Thần chú tiếng phạn gọi là Mantra, bao gồm 2 chữ "Man" nghĩa 
là năng lực suy nghiệm (Thần) và "tra" (hậu tố từ) nghĩa là "chú = 
phương tiện" là lời, là tiếng, dùng làm phương tiện để diễn đạt. Như 
vậy, "Thần chú" là phương tiện để suy nghiệm dẫn khởi một sự nối kết 
giữa thân tâm (vật chất và tinh thần) bằng âm thanh cô động. Chú hay 
Thần chú cũng có nhiều tên gọi khác nhau như: Chân ngôn, Chân âm, Mật 
ngữ (Mật ở đây là sự chứng tỏ mối liên hệ Mật thiết bên trong của sự vật
hiện tượng và tinh thần. Đừng nên nhầm lẫn chữ Mật là Bí mật). Trong 
Phật giáo Thần chú là những lời mầu nhiệm chứa đựng năng lực đặc biệt 
đưa đến kết quả siêu việt áo nghĩa trở thành phương tiện trợ giúp tâm 
thức cho thân, khẩu, ý (thân mật, khẩu mật và ý mật). Vì nếu chỉ thờ, 
lạy và cúng Phật, thì cũng chưa có thể gọi là trọn vẹn thuần thành, cho 
nên còn phải thêm phần tụng kinh, trì chú và niệm Phật để viên dung Sự 
và Lý. Thần chú hay được lặp đi lặp lại trong các buổi tu tập hành trì, 
đặc biệt là Mật Tông thực hành để thanh lọc thân khẩu ý bất tịnh trở 
thành thanh tịnh và thực chứng được Pháp thân mà hiển bài Báo thân hay 
Hoá thân trần thế này. Chú cũng có nhiều loại khác nhau, dài hay ngắn 
tùy theo môn phái. Trong lúc niệm Thần chú phải tập trung lên mặt chữ 
(các chữ đó hiện thành dụng ảnh) hay lắng nghe từng âm thanh của nó (Các
tiếng đó biến thành vọng âm). Trong chương 5 của tác phẩm 
Subāhupariprcchā có ghi cách đọc tụng chú như sau : Đừng quá gấp rút. 
Đừng quá chậm rãi. Đọc đừng quá to tiếng. Đừng quá thì thầm. Không phải 
lúc nói năng. Không để bị loạn động.
Thần chú không phải là một công thức bất động và không phải là những 
sóng âm thanh tác động để kêu gọi sự trợ giúp của chư Phật hay Bồ tát 
giúp chúng ta thoát khỏi khổ đau hoặc tiêu trừ nghiệp chướng. Thần chú 
chỉ là một phương tiện trợ giúp tinh thần, tri thức, ý chí qua sự nhất 
tâm bền vững để kết thành năng lực tối cao. Chính nhờ năng lực này Tâm 
trong sạch và thành thực mới cứu vớt được chúng ta. Như Đại sư Milarepa 
nói : "Khi chư vị tự hỏi ác nghiệp có được tiêu trừ hay không, chư vị 
nên biết rằng : nó chỉ tiêu trừ bằng sự ước mong của thiện tâm".
Đọc Thần chú là khẩu mật (Khẩu là lời do miệng phát ra. Mật ở đây là 
sự chứng tỏ mối liên hệ Mật thiết bên trong của sự vật hiện tượng và 
tinh thần. Đừng nên nhầm lẫn chữ Mật là Bí mật). Cần nên học hỏi rõ ràng
qua sự hướng dẫn của một vị tăng hay một đạo sư. Câu thần chú Hán Việt 
được nhiều người Phật tử đọc là : Úm ma ni bát di hồng. Một câu chú lâu 
đời của Phật giáo Tây Tạng, và cũng xem là Chân ngôn Bồ Tát Quán Thế Âm 
để bảo hộ hành giả vượt thẳng vào Phật quả hoặc vào hàng tứ Thánh. Ngoài
câu chú ngắn đã kể trên, còn có bài chú căn bản này qua những tên sau :
chú Đại Bi, Đại Bi Tâm Đà La Ni (Maha Karunika citta Dharani),Thiên Thủ
Thiên Nhãn Quán Thế Âm Đại Bi Tâm Đà La Ni, Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại 
Đại Bi Tâm Đà La Ni, Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Tự Tại Bồ Tát Quảng Đại 
Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni, Thanh Cảnh Đà La Ni.... để minh 
họa công đức nội chứng của Đức Quán Tự Tại Bồ Tát (Avalokiteśvara 
Bodhisatva).
Theo kinh Mahakarunikacitta, bài chú này được Bồ tát Quán Thế Âm đọc 
trước một cuộc tập họp của các Phật, bồ tát và các vua quan, cũng như 
câu Om Mani Padme Hum.
Đại Bi chú được 2 Đại sư Phật giáo dịch ra :
Ngài Không Kim Cương (tiếng Phạn là amoghavajra) hay gọi ngắn là Bất 
Không (Phạn ngữ là amogha), Tước hiệu là Trí Tạng Sanh năm 705 tại nước 
Sư Tử (nước Tích Lan Sri Lanka bây giờ) và mất năm 774. Một Đại sư của 
Mật tông và cũng là một trong bốn dịch giả danh tiếng nhất của Thánh 
điển Phật giáo tại Trung Quốc, song song với Cưu-ma-la-thập. Chân Đế và 
Huyền Trang. Sư được xem là vị Tổ thứ sáu của Mật giáo và người đệ tử 
của Ngài được đích truyền là sư Huệ Quả, được xem là Tổ thứ bảy của Mật 
tông Trung Quốc. Một đệ tử quan trọng khác là Huệ Lâm.
Ngài Kim Cương Trí ( tiếng Phạn là Vajrabodhi ) hay Kim Cang Trí, 
sanh năm 671 và mất năm 741. Một Đại Sư Phật giáo cũng là Thầy của Ngài 
Không Kim Cương và Thai Tạng. Sư sinh ra trong một gia đình Bà La Môn 
tại Malabar, Nam Ấn, theo học đạo tại Na Lan Đà từ năm lên 10 tuổi. Sau 
đó đi qua các vùng khác của Ấn Độ và đã học rất nhiều giáo lý Đại Thừa 
như : Duy Thức Luận, Trung quán Luận, Du Già Luận.
Năm 31 tuổi, Ngài đi đến Tích Lan và thọ nhận pháp Mật Tông với Đại 
Sư Long Trí ( tức Ngài Pháp Mật hay Phổ Hiền ). Sau 7 năm am tường Mật 
Giáo, Sư trở về Trung Ấn. Một thời gian sau, Sư đi đến Java với một đồ 
đệ 14 tuổi, chính là Ngài Bất Không Kim Cương sau này, rồi tiếp tục du 
hành sang Trung Quốc. Cuối năm thứ 7 Khai Nguyên (719) nhà Đường. Tại 
đây Sư lưu lại ở các chùa Tư Thánh và Đại Tiến để dịch kinh. Trong đó có
các bộ kinh Kim Cương Đỉnh Du Già được lưu truyền phổ biến. Ngài đã 
truyền lại rất nhiều giáo lý Đại Nhật và Kim Cương. Ngài cũng được tôn 
là bậc Thầy của hệ Kim Cương và Thai Tạng.
Dòng truyền thừa của Sư Kim Cương Trí được xem là dòng Chính Mật và 
nhánh truyền thừa của Ngài như sau : Đại Nhật Như Lai | Kim Cương Tát 
Đỏa | Long Thọ | Long Trí | Kim Cương Trí. Sau này Đại Sư Không Hải, tổ 
của Chân ngôn tông, Nhật Bản cũng nhận pháp từ chính dòng này theo nhánh
truyền thừa như sau: Kim Cương Trí | Bất Không Kim Cương | Huệ Quả | 
Không Hải.
Đại Bi chú có nhiều bản dịch khác nhau qua sự tìm hiểu và nghiên cứu 
của các Bậc Đại sư trên thế giới từ xưa, và nhiều cách chia câu không 
giống nhau so với bản chữ Phạn thì các cách trên không đúng phép ngắt 
câu văn phạm, nhưng không quan trọng. Chủ yếu là nội dung không thay đổi
Chú Đại Bi có hết thảy 84 câu và 415 chữ, là bài Tổng Trì của ngài Quán
Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn. Các Tổ xưa thường hay cặp đôi Đại Bi với Bát 
Nhã, vì Từ Bi và Trí Tụê là đôi bạn không thể rời nhau trong dòng giáo 
truyền.
Kính Bút
TS Huệ Dân
Nhà nghiên cứu Phật học quốc tế. Xin thân tặng ban biên tập và qúy đọc giả của trang daophatngaynay.com.
Website : chua – phuoc – binh.com