt, ý tứ sâu sắc nên giới nghiên cứu chủ yếu sử dụng bản dịch của ngài La-thập.
Ở Việt Nam, bản kinh này cũng được phiên dịch rất nhiều bởi các dịch giả tiêu biểu như: Bản dịch chữ Nôm của Thiền sư Hương Hải với tên Quốc dịch Pháp Hoa Kinh (năm 1747), ngài Thích Trí Nghiêm với bản dịch Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Diễn Giải Lục. Ngoài ra, còn có các bản dịch khác của Đoàn Trung Còn và cư sĩ Mai Thọ Truyền,… Trong những dịch phẩm được Việt dịch thì bản kinh do Trưởng lão Thích Trí Tịnh dịch được hầu hết giới Tăng sĩ, cư sĩ và học giả nghiên cứu, hành trì.
Mặt khác, vì giáo nghĩa của kinh Pháp Hoa rất yếu diệu nên chư Tổ sư còn chú giải, sớ giải để hàng hậu học căn cứ vào đó mà tìm hiểu rõ hơn về bản kinh trên. Từ huyền thoại “Niêm hoa vi tiếu” tổ tổ “Truyền đăng tục diệm” giáo nghĩa Phật Đà. Từ đó, kinh Pháp Hoa được lưu truyền cho đến ngày nay và trở thành thời khóa trì tụng tu tập thường nhật của hàng Tăng tục. Hơn thế nữa, bản kinh này còn trở thành bộ môn nghiên cứu, học tập ở hầu hết các Trường Phật học để đào tạo Tăng tài cho Phật giáo.
TÔN CHỈ CỐT LÕI CỦA KINH PHÁP HOA
Có thể nói nội dung cốt lõi của kinh đã được hàm chứa trong nhan đề Diệu Pháp Liên Hoa:“Diệu Pháp là pháp, Liên Hoa là dụ. Theo kinh Pháp Hoa, Diệu Pháp là tri kiến Phật có sẵn nơi mỗi chúng sanh, còn gọi là pháp thân thanh tịnh hay Phật tánh” [1]. Nói một cách khác Diệu Pháp là giáo pháp thâm diệu khó thấu hiểu cho nên Phật dùng hình tượng hoa sen để thí dụ. Có nghĩa là ngay nơi thân ngũ uẩn đầy ô trược này đã có sẵn Phật tánh hằng hiện hữu, cũng như hoa sen tuy chưa nhô lên khỏi bùn nhưng vẫn có đủ gương, hạt,… Mặt khác, tôn chỉ của kinh cũng chính là mục đích mà Đức Phật thị hiện nơi cõi đời, đó chính là:“Khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến”. Song song đó Tứ đế, Duyên khởi cũng là nội dung tư tưởng của kinh Pháp Hoa. Vì lẽ ở phẩm Phương Tiện có nêu chư Phật chứng được quả vị vô thượng Bồ đề là do quán triệt lý duyên khởi:
“Các Phật Lưỡng Túc Tôn
Biết Pháp thường không tính
Giống Phật theo duyên sanh
Cho nên nói Nhất thừa” [2].
Trong kinh Pháp Hoa, Đức Phật dạy chất Phật luôn có sẵn nơi mỗi chúng sanh nhưng làm sao có thể ngộ nhập được Như Lai tự tánh ấy? Chính là quay lại nơi bản tâm mình, lòng sạch vọng niệm chấp trước nhị biên thì tự thể hội được. Tuy vậy, nhưng để chúng sanh nhận được “Bản lai diện mục” không phải chuyện dễ dàng. Chính vì thế mà Đức Phật đã dùng những hình tượng để tỉ dụ cho đệ tử thông qua đó hiểu được giáo lý thâm diệu.
TÍNH ĐẶC THÙ CỦA VĂN HỌC TRONG KINH PHÁP HOA
Hồ Thích – học giả người Trung Quốc nhận định: “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa tuy chẳng phải là tiểu thuyết, nhưng đó quả thật là một bộ kinh phong phú và đầy lí thú về tính văn học” [3]. Tính đặc thù của văn học trong kinh Pháp Hoa chủ yếu sử dụng hình thức đối thoại kết hợp miêu tả nhân vật và đặc biệt nhất là nghệ thuật thí dụ. Đây là một cách dạy đồ chúng vô cùng siêu xuất của Đức Phật, vừa gián tiếp nhưng lại trực tiếp. Gián tiếp ở đây có nghĩa là từ ví dụ về một con người (sự vật, sự việc) khác được đề cập, thính chúng tự thấy có sự hiện diện của bản thân thông qua nhân vật đó. Ngay đó, trực diện bản tâm của mình thành tựu chánh trí giải thoát. Ví dụ như hình ảnh gã cùng tử có viên châu trong chéo áo nhưng không hay biết chính là ám thị cho con người hằng sống với Phật tánh nhưng lại mê lầm không tỉnh ngộ.
Điểm cần chú ý nhất là những hình ảnh ví dụ mà Đức Phật đưa ra tuy rất bình thường, gần gũi với những sinh hoạt trong đời sống nhưng khi đọc (nghe) qua thì rõ ràng nó hàm chứa một triết lý thâm diệu. Xuyên suốt bản kinh không một ví dụ nào trùng lặp, thể hiện nội dung truyền đạt một cách độc lập, mới mẻ. Những ví dụ này là pháp phương tiện của Đức Phật để giáo hóa chúng sanh, làm cho họ dễ dàng tiếp nhận từ, đó đổi mới tư duy. Ngoài ra, Thế Tôn còn dùng nhiều hình thức miêu tả, điển hình như bối cảnh thần kì trong phẩm Hiện Bảo Tháp: “Lúc bấy giờ, trước Phật có tháp bằng bảy báu, cao năm trăm do tuần, ngang rộng hai trăm năm mươi do tuần, từ dưới đất nổi lên trụ ở giữa hư không” [4], hay trong phẩm Tùng Địa Dũng Xuất có đoạn miêu tả như sau: “Cõi Ta-bà trong tam thiên, đại thiên cõi nước đất đều rúng nứt, mà ở trong đó có vô lượng nghìn muôn ức vị đại Bồ tát đồng thời vọt ra” [5]. Tuy nhiên, dù đó là hình thức nào thì mục tiêu rốt ráo của Đức Phật cũng chính là muốn chúng sanh nhận chân và thể nhập được Phật tánh vốn sẵn có nơi mình.
NGHỆ THUẬT THÍ DỤ
Nghệ thuật thí dụ là một trong mười hai thể tài văn học Phật giáo. Đây là phương pháp mượn cái này để nói đến cái kia. Nói một cách dễ hiểu hơn đó là pháp phương tiện với mục đích giúp cho người khác hiểu được ý nghĩa hàm ẩn thông qua từng ví dụ:“Thí là so sánh, dụ là để hiểu, tức lấy việc gần mà so sánh, khiến nơi pháp sâu xa được hiểu rõ” [6].
Như vậy, giới văn học sử dụng nghệ thuật này để biểu dương ý nghĩa mà mình muốn truyền đạt. Trong kinh Pháp Hoa cũng thế, Đức Phật muốn đồ chúng tiếp cận kinh văn một cách dễ dàng nên Ngài dùng vô số phương tiện quyền xảo nhằm lột tả tông chỉ cốt yếu để chúng sanh ứng dụng tu tập, chuyển hóa nỗi khổ niềm đau, đoạn trừ lậu hoặc. Song song đó, các nhà nghiên cứu học thuật cho rằng Đức Phật đã sử dụng thủ thuật tự thể nghiệm bản thân. Có nghĩa là Đức Phật đã thành tựu các pháp ấy rồi mới chỉ dạy cho chúng sanh, chứ không phải Ngài dạy trên ngôn ngữ suông. Trong phẩm Phương Tiện, Đức Phật cũng đã khẳng định điều đó: “Từ Ta thành Phật đến nay, các món nhơn duyên, các món thí dụ, rộng nói ngôn giáo, dùng vô số phương tiện dìu dắt chúng sanh, làm cho xa lìa lòng chấp. Vì sao? Ðức Như Lai đã đầy đủ phương tiện, tri kiến và Ba-la-mật” [7]. Trong kinh Tăng Chi đã định nghĩa Như Lai như sau:“Này các Tỳ kheo, Như Lai nói gì thì làm vậy, làm gì thì nói vậy. Vì rằng nói gì thì làm vậy, làm gì thì nói vậy, nên được gọi là Như Lai” [8].
Trong hệ thống Kinh điển, Đức Phật thường dùng hình thức vấn đáp, đối thoại và nhất là thủ thuật thí dụ nhằm khuyến giáo hàng thính chúng để họ tự nhận ra giá trị tinh yếu của diệu pháp. Có thể nói kinh Pháp Hoa là một trong những giáo điển dùng thủ thuật thí dụ để khuyến giáo vô cùng tuyệt diệu. Bởi lẽ, trong một hội chúng đông đảo với đầy đủ các hạng người, thế nhưng mỗi một ví dụ mà Đức Phật đưa ra đều thích ứng và mang niềm pháp hỷ vô biên đến từng cá nhân. Điều đó được ví như các dòng sông khi chảy riêng lẻ thì nó mang tên gọi độc lập nhưng một khi trăm sông đổ về biển thì bấy giờ chúng chỉ còn một tên đó là biển. Tính văn học đặc thù này trong kinh Pháp Hoa sẽ được làm rõ hơn trong thất dụ mà bậc Toàn Giác đã phương tiện tuyên thuyết.
THẤT DỤ TRONG KINH PHÁP HOA
Hỏa trạch dụ
Thí dụ đầu tiên là ví dụ về ngôi nhà lửa trong phẩm Thí Dụ. Ở đây, ta thấy được thủ pháp cường điệu hóa nhằm mô tả cảnh tượng hãi hùng, đầy hiểm nguy trong nhà lửa: Xiêu vẹo, mục nát, lửa cháy bốn bên,… nhưng chỉ có một cửa ra vào. Đức Phật sử dụng hình ảnh biểu trưng thật tinh tế. Đức Phật dạy chúng sanh sống trong ba cõi đầy bất an, chịu nhiều khổ đau như ở trong nhà lửa. Các người con cứ mãi mê chơi đùa trong nhà ấy ví như chúng sanh điên đảo mê lầm không nhận chân được cuộc đời vốn hư ngụy. Trong kinh có diễn tả cảnh con của Trưởng giả xô đẩy nhau khi nghe cha nói có các món đồ chơi quý báu. Đấy chính là bản tánh của phàm phu luôn hơn thua tranh đấu vì danh vọng lợi dưỡng. Trưởng giả dụ cho Như Lai. Ngài khéo dùng thiện xảo để dìu dắt đệ tử của mình ra khỏi sông mê, trở về bến giác. Người cha hứa cho các con ba cỗ xe nhưng chung cuộc chỉ cho một loại xe trâu trắng cao lớn. Ẩn ý, Ngài đưa ra ba thừa là vì căn tánh của đại chúng có sai khác và đó cũng chỉ là phương tiện để đưa đến Phật thừa rốt ráo mà thôi.
Tính văn học ở phẩm này có giá trị rất cao bởi cấu trúc: Mở đầu bằng thể văn xuôi, kết thúc bằng kệ ngôn nhằm tóm lược đại ý của văn trường hàng kết hợp các biện pháp tu từ thí dụ. Vì thế, nó đã gột tả được ý kinh một cách trọn vẹn khiến độc (thính) giả dễ thâm nhập.
Cùng tử dụ
Đến ví dụ thứ hai là hình ảnh gã cùng tử trong phẩm Tín giải. Ở Thí dụ này sử dụng nghệ thuật kể chuyện rất bình dị nhưng hấp dẫn. Trong đó, người cha là Như Lai, cùng tử là chúng sanh. Ngài dạy tất cả chúng sanh đều có đầy đủ trí tuệ, đức tướng của Phật nhưng ý chí của phàm phu hạ liệt cho rằng quả giác ngộ cao siêu không thể được. Do vậy, Thế Tôn phải dùng nhiều cách để khuyến dụ cũng như Trưởng giả sai người nghèo cùng để dụ dẫn người con về nhà để làm việc. Cuối ví dụ miêu tả ông Trưởng giả biết mình sắp qua đời, tập hợp mọi người và tuyên bố đây là đứa con thất lạc và giao kho tàng cho nó. Đây là một tình tiết đặc sắc mang tính giáo dục. Bởi lẽ, nếu Đức Phật không thị hiện tịch diệt thì chúng sanh sẽ ỷ lại mà không chịu tiến tu.
Mặt khác, ví dụ này đã dùng thủ pháp thả lỏng, không vội vàng hấp tấp, thuần phục trước rồi mới đưa đến nơi cứu cánh. Điểm nghệ thuật nữa mà ví dụ này sử dụng đó là nghệ thuật diễn tả chi tiết chặt chẽ, triển khai giống như thật những thế thái nhân tình trong nhân gian.
Dược thảo dụ
Đại ý của thí dụ này là Đức Phật đưa ra hình ảnh các cỏ cây dù là giống loại nào, kích thước ra sao nhưng khi một trận mưa rơi xuống thì tất cả đều được thấm nhuần. Ở đây, sử dụng nghệ thuật ẩn dụ. Dược thảo chỉ cho chúng sanh và ba loại cây nhỏ, vừa, lớn tức là ba hạng hạ, trung, thượng trí. Mưa dụ cho giáo pháp của Đức Phật. Trong Pháp và Luật của Như Lai không hề có sự phân biệt mà luôn bình đẳng đối với tất cả cũng như cơn mưa tuôn xuống một cách tự nhiên và phủ khắp. Tuy nhiên, tùy vào trình độ, căn cơ có sai biệt của chúng sanh mà sự tiếp thu, hành trì và chứng nghiệm cũng sẽ không đồng nhau. Giải thoát nhiều hay ít, giác ngộ rốt ráo hay hạn chế đó là tùy vào sự nỗ lực của hành giả.
Hóa thành dụ
Đức Phật ví phàm phu đang tu tập để đạt quả vị giải thoát cũng giống như những người đi tìm châu báu, trên chặng đường ấy có vô vàn hiểm nguy, nên rất cần người dẫn đường. Đức Phật chính là Đạo sư của chúng sanh. Ở đây, Đức Phật sử dụng hình ảnh rất chân thật: Khi đi đường mệt mỏi thì cần phải dừng chân để nghỉ ngơi. Bởi lẽ trên đường tu, hành giả trải qua bao thử thách nếu không có quyết tâm thì dễ nản lòng, thoái chí. Cho nên, Đức Phật tạo dựng nên “hóa thành” ba thừa phương tiện để trợ duyên cho những người không dám “một bước nhảy qua đầu sào trăm trượng” vào thẳng đất Như Lai. Nhưng người tu cần phải biết thành ấy chỉ là nơi tạm nghỉ, nó không thật có và không phải đích đến cuối cùng. Mục tiêu cần đến đó là Niết bàn chân thật. Đó cũng chính là nơi mà bậc Đạo sư muốn đệ tử của mình đến.
Y châu dụ
Đây là ví dụ mà năm trăm vị A-la-hán trình với Đức Phật sau khi được Ngài thọ ký. Trong đó, người say dụ cho chúng sanh vô minh điên đảo nên không biết mình có sẵn gia tài Pháp bảo. Cho nên không biết khéo giữ, thực hành để rồi trầm luân sinh tử. Hành giả nếu như không đủ tỉnh giác sẽ rất dễ bị danh lợi cám dỗ, đánh mất giá trị của đời sống phạm hạnh. Chánh pháp và Luật của Đức Phật là thầy sáng, bạn lành đồng hành cùng chúng sanh. Tuy nhiên, muốn nhận được Phật tánh nơi bản tâm của mình thì đòi hỏi người đó có nỗ lực tu tập để chuyển hóa ba nghiệp, đoạn trừ tất cả lậu hoặc. Chất Phật ấy luôn hiện hữu ngay tại đây và bây giờ chứ không phải ở một cảnh giới cao siêu nào khác, chỉ cần trực ngộ là sẽ nhận được của báu. Thật đúng như lời Sơ tổ Trúc Lâm dạy trong Cư Trần Lạc Đạo Phú: “Trong nhà có báu thôi tìm kiếm”.
Kế châu dụ
Đức Phật đưa ra ví dụ có một vị Chuyển luân Thánh vương thống trị thiên hạ, các nước nhỏ không quy thuận nên vua cử quân lính chinh phạt. Khi chiến thắng, vua vui mừng luận công mà ban thưởng. Duy chỉ có viên minh châu nơi búi tóc là chưa mang ra thưởng.
Đây chính là một hình ảnh tỉ dụ mà Đức Phật giảng nói cho ngài Văn Thù cũng như hội chúng tại núi Linh Thứu. Vua kia tức là Đức Phật, hạt châu trong tóc chỉ cho kinh Pháp Hoa mà cốt yếu là nhất thừa, binh lính dụ cho đệ tử Phật và giặc ở đây chính là phiền não, vô minh. Khi và chỉ khi người nào đánh thắng được giặc tham ái, vô minh, thể nhập được Tri kiến Phật nơi mình thì mới nhận được hạt châu ấy từ Đức Phật. Từ ví dụ này Đức Phật đã phá bỏ mọi phương tiện giả tạm chỉ bày cái chân thật quý báu.
Y sư dụ
Y sư dụ thuộc phẩm Như Lai Thọ Lượng thứ mười sáu trong kinh Pháp Hoa. Vị lương y chính là Như Lai, những kẻ không chịu uống thuốc cũng như người ỷ vào Đức Phật còn tại thế nên không chịu tiến tu. Đức Phật thương đệ tử của mình nên tùy duyên thị hiện tịch diệt để chúng sanh ý thức tự nỗ lực, cố gắng nương vào giáo pháp (tượng trưng cho thuốc mà vị lương y bào chế và đưa cho các con) mà Ngài đã chỉ dạy để hành trì nhằm đạt được Niết bàn an vui vĩnh hằng. Đó cũng là ý nghĩa của hình ảnh thầy thuốc giả chết. Khi tam độc tham, sân, si không còn thì chất Phật thanh tịnh hiển bày, cùng lúc ấy sẽ thể nhập được thế giới của chư Phật, như vậy chẳng phải cha con được gặp nhau sao?
Qua thất dụ trong kinh Pháp Hoa chúng ta thấy được hạng phàm phu sống trong cảnh khổ mà cho đó là vui, ái thủ vào những thứ huyễn hoặc lại cho là chân thật bất hư. Thế nên, cứ lặn hụp trong sanh tử. Điều đó được Đức Phật ví như đàn bò vui ăn cỏ non, cùng chạy nhảy, húc đầu nhau nhưng không biết rằng mình sẽ bị chủ đưa đi giết thịt. Cho nên, Ngài mở bày nhiều phương tiện để dẫn dắt chúng sanh về với nhà của Như Lai. Tuy nhiên, các pháp ấy chỉ là giả tạm cũng như chiếc bè là dụng cụ hỗ trợ để qua sông.
TÁC DỤNG CỦA NGHỆ THUẬT THÍ DỤ TRONG KINH PHÁP HOA
Như vậy, chúng sanh chính là “cùng tử” sống trong nhà lửa bị dục vọng trần tục thiêu đốt khổ đau tột cùng. Họ như những giống cây cỏ với nhiều chủng loại được thấm nhuần cơn mưa pháp của Như Lai. Từ đó, với sở ngộ khác nhau họ khát khao tìm con đường để vượt thoát cho chính mình. Nhưng đường đi lắm gian lao nên tâm thối lui, phóng dật nơi họ xuất hiện. Đức Phật thương những đứa con thơ dại của mình liền hóa ra một thành đài cho chúng nghỉ ngơi rồi tiếp tục cuộc hành trình về bến giác. Tuy nhiên, bản tánh phàm phu dễ ngủ quên trong chiến thắng và do vô minh nên lầm chấp thành kia là chân thật. Thật đáng thương cho kẻ có sẵn viên minh châu trong chéo áo mà lại vọng tìm kho tàng bảo vật ở bên ngoài. Với trí tuệ toàn giác, Đức Phật quán chiếu nhân duyên tùy bệnh mà cho thuốc để chữa căn bệnh trầm kha ấy của chúng sanh. Người nào khéo uống thuốc thì sẽ khỏi bệnh hay như các chiến sĩ anh dũng tự chiến thắng mình trên chiến trường nội tâm đạt được sự giác ngộ viên mãn thì sẽ được chư Phật trao cho viên ngọc Ma-ni vô giá.
Xuyên suốt bản kinh Pháp Hoa với rất nhiều hình ảnh, câu chuyện tỉ dụ, đó chính là pháp phương tiện mà Đức Phật muốn khai mở cho đồ chúng nhận được tự tánh thanh tịnh hằng hữu nơi bản tâm đầy vọng tình này. Mỗi một ví dụ là một hình ảnh gần gũi với đời sống của con người. Những câu chuyện thường nhật ấy nêu lên thế thái nhân tình trong kiếp nhân sinh phù hư giả tạm. Mặt khác, chúng ta có thể thấy được các đối tượng mê lầm trong kinh đề cập thì đều có sự xuất hiện của các bậc trí kề bên chỉ dẫn và đồng hành. Hơn thế nữa, thông qua phẩm Dược Thảo Dụ đã khẳng định đức từ bi bình đẳng của Như Lai. Ngài không thiên vị hay bỏ rơi một chúng sanh nào cả mà luôn mong muốn hết thảy đều được giác ngộ như mình. Ngài khẳng định: Như Lai là Phật đã thành và chúng sanh sẽ là những vị Phật của tương lai. Đó chính là điểm đặc sắc nghệ thuật trong kinh Pháp Hoa. Bằng thủ thuật dùng từ kết hợp hình ảnh biểu tượng cùng với hình thức trình bày theo cách diễn dịch đã làm cho thời pháp diễn tiến như dòng suối chảy. Sự thật và sức mạnh của nó nằm ở đầu nguồn suối và chảy dài đến cuối nguồn suối [9].
Đức Phật sử dụng nghệ thuật thí dụ làm phương tiện giáo hóa chúng sanh vì lẽ thủ thuật này có tính hiệu quả rất cao. Ngài không cần diễn giải nhiều bằng ngôn ngữ nhưng vẫn khiến hội chúng thấu tột ý kinh thông qua các ví dụ. Đó chính là tác dụng chính yếu của nghệ thuật này.
Tóm lại, kinh Pháp Hoa là một bộ kinh lớn và nổi bật nhất trong hệ thống Kinh điển Đại thừa. Lớn ở chỗ nội dung tư tưởng của kinh vô cùng thâm diệu. Như Lai “khai quyền hiển thật” thông qua từng ví dụ, từ đó chúng sanh tùy căn cơ mà thấu hiểu. Nghệ thuật giáo hóa ấy là một trong những hình thức đặc thù của tính văn học. Cho nên kinh Pháp Hoa không chỉ là Phật điển mà hơn thế nữa bản kinh này còn được xem là một trong những thánh thư của nhân loại.
Bộ kinh này ẩn chứa triết lý vô cùng thậm thâm. Cốt lõi là tuyên thuyết cho chúng ta biết được ai cũng có kho tàng quý giá nơi chính mình, nói khác hơn là chất Phật luôn có trong ta. Thế nhưng chấp nhận để tìm được bảo vật hay chối bỏ để rồi sống mãi trong ngục tù sinh tử, tất cả là ở tự thân của mỗi người định đoạt.
Chú thích:
[1] Thích Thanh Từ (2014), Kinh Diệu Pháp Liên Hoa giảng giải, Nxb Tôn Giáo, tr.13.
[2] Thích Trí Tịnh dịch (2007), Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Nxb Tôn Giáo, tr.83.
[3] Tôn Xương Võ-Thích Nữ Nguyện Liên (dịch) (2016), Giá trị văn học trong kinh Phật- Giá trị văn học trong Kinh điển Đại thừa, Nxb Hồng Đức, tr.497.
[4], [5] Thích Trí Tịnh dịch (2007), Sđd, tr.308, tr.383.
[6] Thích Tịnh Hạnh (dịch) (2000), Khởi Tín Luận Sớ Bút Sảo Ký – Quyển 2, Hội Văn Hoá Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc, tr.283.
[7] Thích Trí Tịnh dịch (2007), Sđd, tr.53.
[8] Thích Minh Châu dịch (1996), Kinh Tăng Chi Bộ tập I, Chương IV Bốn Pháp, III. Phẩm Uruvelà, Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, tr.593.
[9] Thích Chơn Thiện (1999), Tư Tưởng Kinh Pháp Hoa, Nxb Tôn Giáo, tr.24.