Sau khi đắc quả A-La-Hán, Tôn giả Mục Kiền Liên vận thần
thông đi khắp các cõi tìm người mẹ đã khuất. Thấy mẹ đang chịu đói khát
khổ sở trong kiếp ngạ quỷ, Ngài đau lòng vô cùng, vội dâng lên mẹ bát
cơm. Lòng bỏn xẻn tham lam chưa dứt, bà sợ chúng ma cướp giật nên đưa
tay che bát cơm. Nhưng cơm đã hóa thành lửa đỏ!.
Vị đại đệ tử thần thông đệ nhất của Đức Phật không thể cứu mẹ
thoát kiếp ngạ quỷ, cũng không giúp mẹ được một bữa no lòng. Ngài vừa
khóc vừa quay về cầu cứu Bổn Sư. Pháp cứu tế nhân đây được Phật thuyết
giảng, trở thành một phương pháp cầu siêu cho những người đã khuất; và
ngày rằm tháng bảy trở thành ngày hội cho những người con hiếu thảo.
Nhưng ở đây, chúng ta có thể đặt nghi vấn: Nếu nhờ chư Tăng chú
nguyện mà bà mẹ Ngài Mục Kiền Liên thoát khỏi cảnh đọa lạc, thì hóa ra
lý Nhân quả cũng có trường hợp ngoại lệ? Và Phật tử chúng ta chỉ cần
nương nhờ thần lực của chư Phật cùng Thánh chúng, dù có tạo nghiệp ác
cũng không sợ sa vào khổ xứ? Quả thật như thế, thì tinh thần “ai ăn nấy no, ai tu nấy chứng”
còn có ý nghĩa gì? Thật ra, tuy lý Nhân quả có tính phổ thông, nhưng
muốn quán triệt đạo lý này, chúng ta phải nghiền ngẫm tư duy thật sâu
sắc; và sau đó, nhờ công phu chuyển hóa tự thân, tịnh tu ba nghiệp, ta
mới có thể thẩm thấu ý nghĩa uyên áo của nó.
Nhân là nguyên nhân, nguồn gốc, mầm mống; Quả là kết
quả, thành tựu, báo ứng. Tất cả mọi sự vật hiện tượng trên đời, không
vật gì do ngẫu nhiên tạo ra, mà phải có nguyên nhân từ trước. Ngược lại,
một nguyên nhân muốn có kết quả, cũng phải có sự hỗ trợ của nhiều yếu
tố gọi là Duyên. Lý Nhân quả, hay nói đầy đủ là Nhân - Duyên - Quả,
chi phối toàn thể vũ trụ vạn loại, là nguyên lý tuyệt đối. Đức Phật
không phải là người khai sinh ra đạo lý nầy, nhưng Ngài đã thấu hiểu nó
đến tột cùng và trao truyền cho các môn đệ.
Đối với khoa học, Nhân quả là sự chuyển biến tự nhiên của nhân sinh
và vũ trụ. Các nhà nghiên cứu đã áp dụng Nhân quả, phối hợp những Duyên
thích ứng để có nhiều thành tựu đáng kể phục vụ đời sống con người. Ngay
cả phát minh được xem như “đoạt quyền tạo hóa” là tạo ra một động vật hay một phôi người bằng phương pháp sinh sản vô tính, cũng phải theo tiến trình Nhân - Duyên - Quả. “Nhân” ở đây là nhiễm sắc thể của tế bào một sinh vật giống cái kết hợp với noãn bào của một sinh vật cái khác; “Duyên”
là môi trường cấy, nhiệt độ thích hợp, trí tuệ của nhà bác học… Nhân và
Duyên đầy đủ mới có kết quả là những con cừu, bê, heo và thai nhi, đã
được báo cáo và cả tranh cãi gay gắt trong giới khoa học và đạo đức học
trong những năm gần đây.
Chủ trương của đạo Phật có khác, không chỉ chú trọng đến sự hòa hợp
giữa con người và môi trưòng sống, giữa cá nhân và tập thể, giữa nhân
sinh và vũ trụ, mà còn áp dụng lý Nhân quả để nâng cao đời sống tinh
thần, để suy tiến đạo đức. Nhà Phật thường đề cập đến nguyên nhân hơn là
kết quả, đến bản chất hơn là hiện tượng. Giáo dục của đạo Phật là giáo
dục ngay từ nguồn cội, từ trước lúc tội lỗi xảy ra, nên có tính cách
phòng ngừa hơn là chữa trị. Những người con Phật có chánh kiến Nhân quả
không làm điều gì tổn hại đến mình và người; và mỗi ngôi chùa là trường
học dạy đạo lý làm người, dạy cách đối nhân xử thế trước khi dạy cách tu
làm Phật.
Tổ Bá Trượng một hôm thuyết pháp xong, đại chúng giải tán hết, chỉ còn một ông già ở lại. Tổ hỏi thì ông thưa:
- Thời Đức Phật Ca Diếp, con là Tăng sĩ ở núi nầy. Do học trò hỏi
“Người đại tu hành có rơi vào nhân quả không? Con đáp “Bất đọa nhân quả”
(không rơi vào nhân quả). Vì câu đáp ấy, con bị đọa làm thân chồn đến
nay đã năm trăm kiếp. Cúi xin Hòa thượng từ bi dạy cho con một câu để
con được hóa kiếp.
Tổ bảo:
- Ông cứ hỏi đi.
Ông già hỏi:
- Người tu hành có rơi vào nhân quả không?
Tổ đáp:
- Bất muội nhân quả (không lầm nhân quả).
Ngay đây ông già đại ngộ, làm lễ và thưa:
- Con đã thoát thân chồn, hiện con ở sau núi, dám xin Hòa thượng lấy theo lễ Tăng tống táng giúp con.
Tổ cùng đại chúng ra hang núi phía sau, quả nhiên thấy xác một con chồn, bèn làm lễ thiêu như một vị Tăng.
Ông già chỉ sai một chữ mà bị đọa làm chồn 500 kiếp. Người đại tu
hành mở sáng mắt trí tuệ, thấy tột cùng và không lầm lẫn nhân quả chứ
không thể tránh nhân quả. Do nghiệp nhân từ trước, các Ngài dù đã đạt
đạo nhưng vẫn thọ quả báo. Có điều, tuy thọ quả nhưng các Ngài vẫn an
nhiên tự tại, vì biết tự tánh của nghiệp chướng vốn là không. Thiền sư
Huyền Giác viết:
Liễu tức nghiệp chướng bổn lai không
Vị liễu ưng tu hoàn túc trái.
Khi đã liễu ngộ, rõ ràng nghiệp chướng xưa nay vốn không; nhưng nếu
chưa liễu, thì mọi oan trái đã gây đều phải đền trả. Chúng ta không thể
dùng tài biện luận để cãi chối, không thể dùng phương tiện khéo léo nào
để trốn tránh nhân quả, như vẫn thường làm ở thế gian. Ngoài đời có luật
pháp, có tòa án, nhưng nhiều khi xử lầm hoặc kết oan người vô tội; còn
tòa án lương tâm và luật Nhân quả - Nghiệp báo thì không hề bỏ sót một
ai.
Nhà Phật có bài kệ nổi tiếng về nhân quả ba đời:
Dục tri tiền thế nhân
Kim sanh thọ giả thị.
Dục tri lai thế quả
Kim sanh tác giả thị.
Muốn biết nhân đời trước, phải nhìn sự lãnh thọ ở đời này. Hoàn cảnh
chánh báo và y báo đời này tốt đẹp là do đời trước tạo nghiệp nhân thiện
lành; nếu đời này ta gặp nhiều chuyện không như ý, đó là vì đời trước
đã gây nhân xấu ác. Lại nữa, muốn biết đời sau cuộc sống mình thế nào,
cứ nhìn sự tạo tác đời này sẽ rõ. Khổng tử nói “Nhất ẩm nhất trác giai do tiền định”,
một miếng nước uống hay một miếng cơm ăn đều đã được định trước. Sự
định đọat nầy không phải do Thượng Đế hay một đấng quyền năng nào, mà do
nghiệp tạo ra từ thân - miệng - ý của chính mỗi người.
Trong thực tế, có nhiều người xấu ác nhưng vẫn sống hạnh phúc giàu
sang, lại có người chuyên làm việc thiện mà vẫn khó khăn bất hạnh mọi
bề. Đó là quả của việc làm kiếp này chưa trổ ra, còn đời sống hiện tại
là do nhân duyên kiếp trước. Đức Phật dạy, quả báo có ba loại: Hiện báo
là khi nhân gây ra, quả đến ngay trong hiện kiếp; Sanh báo là nhân gây
trong kiếp này, quả đến kiếp sau mới trổ; Hậu báo là quả đến rất muộn
sau nhiều kiếp. Hiểu tường tận điều này, chúng ta không chút nghi ngờ về
tính bình đẳng và tuyệt đối của lý Nhân Quả. Chính mình là Thượng Đế tự
vẽ ra chánh báo và y báo cho mình, chính mình phải chịu trách nhiệm về
mọi tạo tác do mình gây ra, dù vô tình hay cố ý .
Một điều cần nhấn mạnh, sự tương tác giữa nhân và quả không phải đơn
giản theo tinh thần “Nhân nào quả nấy”. Một nhân muốn trổ thành quả phải
có sự tác động của nhiều yếu tố trung gian gọi là Duyên. Một hạt xoài
(nhân) cần có nhiều duyên như đất, nước, ánh sáng mặt trời, công người
trồng…, sau một thời gian mới thành cây xoài, kết quả. Trường hợp của
con người lại càng phức tạp, không những tiến trình Nhân - Duyên - Quả
chịu sự ảnh hưởng của Duyên, mà còn có thể thay đổi Nghiệp nhân để cho
một kết quả hoàn toàn khác. Nhà Phật gọi đó là Sự chuyển nghiệp, cũng
chính là ý nghĩa của sự tu hành.
Chúng ta đã biết, Nghiệp phát sinh từ thân, miệng và ý, trong đó tâm ý
dẫn đầu. Ý suy nghĩ mới phát ra lời nói và hành động, nên ý là chủ tạo
nghiệp. Vì tâm ý là chủ tạo nghiệp nhân, nên muốn chuyển đổi nghiệp ác
thành hiền thiện, con người phải tu ngay tâm, sám hối ngay tại tâm mình.
Trường hợp của mẹ Ngài Mục Kiền Liên được lý giải theo tinh thần này.
Do tâm bỏn xẻn trong tiền kiếp, bà phải chịu quả báo làm thân ngạ quỷ,
khổ sở đói khát, đến nổi bát cơm của con dâng lên cũng không có cơ hội
được ăn. Nhờ chư Hiền Thánh Tăng chú nguyện, kết hợp lòng thành của Ngài
Mục Kiền Liên cũng là một vị A-La-Hán, nên chuyển đổi được tâm bà từ
xấu ác thành thiện lành. Tâm chuyển nên nghiệp nhân chuyển, đưa đến quả
tốt, bà vãng sanh lên cõi Trời. Như thế, lý Nhân quả luôn luôn đúng
trong mọi trường hợp, nhưng nhờ tu hành chuyển hóa tâm ý trở nên tốt
đẹp, có thể thay đổi được kết quả xấu vốn phải thọ lãnh trong tương lai.
Tuy nhiên, vì sao ở đây nói Nhân sanh diệt đưa đến quả sanh diệt? Bởi
vì thông thường, làm bất cứ việc gì chúng ta đều có ngã tướng. Khi làm
là thấy có ta làm, có việc làm và có đối tượng của việc làm ấy. Chúng ta
tu năm giới hay thập thiện là mong hưởng phước báo nhân thiên, hoặc làm
người đầy đủ phước đức, hoặc sanh lên cõi Trời với mọi điều sung sướng.
Do ý thức chấp ngã nên còn lẩn quẩn trong luân hồi, vì thế gọi là nhân
và quả sanh diệt. Ngày xưa, các vị tu tiên cầu thần thông và sống lâu,
vẫn có tâm bám chặt vào ngã tướng. Nhiều khi thần thông càng cao, cái
ngã càng lớn nên không dứt được phiền não. Kinh Kim Cang nói: Dù bố thí
bảy báu nhiều vô lượng trong suốt bao nhiêu kiếp, cũng không bằng trì
bốn câu kệ trong kinh Kim Cang. Bố thí càng nhiều thì càng phải qua
nhiều lần sanh tử để hưởng phước, còn trì 4 câu kệ là sống với bản tâm
chân thật, đoạn dứt sanh tử. Lại nữa, trong dòng luân hồi, nhiều khi có
quyền thế lại dễ hại người, tạo thêm điều ác, cứ thế mà lên xuống mãi
trong ba cõi sáu đường.
Trong kinh Viên Giác, Ngài Văn Thù thưa hỏi Đức Phật dùng nhân ban
đầu là gì để tu mà ngày nay thành Phật. Đức Phật trả lời, phải y nơi
Tánh Viên Giác thanh tịnh, nghĩa là thể tánh chân thật bất sanh bất diệt
làm nhân tu hành, mới đắc quả Phật thường trụ.
Vì sao thể tánh chân thật là bất sanh bất diệt? - Mọi sự vật trên thế
gian hễ có hình ắt có hoại, có sanh ắt có diệt. Thông thường khi ta
nhìn phải có đối tượng cho cái nhìn của ta (sắc); lúc nghe phải có đối
tượng của sự nghe (tiếng). Tương tự cho các căn khác, khi hoạt động đều
cần đối tượng là các trần cảnh bên ngoài, từ đó khởi lên ý thức phân
biệt hay dở đẹp xấu… Những niệm phân biệt ấy nương theo hình tướng của
trần cảnh, lúc sinh lúc diệt, lúc đến lúc đi, vì thế Đức Phật bảo, đó là
cái biết theo duyên, cái biết lệ thuộc vào đối tượng. Ngược lại, khi
tiếp xúc với trần cảnh nhưng không dính mắc chạy đuổi theo chúng, cũng
không khởi niệm phân tích chia chẻ - kể cả niệm “ta đang biết”, thì lúc
ấy, ta vẫn thấy nghe hay biết rõ ràng, Cái biết ấy không lệ thuộc vào
đối tượng, cái biết không duyên nên không có hình tướng, không có sanh
diệt, chẳng đến chẳng đi, không bao giờ vắng thiếu. Đó là cái biết chân
thật hay bản tánh bất sanh, nhà Thiền gọi tên “Bản lai diện mục” - bộ
mặt thật xưa nay. Nhận ra bản tánh ấy làm chánh nhân tu hành, chắc chắn
nên quả Phật thường trụ.
Nhưng làm thế nào tìm được bản tánh?
Nhiều người nghe nói, nhà Thiền chủ trương “Kiến tánh thành Phật”, hoặc “chưa nhận ra bản tâm chân thật thì chưa bước vào cửa nhà Thiền”, nên rất mong muốn tìm thấy tánh. Tuy nhiên, ngay từ ý niệm “tìm kiếm”, chúng
ta đã xa tánh nghìn trùng. Lại nữa, có người đọc lịch sử Đức Phật và
Chư Tổ tu hành và thành đạo trong rừng núi, nên tưởng phải ở ẩn một mình
nơi thâm sơn cùng cốc mới có thể ngộ đạo. Thật ra, bản tánh thanh tịnh
hằng tri ấy chính là mình. Không phải tìm cầu bên ngoài, cũng không cần
xa lánh thế gian. Lục Tổ Huệ Năng dạy:
Phật pháp tại thế gian
Bất ly thế gian giác.
Lý thế mích Bồ - đề
Kháp như tầm thố giác.
Phật pháp ở ngay tại thế gian, không phải xa lánh thế gian mà giác
ngộ. Nếu lìa bỏ thế gian tìm cầu Bồ - đề, thì chẳng khác nào đi tìm sừng
thỏ. Ngay sóng đã là nước, ngay thân sinh diệt đã có bản tánh bất sanh,
ngay dòng sông vô thường động chuyển đã có cái chân thường bất biến.
Khi tâm ta hoàn toàn thanh tịnh, rỗng rang, bặt mọi vọng tưởng điên đảo
phân biệt mà vẫn rõ ràng thường biết, ta mới hay Đạo tại nhãn tiền, hoa
sen nở trong lò lửa mà sắc vẫn thường tươi nhuận.
Nhận ra bản tâm thanh tịnh hằng hữu, ta đã có chánh nhân tu hành. Đây
mới là bước đầu khởi tu, cần phải mất bao nhiêu công phu bào mòn tập
khí, phải miên mật từng phút giây hằng sống với bản tâm và thể nhập trọn
vẹn vào đó. Đường tu rất dài và rất gian nan chứ không dễ dàng như một
số người lầm tưởng. Hiểu là một chuyện, thực hành và thể nhập tự tánh
lại là chuyện khác, xa nhau như trời vực. Nhưng khi đã nhận ra tự tánh
tức gieo nhân vô sanh, ắt có ngày ta sẽ viên thành Phật quả.
Đức Phật dạy, con người có bốn hạng:
1- Từ tối đến tối: Người sanh trong gia đình nghèo khổ, không
có văn hóa đạo đức, kiếp này lại không biết tu hành, mãi tạo nghiệp bất
thiện. Kiếp sau chắc chắn bị đọa lạc.
2- Từ tối đến sáng: Người có hoàn cảnh xấu về nhân thân và gia
đình, nhưng kiếp này có duyên gặp chánh pháp, tinh tấn tu hành, tịnh tu
ba nghiệp. Kiếp sau tái sanh vào các cõi lành, tiếp tục đi trên con
đường đạo, chuyển được nghiệp xấu ác thành hiền thiện.
3- Từ sáng đến tối: Do nghiệp lành đời trước, kiếp này được
sanh vào gia đình giàu sang, có văn hóa đạo đức. Nhưng người nầy không
biết tu hành, vô tình tạo nhiều nghiệp bất thiện, kiếp sau sẽ bị đọa vào
các đường dữ.
4- Từ sáng đến sáng: Đây là trường hợp tối ưu. Người có duyên
nhiều đời với chánh pháp, kiếp trước gieo nhân lành nên trong kiếp này,
hoàn cảnh chánh báo và y báo đều tốt đẹp. Người ấy lại tinh tấn tu hành,
vun bồi phước đức. Đời sau chắc chắn sanh vào các cõi lành, tiếp tục đi
theo chánh pháp, ngày càng thăng tiến đời sống tâm linh.
Như vậy, hoàn cảnh sống của ta là do ta tạo ra, không ai làm thay cho
mình, và mình cũng không thể tu thay cho người khác. Vì tâm chuyển biến
từ trạng thái này sang trạng thái khác, và nghiệp cũng theo tâm mà thay
đổi nên chúng ta cần y cứ nơi tâm mà sám hối và tu hành. Nghèo không bi
quan oán trời trách người, giàu không cống cao ngã mạn. Chúng ta luôn
tránh nghĩ điều xằng bậy xấu ác mà suy tiến những ý tưỏng thiện lành. Từ
suy nghĩ lành dẫn đến lời nói và việc làm tốt đẹp, chúng ta dần dần
chuyển hóa nhân cách mình theo chiều hướng thượng. Cá nhân có đạo đức
ảnh hưởng tốt đến gia đình và xã hội được êm ấm an vui. Đây là bước đầu
tiên áp dụng lý Nhân quả vào đời sống.
Tiến thêm bước nữa, người hiểu kỹ lý Nhân quả để công phu đoạn trừ
phiền não. Vì vô minh chấp thân tâm này là mình nên sinh lòng tham, muốn
gom góp mọi thứ vật chất và tinh thần cho bản thân. Ta thương yêu người
khác cũng vì mình, nên tình thương luôn có tính chiếm hữu, đây là một
biến chất của lòng tham. Chiếm được, lòng tham càng tăng trưởng; chiếm
không được, sanh tâm sân hận. Chính ba độc Tham-Sân-Si là ngục tù giam
hãm con người, không có ngày thoát khỏi. Người hiểu lý Nhân quả biết
tránh những điều bất lợi cho người, không khởi lòng tham cầu ngũ dục mà
tranh đoạt của người khác, biết tỉnh giác nhận diện những ý niệm sân hận
mới manh nha để hóa giải kịp thời. Khi gặp nghịch cảnh chướng duyên,
chúng ta không buồn khổ vì biết là hậu quả của nhân bất thiện đời trước,
vững bước vượt qua trở ngại và càng tinh tấn tu hành để chuyển nghiệp.
Lúc được hoàn cảnh thuận lợi, mọi người quý kính, chúng ta biết mình đã
tạo nhân tốt, càng cố gắng vun bồi phước đức, gây nhiều nghiệp lành. Nhờ
vậy, cuộc đời ta ngày càng đẹp đẽ hạnh phúc, không mong cầu mà phước
báo vẫn đến. Nhưng hiểu lý Nhân quả cho thấu đáo, chúng ta thấy nhân quả
ngay trong một niệm. Vừa động niệm là đã tạo nghiệp, từ đó mầm mống của
quả có cơ hội phát sinh. Dù nghiệp thiện hay ác, con người vẫn còn chịu
trầm luân trong sanh tử.
Toàn thể vũ trụ luôn vận hành không dừng nghỉ theo tiến trình nhân
quả. Bản thân mỗi người cũng biến đổi trong từng sát-na. Không một hoạt
động vật lý, sinh lý hay tâm lý nào không chịu sự chi phối âm thầm mà
chặt chẽ của lý Nhân quả. Bằng trí tuệ siêu xuất, Đức Phật đã triển khai
lý Nhân quả thật tường tận từ cạn đến sâu để dạy chúng ta hướng về đời
sống đạo đức, thăng tiến tâm linh, bỏ ác về thiện và cuối cùng siêu vượt
cả thiện ác.
Nền văn minh thế giới ngày càng tiến triển, con người càng được thụ
hưởng những thành tựu kỳ diệu của khoa học. Tuy vậy, giá trị tinh thần
không nâng cao theo tỷ lệ thuận với sự sung mãn về vật chất. Con người
đang phải đối mặt với những vấn nạn đạo đức, lối sống và cách cư xử với
nhau; vì càng quay cuồng theo vật chất, phiền não tham sân si càng lẫy
lừng. “Khoa học không có lương tâm chỉ là sự hũy hoại linh hồn”, nhân loại đang cần - và phải cần có nền văn minh tâm linh, từ đó mới có thể tạo dựng hạnh phúc đích thực trên trái đất này.
Lý Nhân quả thật sự không phải đơn giản và chỉ cần cho người sơ cơ,
mà tất cả chúng ta đều phải hiểu tường tận để có chánh kiến và lòng tin
sâu sắc về đạo lý nầy. Có Chánh kiến nhân quả, chúng ta luôn thận trọng
trong từng ý nghĩ, lời nói và việc làm để không tổn hại cho mình và cho
người; chúng ta có đời sống xả kỷ, hòa điệu với vũ trụ vạn loại. Có thể
nói, điều kiện đầu tiên của người tu là phải tin sâu nhân quả; nếu
không, buông lung phóng dật mà cho là sự tự tại phóng khoáng của người
đạt đạo, thì không những công phu không kết quả mà khó tránh đọa tam đồ.