ĐÔI LỜI TÂM SỰ
Người mang tâm niệm hận thù muốn hại người khác như người đốt đuốc đi ngược chiều gió, chưa hại được ai mà đã tự hại chính mình. Nóng giận là thói quen thông thường của tất cả mọi người, không ai trên đời chưa một lần nóng giận, vả chăng chỉ có các bậc đại Bồ tát thị hiện vào đời vì lợi ích chúng sinh.
Một người vì tức tối với ông hàng xóm, đem lòng oán giận và cố công tìm cách trả thù. Có người biết chuyện nên tìm cách an ủi, khuyên nhủ anh không nên thù hằn, bởi chưa hại được ai đã tự khiến mình bị bủa vây trong tức tối, khó chịu, sinh ra phiền muộn, đau khổ. Anh ta nhất quyết không nghe theo những lời khuyên, một mực chỉ muốn trả thù mới thỏa lòng, mát dạ.
Người bạn do thương anh bị vô minh che lấp, phương tiện nói rằng đã có cách giúp anh, bảo anh cứ yên tâm vì thù xưa sẽ được rửa; chỉ cần anh đọc mật chú là người kia tức khắc sẽ chết ngay. Tuy nhiên, loại chú này rất linh ứng, và hiệu nghiệm; anh sẽ phải chết trước còn người kia sẽ bị chết sau. Kẻ tiểu nhân nghe vậy thì mừng quýnh, hắn nói rằng miễn kẻ thù chết là hắn mãn nguyện rồi. Quả thật, kẻ ngu si đã thù ghét ai, chỉ luôn mong cho họ mất mát, đau khổ hoặc chết đi mới vừa lòng, hả dạ.
Sân có nghĩa là nóng giận bộc phát ra bên ngoài khi ta không hài lòng hay bất bình về một điều gì đó. Sân được biểu lộ qua những trạng thái như đỏ mặt tía tai, bực tức, la hét, xỉa xói, nguyền rủa, chửi mắng, đánh đập, thậm chí có thể giết người khi không làm chủ được bản thân. Song song với sân là hận, có nghĩa là hờn, là dỗi, còn gọi là oán hờn, bức rức, khó chịu trong tâm. Theo từ Hán Việt, ta gọi chung là “sân hận”, một trạng thái của tâm được thể hiện ra bên ngoài gọi là sân, âm ỉ sôi sục bên trong gọi là hận.
Người nóng tính khi việc qua rồi sẽ không nhớ lại vì lời bộc trực họ nói rồi thôi, nhưng khi hận ai thì họ nhớ hoài, lâu ngày sinh ra thù ghét, mà đã thù ghét thì họ cố tình tìm đủ mọi cách để hại được người, nên mới gọi là hận thù. Nhất là những người làm chính trị; họ luyện tập để cơn giận không thể hiện ra bên ngoài, nhưng được đè nén, kìm hãm bên trong, nên đối phương không hề phác giác. Hạng người này rất nguy hiểm, họ giết người không bằng gươm đao, giết không gướm tay vì quyền lực, danh vọng, và có thể giết luôn cả người thân.
Ai mang tâm niệm thù hận này vào lòng mà không biết cách buông xả, trước nhất sẽ làm chính mình bất an, bực tức, khó chịu mỗi khi gặp hoặc nghe nói đến người. Như kẻ ngu kia vì ôm vào lòng tâm niệm hận thù, nên lúc nào cũng bức bách, khổ đau, phải tìm cách trả thù mới yên lòng, thỏa dạ. Dù được bạn bè khuyên nhủ thế nào cũng không bỏ qua, cứ một bề cố chấp trả thù cho bằng được. Hạng người này thật sự đáng thương hơn là đáng ghét. Họ bị vô minh, mê muội che lấp, nên dù có học Phật pháp nhiều năm họ cũng vậy, khó lòng thay đổi. Họ luôn thấy mình là thầy thiên hạ, càng ở chùa lâu càng si mê, sân hận, chấp trước, bám víu, và dính mắc vào đó. Người mang tâm niệm hận thù như thế trước mắt chưa hại được ai, mà đã tự hại chính mình, có khác gì kẻ đốt đuốc mà đi ngược chiều gió vậy. Kẻ ngu cũng sẽ như thế, chưa hại được ai mà đã tự đốt mình bằng ngọn lửa sân hận bốc cháy bên trong.
Nóng giận là thói quen thông thường của nhiều người, nhưng giận mà biết điều phục cơn giận, hay chuyển hóa cân bằng cơn giận thì lại rất khó đối với phàm phu, tục tử chúng ta. Có người vì chút nóng giận mà ôm hận cả đời, thề chết đem theo chứ một lòng không dứt. Cũng như kẻ ngu, nhất quyết trả thù dù phải chết trước nhưng lòng vẫn vui mà không hề buồn phiền. Hắn chỉ mong sao kẻ thù phải chết là được rồi, hắn không cần cầu mong gì hơn. Đúng là ngậm máu phun người dơ miệng mình, như kẻ ngu xịt thuốc trừ sâu, lại đứng ngược gió để hứng trọn bao nhiêu chất độc, nhẹ thì sơ cứu, nặng thì tàn tật, hoặc chết người như chơi.
Một tu viện nọ ở gần núi Lớn có một chú chó tên là Ky nô. Chú trông rất dễ thương, nhưng lại dễ ghét vì tật sủa dai mỗi khi có khách thập phương qua lại.
Một hôm, có đoàn Phật tử đến viếng chùa, chó Ky nô sủa dai làm mọi người cảm thấy khiếp sợ. Thiền sư trong thất bước ra hứ hứ mấy tiếng, nhưng chẳng tác dụng gì. Con chó sủa mãi khiến Sư ngại quá nên nện mấy hèo, khiến nó đau, kêu cẳng cẳng rồi bỏ chạy luôn mà không quay lại.
Cũng sáng hôm đó, có một chú tiểu vì mê chơi game, lơ là bỏ học. Thiền sư bắt chú quỳ hương răn dạy, nhưng chú một bề ngoan cố, không nhận lỗi mình, nên vừa quỳ lại vừa cự nự. Thiền sư đánh cho mấy hèo, chú cũng giận quá, liền bỏ đi, không một lời từ giã.
Cũng trong ngày ấy, Thiền sư có việc xuống núi đến chiều tối mới về. Con chó Ky nô đứng trước cổng chùa, ra vẻ sợ sệt, quẩy đuôi lia lịa và đứng lên bằng hai chân sau, hai chân trước sá sá như lạy, hai hàng nước mắt tuôn trào bên má như ăn năn hối lỗi rất nhiều. Còn phần chú tiểu đi luôn mất hút mà không hẹn ngày về. Một ngày rồi lại hai ngày, một tuần rồi đến một tháng, rốt cuộc một năm trôi qua nhưng chú tiểu ngoan hiền, dễ thương ngày nào nay không còn và cũng không biết đã đi đâu, về đâu.
Tội nghiệp cho chú tiểu quá chừng, nhờ có phúc duyên tốt nên mới được vào chùa tu học từ nhỏ, ấy thế mà chỉ vì nông nổi, bồng bột ham chơi mà đành cam chịu bỏ cuộc nửa chừng, khiến đường tu bị gián đoạn.
Lửa địa ngục sẽ thiêu đốt những ai không biết cách kiềm chế cơn giận, làm mất hết bình tĩnh, lý trí lu mờ, không làm chủ bản thân, gây bao lầm lỗi và khổ đau cho người khác. Chú tiểu tuy có phúc duyên lớn được mang thân người, lại sớm được thọ giáo và sự chỉ dạy tận tình của thiền sư, nhưng trong lòng lại oán hận mà đành đoạn bỏ đi. Vì sân hận nên chú đã đánh mất cơ hội làm con người “ tâm linh” trên cầu thành Phật dưới cứu độ chúng sinh. Con chó tuy bị Thiền sư đánh đau, nhưng nó là con vật trung thành, không tính toán so đo, nhờ vậy vẫn còn cơ hội ở lại tu viện, học cách chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an vui hạnh phúc, giúp thay đổi nghiệp báo ngu si để sau này được thân tâm tốt đẹp.
Chú tiểu và con chó, hay con người và con vật. Con người có lợi thế ý thức cùng sự hiểu biết, nếu biết vận dụng, hướng theo chiều tốt đẹp thì đời sống đạo đức tâm linh ngày càng trở nên hoàn thiện hơn. Ngược lại, nếu đi theo chiều hướng xấu xa, gây tạo tội lỗi thì bị đọa lạc vào ba đường dữ: địa ngục, quỷ đói và súc sinh. Địa ngục ở đây là địa ngục trần gian, chỉ người quản lý tội phạm và người phạm tội mới biết được mà thôi. Tùy theo tội nặng hay nhẹ mà có mức án cân xứng với nó; ngoài ra còn vô số địa ngục như nhà bếp gia đình, nhà hàng tươi sống, lò mổ sát sinh, phòng cấp cứu tai nạn, nhà đánh bắt bẫy lưới và vô vàn vô số địa ngục khác trên cõi đời này.
Địa ngục tâm thức là cái tâm toan tính hại người, hại vật, nóng giận quá đáng, đánh đập, chửi mắng, hành hạ người khác; đó là địa ngục hiện tiền. Với Loài súc sinh thì ta đã thấy rất rõ ràng, vô số, vô vàn chủng loại từ nhỏ đến lớn ăn nuốt, giết hại lẫn nhau theo kiểu mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ và lại còn bị con người tiêu thụ, giết làm thức ăn bằng nhiều hình thức. Với loài quỷ đói thì ta khó thấy, ai có nghiệp duyên mới rõ được kiếp sống của chúng, như nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng cũng đã từng nhìn thấy.
Sân giận là một trong những nguyên nhân có thể làm cho con người bị đọa địa ngục hiện tiền, khi không biết làm chủ bản thân, đã lỡ tay giết một ai đó. Không phải ai vào chùa cũng đều ý thức được giá trị cuộc sống, biết được trách nhiệm và bổn phận tu hành của bản thân. Con người và loài vật khác nhau ở chỗ nào? Đa số con vật đều sống theo quán tính tập quán, vì không có ý thức suy nghĩ nên rất trung thành và biết ơn, nhất là loài chó. Có nhiều con chó dù bị người đánh đập, xua đuổi thường xuyên, nhưng loài chó không bao giờ giận lâu, khi bị đánh đau thì kêu ẳng ẳng hay bỏ chạy một lúc rồi cũng quay trở lại. Tuy nhiên, con chó vẫn biết lỗi khi không làm vừa lòng chủ, nhưng nó vẫn biết ơn con người vì thương mà nuôi nó, nên lúc nào nó cũng quẩy đuôi mừng. Điểm đặc biệt của loài chó là sự trung thành và biết ơn tuyệt đối.
Với chú tiểu lại không được như vậy. Tuy có phúc duyên lớn nhưng bồng bột, ham vui, không ý thức việc tu hành là tối quan trọng nên lơ là, dễ duôi, bị bạn bè xấu tác động hoặc đam mê chơi game quá sớm. Chính vì vậy, chú dễ dàng bị cuốn vào dòng đời, bởi những trò chơi hấp dẫn, ma mị ảo, luôn kích thích lòng tham con người cùng ước muốn hưởng thụ cá nhân.
Hiện nay, con ma game bạo lực đang xâm nhập vào học đường mạnh mẽ, làm vẩn đục tâm hồn các em, khiến các em mê muội bởi sức hấp dẫn kích thích tài năng ảo. Về mặt nhận thức, ai cũng biết game chỉ là thế giới ảo, nhưng tuy biết ảo, ý thức hệ con người vì nhạy bén nên dễ tiếp thu nhanh, do thói quen xấu nhiều đời luôn muốn hưởng thụ và chiếm hữu. Chính quan niệm chấp ngã của cái TÔI cá nhân và cái muốn chiếm hữu đã làm các em cảm thấy mình là trung tâm vũ trụ, mỗi khi chơi game là có cơ hội chứng tỏ bản lĩnh, tài năng của mình, để được làm game chủ.
Người nghiện game luôn mang tư tưởng ảo, vì muốn chứng tỏ tài năng của mình mà mê muội dính mắc vào những điều huyền hoặc không thật có. Thường trẻ em lần đầu tiên tiếp xúc với con ma game, không biết phân biệt điều hay, điều dở mà luôn nghĩ rằng thế giới ảo có gì là tác hại. Các em đâu biết tuy thực là ảo nhưng có công năng kích thích lòng tham, nâng cao bản ngã hơn thua, làm trẻ sớm bị tha hóa do sức hấp dẫn mà vướng vào tệ nạn xã hội. Thật ra, game bạo lực ngay với người trưởng thành, nếu không có sự hiểu biết chân chánh cùng nhận thức sáng suốt thì vẫn bị chi phối, lôi cuốn, làm hỏng cả cuộc đời huống chi là trẻ em.
Thiền Viện Thường Chiếu hiện nay có khoảng 150 chú tiểu đang tập sự thực hành lời Phật dạy, nhưng nếu ai trong lúc đi học vướng vào con ma game thì trước sau gì cũng bỏ cuộc ra đời. Tôi năm nay 53 tuổi, vào chùa đã 18 năm, nhưng gặp ai chơi cờ tướng vẫn bị cuốn vào như con thiêu thân. Bản thân tôi là một bằng chứng thiết thực, vì tập khí nhiều đời huân tập biết bao thói quen tật xấu, chỉ sơ hỡ, lơ là một chút là thói quen cũ sai xử ta dễ dàng. Phim ảnh đồi trị cùng game bạo lực kích động tâm lý tiêu cực như chiến thắng dẫn đến sân hận, thù hằn, ganh ghét, tật đố khiến các em chai lỳ, lạnh lùng, mất dần tính người nên vô cảm quá độ. Xã hội ngày nay có quá nhiều vụ án còn trong lứa tuổi thành niên đã trộm cướp, hiếp dâm, giết người vô cùng dã man và tàn bạo. Tất cả cũng vì các em tiếp xúc quá sớm với phim ảnh đồi trị và con ma game bạo lực.
Trẻ em tiếp xúc nhiều với game bạo lực dễ dẫn đến bốc đồng, háo thắng, vì trong đó chỉ có đấu tranh, hơn thua, thắng bại, chết chóc, đau thương, không chút tình người. Thế giới ấy không có tình thương, không sự cảm thông, không có hòa bình, nếu thắng thì sống còn bại thì chết.
Tôi có đứa con bị bỏ rơi từ một tháng tuổi. Khi ấy, tôi vô trách nhiệm bởi đam mê tứ đổ tường. Ngày tôi khuyên mẹ xuất gia, bà đã đồng ý, nhưng phải tìm được hai đứa cháu nội, tức là con tôi để bà nhìn mặt cháu nội đích tôn. Tôi và thầy Nhật Từ cùng mẹ đi về Đức Hòa Long An tìm lại hai con lưu lạc mà tôi bỏ rơi trước khi xuất gia học đạo. Vì duyên nợ còn nên cha con, bà cháu được gặp lại nhau mừng vui khôn xiết. Đó là ngày sum họp, đoàn tụ có ý nghĩa nhất trong cuộc đời của chúng tôi.
Sau đó, mẹ tôi xuất gia, đứa con thứ hai cũng phát tâm làm đệ tử thầy Thích Nhật Từ khi được 13 tuổi. Ai cũng nói sao tôi hay quá, không ngờ duyên xấu lại chuyển thành tốt. Thời gian đầu mới vào chùa chú Ngộ Đức ngoan hiền, thật thà hết mực. Chú nói với tôi Phật pháp hay quá thầy ơi nên con sẽ về độ mẹ và ngoại cùng tu luôn. Thời gian đó, chú đã ngồi thiền được trên một tiếng rưỡi. Vậy mà chỉ mấy năm sau, chú bị con ma game quyến rũ nên không còn thiết tha với việc tu hành nữa. Tôi thấy tình thế không xong, sau nhiều lần khuyên nhủ vô ích, nên tôi thay đổi chỗ tu cho chú ở vùng xa, hẻo lánh với hy vọng chú thay đổi mà cố gắng tu lại từ đầu. Mặc dù thế nhưng lực bất tùng tâm, chú vẫn tiếp tục chơi game nên cuối cùng hết thuốc trị, tôi đành bó tay, trả chú về lại cho gia đình ở quê. Tôi chỉ mong sao chú tự ý thức làm lại cuộc đời, làm mới lại chính mình bằng sự suy nghĩ chín chắn. Cuộc sống ở quê vì thiếu thốn khó khăn nên chú phải tự làm việc để trang trải miếng ăn. Ấy vậy mà cố tật chơi game chú vẫn không chừa bỏ, ngày đi làm tối về chơi game đến tận nửa đêm.
Đầu xuân Nhâm Thìn, mẹ tôi bị bệnh tai biến mạch máu não lần thứ năm. Chú đã xuống thăm bà trong những ngày hấp hối. Sau khi gặp lại chú, bà mừng rơi nước mắt rồi an nhiên, nhẹ lòng ra đi. Chắc bà cũng đã dặn dò mong chú tiếp tục con đường tâm linh, vì hai bà cháu có sự cảm thông với nhau nhiều hơn. Do hiểu được mong muốn của bà trong giờ phút cuối cùng và ý thức sự vô thường của kiếp người, nên chú động lòng bi mẫn, phát tâm ở lại chùa Giác Ngộ, theo Thầy Nhật Từ phụ quay phim cho đến ngày hôm nay.
Hiện giờ, mỗi tháng chú vẫn theo tôi đến những trung tâm bảo trợ xã hội, tiếp cận thực tế hoàn cảnh bi đát của những người bất hạnh, nhằm cố gắng để điều phục chính mình, vượt qua sức hấp dẫn của con ma game vô bổ. Thật ra, thế gian này kẻ khôn thì ít còn người dại thì nhiều. Do ma lực ảo từ sự chấp ngã của cái tôi, cái ta này, mà ta chẳng biết mình là ai. Con người vì thế nên mãi lao đầu vào các thú vui thấp hèn, rồi dính mắc vào vòng tệ nạn, tự làm khổ mình và làm khổ người thân. Còn biết bao thứ tệ nạn khác như rượu chè, cờ bạc, hút chích, đàn điếm khiến con người mất dần nhân cách, xã hội tha hóa cùng những khoái lạc ảo, tuy có mà không bền chắc lâu dài, gây nên những thiệt hại nặng nề cả về phương diện vật chất lẫn tinh thần.
Có nhiều gia đình vì quá thương con nên đã tập chúng chơi game từ khi mới vừa ba tuổi. Chính con ma game sẽ giết chết đời các em từ tuổi ấu thơ, làm thiệt hại cho gia đình và hủy hoại nhân tài của đất nước, ảnh hưởng đến tương lai tươi sáng của xã hội. Trách nhiệm này thuộc về ai? Gia đình, nhà trường, xã hội hay những người nắm cán cân công lý. Đất nước cần có cuộc hội thảo toàn dân để tìm ra giải pháp tốt đẹp, nhằm giúp các em không rơi vào hố sâu tội lỗi bởi con ma game bạo lực.
Đôi lời tâm sự chân thành mong được kết nối yêu thương, sẻ chia cuộc sống với chư huynh đệ pháp lữ gần xa nhằm cùng nhau chia vui, sớt khổ qua cách thức chuyển hóa những sân hận, hơn thua.
Kính ghi
Phong Trần Cuồng Nhân
NÓNG GIẬN CÓ BA HẠNG NGƯỜI
Hạng người thứ nhất như chữ viết trên đá, hạng người thứ hai như chữ viết trên đất, hạng người thứ ba như chữ viết trên nước.
Sống ở đời, con người luôn vui vẻ, thích thú khi gặp những việc vừa lòng, như ý, và sẽ phản ứng giận dữ khi gặp những điều trái ý nghịch lòng. Tuy nhiên, tùy theo sự huân tập thói quen tốt xấu của mỗi người mà sự biểu lộ cơn giận qua nhiều cấp độ khác nhau.
Hạng người thứ nhất như chữ viết trên đá, rất dễ nóng giận, lại hay hận thù và nhớ rất dai. Trong lòng người này lúc nào cũng bực tức, khó chịu vì sự chấp trước, bảo thủ nặng nề. Hạng người này rất nguy hiểm vì chỉ cần trái ý, nghịch lòng một chút là đùng đùng nổi giận, thù hằn dai dẳng và sôi sục ý muốn trả thù bất chấp hậu quả. Điều này rất dễ làm tổn hại nhiều người. Vì họ dễ giận, lại giận rất lâu sinh tâm thù hằn, ghét bỏ nên hay nói lời hằn học nặng nề. Họ hay vu khống, hủy nhục người khác và sẵn sàng tìm cách triệt tiêu đối phương bằng bất cứ giá nào.
Nếu họ có quyền cao chức trọng, thì kẻ dưới không khi nào được yên thân nếu lỡ làm điều sai quấy với họ. Khi ta không đủ sức nhiếp phục hạng người này thì tốt nhất nên tránh xa, càng xa càng tốt. Càng gần gũi họ ta càng dễ mang họa vào thân. Cũng như chữ viết đã khắc sâu vào đá, rất khó phai mờ dù bão táp, phong ba mà nét chữ vẫn lồ lộ. Người hay nóng giận, lại thù dai sẽ ghim mãi trong lòng rồi tìm cách trả thù hay triệt tiêu, hủy diệt. Nếu chẳng may họ nắm quyền lực trong tay thì chỉ gây khổ đau cho thiên hạ. Do tham vọng lớn, lại chấp trước, bảo thủ trong lòng nên họ ôm mộng bành trướng bá quyền thiên hạ. Cơn giận của họ gần như không biểu lộ bên ngoài, nên bị đè nén, ghìm gút bên trong thành ra dai dẳng. Ai lỡ đụng vào hạng người này thì khó bề yên thân vì tâm niệm ích kỷ, thù dai khó quên.
Hạng người thứ hai như chữ viết trên đất ắt thành chữ. Dù sao thì họ cũng đỡ hơn hạng người thứ nhất bởi chữ trên đất thì có thể bôi được. Khi ta nghe ai nói lời trái tai, hay làm tổn thương mà ghim gúc, sôi sục trong lòng thì rất nguy hiểm. Nếu luôn bám víu, dính mắc vào đó sẽ có đấu tranh, nặng thì xô xát, nhẹ thì dùng lời hằn học khó nghe. Hạng người này nếu biết buông xả, lòng không cố chấp thì tâm mát mẻ, dễ dàng cảm thông, bỏ qua mọi việc.
Đã làm người có ai chưa từng một lần nóng giận? Nếu như mau giận mà lại chóng quên, tuy nóng nãy nhưng chỉ vì trực tính thì chuyện qua rồi sẽ không ôm phiền muộn trong lòng. Khi ta lỡ lời làm cho ai buồn thì nên biết hạ mình xin lỗi và cố gắng khắc phục. Cũng giống như chữ viết trên cát, trên đất, chỉ một cơn mưa thoáng qua là bao nhiêu hờn giận đều tan hòa vào hư không, nên thân tâm sẽ nhẹ nhàng, mát mẻ. Tuy nóng giận nhanh mà lại mau nguội lạnh. Hạng người này thật thà, ngay thẳng nên không để bụng. Điều gì không hài lòng, vừa ý thì nói ra liền. Chúng sinh ai cũng thích ngọt ngào, êm diệu nên lòng thì tốt nhưng lại dễ làm người khác tự ái, tổn thương, sinh ra thù hằn, oán ghét.
Hạng người thứ ba như chữ viết trên nước, dù viết bao nhiêu cũng không thành chữ, nhờ vậy họ sống an vui, hạnh phúc. Nếu lời thế nhân nói đúng thì mình tiếp thu, sửa sai. Lỡ nói không đúng thì mình lắng nghe đặng cảm thông nỗi khổ niềm đau của người khác. Sự không tranh giành, không bực tức, không giận dữ là trường hợp hiếm có ở trên đời; chỉ có các bậc đại Bồ tát đã thành tựu tuệ giác vô ngã mới sống an nhiên, không phiền giận một ai. Bậc Thánh trí luôn như chữ viết trên nước, tuy có mà cũng như không, bởi các ngài đã sống với tính nghe viên thông, nên có tiếng nghe có tiếng, không tiếng nghe không tiếng. Người con Phật trong quá trình tu tâm dưỡng tánh cần phải có sức nhẫn chịu, dùng trí tuệ từ bi để chuyển hóa những thói quen sân hận.
Sự giận dữ thường được biểu hiện qua nhiều góc độ khác nhau. Trước tiên là qua giọng nói với lời lẽ thô tục như quát tháo, nạt nộ, hăm dọa hoặc đâm thọc hay dùng lời đường mật nhằm hạ gục đối thủ bằng nhiều cách khác nhau. Khi cơn giận dữ được biểu hiện qua cử chỉ thì da mặt tái mét, mắt đỏ ngầu, đập phá các thứ để thỏa mãn cơn phẫn nộ. Người giận dữ chẳng khác gì người điên, vì mất bình tĩnh nên không làm chủ bản thân, phát ra lời nói, hành vi, cử chỉ hằn học làm đau lòng người khác.
Nhất là các ông vua thời phong kiến. Vì cho rằng ta là thiên tử, tức là con trời, thay trời hành đạo, nên đặt ra những luật pháp khắc nghiệt nhằm bảo vệ bản ngã và dòng tộc của mình.
Có một ông vua khi mới lên ngai dân tình đã không phục, quan quân nỗi loạn, giặc giã khắp nơi nên tình thế bất an. Vua là người có mưu trí, biết được lòng dân còn quá mê muội, hay tin tưởng trời đất quỷ thần, nên một hôm cho họp bá quan, văn võ để nói rằng đã nằm mộng thấy thiên tử chính thức truyền trao công việc cai trị cùng một cẩm nang trị bình thiên hạ. Để thuận theo ý trời mà giúp dân an cư lạc nghiệp, bá quan phải tìm cho ra thiên chúc thư để công báo toàn dân. Nếu ai trái lệnh sẽ phải bị hành quyết. Bá quan văn võ đều tin theo và cùng nhau tìm kiếm. Họ tìm được quyển sách vàng tuy rất cũ kỹ nhưng mở sách ra hương thơm ngào ngạt nên ai cũng phải tin. Buỗi lễ diễn ra long trọng trước đền vua, từ quan quân cho đến thứ dân đều cùng có mặt để nghe đọc “thiên chúc thư.”
“Vua Tống Chân Tông, mạng thiên tử được xuống trần gian làm nhiệm vụ do trời giao phó, cai trị thiên hạ 200 đời nên muôn dân y theo phụng hành”. Từ đó bá quan văn võ cùng hết thảy thiên hạ đều tin theo, không dám cãi lời. Thực tế, đời Tống bên Trung Hoa trị vì được 60 đời mà thôi. Rõ ràng đây là mưu mẹo của vua Tống Nhân Tông khéo léo bày biện chứ không do ông trời ông đất nào cả. Chúng ta vì nhẹ dạ, cả tin nên không biết phân biệt đúng sai, bị một số quyền chức lợi dụng, áp đặt nhằm dễ bề sai khiến, điều hành.
Ngày nay, nhờ sự tiến bộ của văn minh khoa học, con người khám phá được bầu trời, vũ trụ bao la do nhân duyên hòa hợp mà thành. Tất cả đều theo nguyên lý duyên khởi: “ Cái này có cái kia có, cái này không cái kia không, cái này sinh cái kia sinh, cái này diệt cái kia diệt, không có gì do một nhân mà thành”. Do đó, chế độ phong kiến quân chủ dần bị thay đổi hẳn, thay vào đó là chế độ dân chủ ai có khả năng phục vụ, đóng góp cao cho xã hội thì được quyền nắm cán cân công lý, nhưng tối đa cũng chỉ hai nhiệm kỳ. Điều này nhằm tránh tình trạng làm lâu hóa lão làng, lại trở về thời phong kiến, quân chủ như xưa. Hạng người thứ nhất do chấp trước, nặng nề bám víu, nên sân hận, ác độc, dã man. Họ lợi dụng lòng tin nhẹ dạ khi con người chưa đủ sáng suốt nhận định đúng sai.
Nóng giận là một trạng thái xúc cảm rất phổ biến của con người. Nó là một loại cảm xúc tiêu cực, không lành mạnh và là nguyên nhân gây ra nhiều hệ lụy khổ đau. Sự tức giận có thể biểu hiện dưới những cường độ khác nhau, nói lời mỉa mai, cay cú, hằn học, lớn tiếng chửi mắng, quát tháo nạt nộ rồi tức tối đánh đập, có khi dẫn đến cả tội ác giết người.
Không giận là trường hợp hiếm có ở đời. Khi ai đạt đến vô ngã vị tha thì mới không còn phiền giận. Các bậc thánh trí luôn bình tĩnh an nhiên trước mọi nghịch cảnh nhờ thành tựu trí tuệ, từ bi. Như chữ viết trên nước, tuy có mà cũng như không, chẳng một việc gì có thể lay động tâm tư các Ngài. Người con Phật trong quá trình tu học để chuyển hóa phiền não tham sân si, trước nhất phải biết buông xả các tạp niệm xấu ác, dấn thân gieo trồng phước đức để từng bước chuyển hóa sự nóng giận của mình.
PHẬT KHÔNG CÒN SÂN HẬN
Có nhiều người thắc mắc và nghi ngờ rằng Phật còn sân hận, bất bình nên mới quở trách và đuổi hai vị Xá lợi Phất, Mục kiền Liên cùng năm trăm đệ tử. Vậy là Phật vẫn còn phiền não hay sao?
Cuộc đời đức Phật có khi ngài ở một mình nơi thất vắng, cũng có khi ở cùng đại chúng tùy duyên phương tiện để hóa độ chúng sinh được lợi lạc lâu dài. Một hôm, Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, dẫn năm trăm đệ tử vừa mới xuất gia đến đảnh lễ, mong cầu sự chỉ dạy của Đức Thế Tôn. Vì hội chúng này không giữ oai nghi tế hạnh, ồn ào, náo nhiệt, nên đức Phật bảo Ngài A Nan cùng Xá Lợi Phất mời họ đi chỗ khác, cả hai vị thượng thủ cũng cùng đi với họ. Một số người đọc kinh thấy câu chuyện trên thì cho rằng Phật còn bất bình, sân hận nên mới tỏ thái độ và cư xử như vậy.
Thật sự, Đức Phật là bậc vô thượng, Chánh Đẳng Chánh Giác, đương nhiên không còn phiền não tham sân si chi phối. Ngài lúc nào cũng an nhiên, thanh tịnh sáng suốt, không vui mừng, không sầu muộn, không thương, không ghét, và luôn bình đẳng với tất cả mọi người. Đặc điểm này không khác gì như đất. Như chúng ta biết, đất có bao giờ bất bình hay hờn giận ai đâu? Hay đất cũng có tâm thương yêu hoặc oán thù ai khác? Chuyện đó chắc chắn chẳng bao giờ xảy ra. Chúng ta đào xới, bươi móc đất tung tóe, đất cũng chẳng giận, chẳng hờn và chẳng trách một ai. Tâm của Phật cũng tuyệt vời như thế! Nhưng đất là vật vô tri, còn Phật là người có biết, vậy làm sao có thể giống nhau được?
Ở đây, chúng ta phải hiểu rằng, đức Phật thường trú trong đại định nên luôn an nhiên, thanh tịnh, sáng suốt, bình lặng như quả đất vậy. Ngài thấy chỉ là thấy, nghe chỉ là nghe, nhưng không khởi niệm dính mắc vào bất cứ vật gì. Khi ngài khởi niệm muốn tế độ chúng sinh, mà các tân Tỳ kheo ồn ào nên Phật đuổi để răn dạy vì lợi ích chính họ, chứ không vì Phật sân hay tức giận, bất bình. Phật vì lòng từ bi thương xót, muốn răn dạy các đệ tử mà thôi. Như nước trong bình nhờ gạn lọc sạch cáu cặn nên dù lắc lư bình không vì thế mà vẩn đục trở lại.
Tâm Phật cũng vậy. Ngài tùy duyên hóa độ chúng sinh nên khi cần thiết vẫn phải dùng phương tiện thiện xảo để điều phục mọi người. Cũng như biển lớn không bao giờ dung chứa xác chết. Dù có hàng trăm, hàng ngàn xác chết trôi nổi bồng bềnh giữa biển cả mênh mông, sóng cũng tìm cách đánh dạt vào bờ, không dung túng hay thiên vị một ai. Tâm Phật cũng như biển lớn không bao giờ sân giận, hay vui mừng hoặc thương ghét điều gì. Vì phương tiện tiếp chúng, độ tăng, Phật muốn 500 vị Tỳ Kheo ý thức rõ con đường tu hành nên Người mới đuổi nhằm sách tấn, chỉ dạy họ.
Chúng ta quả thật có phúc duyên lớn lao mới được thừa hưởng những lời dạy vàng ngọc quý báu của Phật gần ba ngàn năm nay. Lời dạy của Người thật sự đã giúp cho nhân loại biết sống yêu thương, bằng trái tim hiểu biết, cảm thông, tha thứ, khoan dung và độ lượng với nhau. Nhưng vì chúng sinh bị vô minh ngăn ngại, nên đắm say, mê muội đủ điều. Vì ta chấp cuộc sống này là thật, chấp mọi thứ thật có nên cứ mãi gây thù, chuốc oán cho nhau. Nếu ai cũng biết siêng học lời Phật dạy, tinh cần quán chiếu, suy xét tường tận, nhằm ứng dụng vào đời sống thường ngày thì thế gian này sẽ là thiên đường hạnh phúc. Do đó, đạo Phật là đạo của con người, là đạo của tình thương, vì con người nên sống có yêu thương và hiểu biết, vì con người nên cùng nhau chia vui, sớt khổ trên tinh thần vô ngã vị tha.
Chính vì vậy, năm 1999, Hội đồng liên hiệp quốc đã sáng suốt chính thức công nhận đại lễ Phật đản là lễ hội văn hóa của loài người trên thế giới này. Chúng ta hãy vui mừng vì nhân loại đã có quyết định sáng suốt đó. Đâu thể nào có một đấng tối cao ban phước giáng họa được. Hạnh phúc hay đau khổ đều là do con người tự gieo tạo mà thôi. Nhân quả công bằng và chi phối tất cả. Mình làm lành thì được hưởng quả báo tốt đẹp, an vui. Mình làm ác thì phải chịu quả báu sa đọa khổ đau.
Một hôm, trên đường đi giáo hóa, các tu sĩ Bà la môn thấy đệ tử của mình theo Phật quá nhiều. Vì tức giận nên họ chặn đường để chửi mắng Phật. Phật vẫn bình thản, an nhiên thong dong đi đều từng bước như không có chuyện gì xảy ra. Họ đi theo sau, cứ mắng chửi hoài mà không thấy Phật phản kháng gì hết, nên bực tức chạy lên trước chặn Phật lại hỏi rằng?
_ Này Cồ Đàm, ông có điếc không?
_ Cồ Đàm, ông nghe ta nói gì không? Sao ông cứ làm thinh hoài vậy?
_ Lúc bấy giờ Phật mới ôn tồn hỏi ông Bà la môn rằng:
_ Thí như nhà ông có đám giỗ, ông làm tiệc mời bạn bè, người thân tới dự, nhưng họ không đến thì thức ăn đó thuộc về ai?
_ Dĩ nhiên là thuộc về tôi, chứ về ai.
_ Cũng vậy, từ sáng sớm đến giờ ông theo sau chửi ta, nhưng ta không nhận thì đâu có lỗi gì?
Nếu có phước, bạn được ngồi trên người, thì bạn không nên dùng uy quyền thế lực để chèn ép người, mà hãy nên mở rộng tấm lòng từ bi hỷ xả để đối xử với người. Nếu không may mà bạn đứng dưới người, thì không nên sanh tâm ganh ghét, tật đố mà hãy giữ mình đoan chánh, đặng đem sự đoan chánh ấy mà đối xử với mọi người. Đức hạnh là phẩm chất cao quý của người tu hành, có khả năng nhiếp phục nhân loại để tạo nên một gia đình an vui, hạnh phúc, một xã hội hòa bình, một quốc gia thịnh vượng và một thế giới an lành.
Qua câu chuyện trên, vì tâm ganh tị, tật đố mà vị Bà la môn đánh mất đi phẩm chất tốt đẹp của mình bằng thái độ không văn hóa tí nào. Tuy họ đi theo sau chửi Phật, mà Phật vẫn ung dung như không có chuyện gì. Người không hề tỏ chút thái độ phản kháng hay giận hờn, vẫn bình thản từng bước thảnh thơi cho đến khi ông Bà la môn không còn lý lẽ gì bắt bí. Chính sự ôn tồn, từ ái của Phật qua những câu đáp đã khiến ông Bà la môn chợt thức tỉnh lỗi lầm. Tuy điều ông dành cho Phật là lòng sân hận, sự ganh ghét, tâm đố kỵ, tính hờn mát, nhưng Phật không nhận mà còn trải lòng cảm thông và thương tưởng đến ông. Chính vì vậy mà ông ăn năn, phát tâm sám hối và xin quy y Phật.
Chúng ta thấy, tuy bị mắng chửi nhưng Phật bình tĩnh, an nhiên không nói một lời, mặc tình ai mắng gì thì mắng, Phật vẫn biết, vẫn nghe nhưng không dính mắc bất cứ lời nào.
Còn chúng ta thì sao? Chỉ cần ai đó ở tít đằng xa nói tới tên mình thì bắt đầu có chuyện, mình sẽ hằn học, tranh cãi hơn thua để rồi hai bên kẻ tám cân, người chín lạng ăn thua đủ với nhau, để cuối cùng chó thì giạt móng còn nai thì le lưỡi.
Đức Phật luôn dùng trí tuệ soi sáng nên biết chúng sinh vì vô minh mê muội che lấp mới thốt ra những lời chửi mắng như vậy, Người thấy họ thật đáng thương hơn là đáng ghét. Người tu hành cũng giống như người học trò đi học, học cấp một thì bài thi dễ, cấp hai khó hơn chút, còn cấp ba lại khó hơn nữa. Đến khi đậu được tiến sĩ thì càng bị khảo nhiều hơn.
Người tu Phật mới tu thì thử ít, tu lâu ngày thì bị khảo nhiều, tu càng cao thì khảo đảo càng lắm chứ đừng nói tu lâu mọi việc sẽ được hanh thông. Còn ta thì sao, chỉ cần ai đó chê một chút thôi, chưa nói gì đến chửi là ta đã nỗi tam bành lục tặc lên rồi. Thế mới thấy người tu càng lâu càng phải biết nhẫn nhục.
Đức Phật của chúng ta đâu có nói đạo lý gì cao siêu. Người chỉ răn dạy ta biết mở rộng lòng từ bi cao cả để nhiếp phục chúng sinh bằng thái độ im lặng như chánh pháp. Sự sân hận, hờn mát chỉ khiến cho cả hai bên càng thêm gây thù chuốc oán vì hơn thua, tranh đấu, để cuối cùng chỉ làm khổ đau cho nhau.
Để được sống yêu thương và hạnh phúc bằng trái tim hiểu biết, ta cần phải thường xuyên quán chiếu, soi sáng để không dính mắc điều gì. Sự ràng buộc bởi tham lam, sân hận, si mê, kiêu căng, tật đố thù ghét và tuyệt vọng chỉ khiến con người thêm loạn động, mệt mỏi và căng thẳng. Khi các độc tố ấy đã ăn sâu vào cơ thể, nó sẽ làm cho ta bực bội, tức tối, cau có, giận hờn, mỗi khi có chuyện không vừa ý hài lòng mà gây tổn hại cho nhau.
Ngày xưa Phật đã bị nhiều người mắng chửi, vu oan giá họa, phao du hủy nhục những chuyện xấu xa không thực có cũng vì tâm ganh tị tật đố và sự nóng giận của chúng sinh. Tuy vậy mà Người vẫn bình tĩnh, an nhiên, không oán giận, không ghét bỏ mà còn từ bi mở rộng tấm lòng thương yêu chân thành đến với họ. Người con Phật muốn được bình an hạnh phúc lâu dài, cần phải cố gắng nỗ lực tu tập nhiều hơn để chuyển hóa cơn nóng giận thành trí tuệ từ bi.
NỮ CHỦ HIỀN THỤC
Chữ sân trong Hán cổ biểu hiện một môi trường sống, như khi con người cảm thấy không hài lòng, vừa ý, bực tức, xung đột, bất bình dẫn đến mâu thuẫn đối kháng, gây hận thù và làm khổ đau cho nhau. Sự tức giận của con người có nhiều cấp độ khác nhau, như nói lời mỉa mai, cay cú, hằn học, mắng chửi, giận dữ, quát tháo, hờn mát, oán thù, đánh đập, chửi bới, hù dọa, triệt tiêu và hủy diệt nhau.
Thuở xưa, tại thành Xá vệ có một nữ chủ nổi tiếng với một đức tính hiền lành, dễ thương, không bao giờ biết giận dữ với ai. Bà có người giúp việc siêng năng, cẩn thận, luôn làm vuông tròn mọi việc chu đáo. Vì nghe mọi người ca ngợi về bà nên cô giúp việc muốn xem bà có thực như lời tán thán hay không?
Sáng hôm sau, cô cố tình ngủ dậy thật trễ, liền bị bà gọi dậy và quở mắng một trận. Để xác định tâm bà chủ thêm một lần nữa, hôm sau cô dậy trễ hơn, và lúc này, bà mới nỗi cơn tam bành thực sự. Để biết bà chủ của mình chắc chắn có giận dữ và phẫn nộ hay không, nên lần sau cô càng dậy trễ hơn, và hậu quả xảy ra thật đáng tiếc. Bà chủ lấy then cài cửa đánh mạnh vào đầu khiến cô lỗ đầu, máu chảy cùng mình. Cô vừa chạy vừa la lên rằng: mọi người hãy nhìn đây, bà chủ của tôi quá hiền thục nên tôi mới bị đánh như thế này!
Sân hận là âm Hán Việt, là từ ngữ chỉ chung cho loại phiền não có tính cách bốc lửa. Sân có nghĩa là nóng giận, mỗi khi có sự việc bất bình không được hài lòng, vừa ý là nó bộc phát mạnh ra bên ngoài. Hận có nghĩa là hờn mát âm ỉ sôi sục bên trong, nói cho đủ là giận hờn. Một khi con người sân hận, cộng với giận hờn mà không đủ khả năng hóa giải, thì lâu ngày trở thành thù ghét, do đó lúc nào cũng muốn tìm cách trả thù hay rửa hận.
Giận là lời nói tắt của từ nóng giận, hờn là từ nói tắt của chữ hờn mát, gọp chung lại là giận hờn.
Sân hận nghĩa là giận hờn. Khi chúng ta giận hờn ai đó mà cứ ghìm mãi trong lòng thì lâu ngày trở nên thù hằn, ghét bỏ, âm ỉ tìm cách trả thù thích đáng, khi có cơ hội là ra tay liền. Giận hờn là một thói quen xấu có tính cách hại người, hại vật, dù nặng hay nhẹ thì chắc chắn cũng làm tổn hại đến người xung quanh.
Nói về thói quen sân hận này thì bản thân tôi cũng là đại Trương Phi, một nhân vật trong Tam Quốc. Khi xưa tôi nói năng hằn học lớn tiếng, mỗi lời thốt ra đều kèm theo tiếng chửi thề. Mẹ tôi đã phải nhắc nhở, chỉ dạy nhiều lần mỗi khi tôi nói chuyện chửi thề như vậy. Mãi đến khi xuất gia vào Thiền Viện Thường Chiếu tu học, cố tật ấy mới giảm thiểu đi nhiều. Không phải ai khi đã thức tỉnh chỉ một lúc là các tập khí, thói quen xấu dứt trừ được hết. Kết quả còn tùy theo sự huân tập tật xấu nhiều hay ít của mỗi người. Tuy nhiên, có tu có sửa là có giảm bớt. Nhiều người bên ngoài cứ nghĩ rằng quý Thầy tu là phải hoàn thiện về mọi mặt để làm gương cho nhân thế, nhưng thực tế muốn chuyển hóa những thói quen tập khí xấu cũng cần phải có thời gian lâu dài.
Tu có nghĩa là sửa, như chiếc xe hư tùy theo mức độ nặng nhẹ mà sửa nhiều hay ít. Cũng vậy, mọi người đều có sự huân tập thói quen tốt và xấu khác nhau, người thì nặng về tham dục, người thì nặng về si mê, người thì nặng về sân hận, còn tôi thì nặng cả ba, nên từ 7 tuổi đã bắt đầu dính mắc vào những chuyện vu vơ, vớ vẫn. Hiện tại tôi có nhân duyên được xuất gia tu hành, nhưng để chuyển hóa những thói quen đó thật khó khăn vô cùng, phải trầy da, tróc vẫy như chú cá bị sa lưới, bắt vào giỏ. Trên lý lẽ, mọi việc dường như rất dễ dàng, nhưng thực tế mọi chuyện không đơn giản tí nào. Đành rằng quay đầu là bờ, nhưng chúng ta chỉ nhìn thấy bờ, còn phải gắng lội mới tới bờ được. Nếu ngay nơi đó chúng ta tự mãn nghĩ rằng đã xong, thì thời gian qua rồi cũng đâu vào đấy.
Bản thân tôi là một bằng chứng thiết thực. Tuy có chút giác ngộ, thấm nhuần được nỗi khổ, niềm đau, biết được tác hại của si mê chấp ngã, nhưng tôi vẫn không đủ sức làm chủ bản thân mỗi khi gặp những nghịch cảnh, chướng duyên ngăn ngại. Tôi vẫn nóng giận vì bị thói quen thâm căn cố đế đó sai xử. Những lúc tỉnh giác mới biết mình còn kém dở rất nhiều nên trong lòng luôn sanh tâm hổ thẹn. Thói quen sân hận của chúng tôi vẫn còn bùng mạnh mỗi khi gặp việc bất bình xảy ra. Cho nên vì vậy, những quyển sách tôi viết ra đây có hai điểm đặc biệt xin được bật mí cùng các bạn. Một là cảm hứng từ sự an vui hạnh phúc, hai là trong trạng thái buồn chán bất mãn một việc gì đó mà cũng viết được thành sách.
So ra, với ngài Khuất Nguyên khi xưa tôi tự thấy mình còn quá dỡ tệ, tự dặn lòng phải cố gắng chuyển hóa sửa sai. Ngài Khuất Nguyên thấy thế gian này đều đục cả nên trầm mình dưới sông mà chết, để lại dư âm, tiếng xấu muôn đời. Tôi bây giờ đầy đủ phúc duyên được gặp thầy lành bạn tốt nhắc nhỡ chỉ dạy, nên có phần thuận lợi về mọi mặt để tu hành, chuyển hóa, những thói quen xấu vì vậy đã giảm bớt rất nhiều. Ấy thế mà tôi vẫn trầy da, tróc vẫy, lơ là một chút là tập khí nóng giận lại bộc phát như thường.
Này các bạn! Tôi vẫn biết hiện tại mình còn quá nhiều tập khí, nên nói ra đây một chút tâm tình để chúng ta cùng thông cảm và tha thứ cho nhau. Ta phải cố gắng tiến tu với tâm bền bỉ lâu dài, đừng để tháng ngày buông xuôi vô ích, như chiếc lục bình trôi theo dòng nước thì uổng phí một thân người. Các bậc Thánh nhân, các vị Bồ tát thành tựu đạo pháp là vì các Ngài siêng năng tinh cần, tích cực khắc phục diệt trừ thói xấu từ khi còn nhỏ dại trong từng phút giây, nên lớn lên dù Phật sự nhiều nhưng các ngài vẫn làm chủ bản thân, không để các tạp niệm chi phối dù tốt hay xấu nên vẫn an vui, tự tại. Chúng ta vì nhiều kiếp tu ít mà muốn hưởng thụ nhiều, nên phước mỏng, nghiệp dày do đó dễ dàng bị thói quen xấu sai xử, nhưng ta cũng đừng vì thế mà thất chí nản lòng. Như con rùa từng bước chậm chạp nhưng đều đặn đi tới, tuy tốn nhiều thời gian, công sức mà lòng ta lúc nào cũng cố gắng quyết chí, kiên trì, bền bỉ thì thói quen xấu dù có bằng trời cũng sẽ hết theo thời gian.
Chúng ta hãy nên cảm thông cho người quá nóng giận, mà nói lời căm tức hay thù ghét. Vì quá đau khổ nên người ấy mất tự chủ nói ra những lời chua chát, đắng cay khiến cho người khác khó chịu mà tìm cách lánh xa. Muốn chuyển hóa cơn sân hận, ta cần phải thực tập hạnh lắng nghe, với tâm buông xả, không chấp trước. Khi mình lắng nghe với tấm lòng rộng mở sẽ làm người khác bớt khổ, có cơ hội tâm sự, trình bày, giảm bớt mặc cảm tội lỗi mà không rơi vào trạng thái cô đơn, tuyệt vọng. Nếu ta một bề chỉ biết lắng nghe mà không phán xét, nghi ngờ, trách móc. Ai thường xuyên thực tập hạnh lắng nghe sâu sắc với tâm từ bi rộng mở, thì có thể giúp người khác chuyển hóa sân hận và si mê của họ.
Có hai vợ chồng nhiều năm đã tan vỡ hạnh phúc, không thể ngồi lại cùng nhau để chia sẻ hay hóa giải mọi điều. Ai cũng nghĩ mình đúng, người sai, nên dù ở chung một nhà mà không ai chịu nói chuyện, hể gặp mặt nhau thì lạnh lùng như sắt đá. Tuy sống không hạnh phúc, nhưng họ vẫn chịu đựng như thế suốt một thời gian dài, không dám ly dị vì sợ ảnh hưởng đến con cái. Hôm đó, cô vợ buồn quá và vô cùng tuyệt vọng muốn tìm đến cái chết, bèn điện thoại cho một người bạn nói rõ sự tình. Người bạn khuyên cô hãy đến Thiền Viện tham quan một chuyến biết đâu mọi chuyện sẽ được tốt đẹp hơn. Dù đang trong cơn tuyệt vọng, nhưng nghe lời khuyên nhủ của bạn nên cô cũng sắp xếp thời gian để đến Thiền Viện.
Đây cũng là một nhân duyên lớn vì hôm đó nhằm ngày giảng pháp hàng tháng tại Thiền Viện. Cô được nghe bài pháp thoại “hạnh phúc và khổ đau” suốt hơn một giờ đồng hồ, nhờ vậy cô đã nhận ra sai lầm lớn lao là chính mình làm cho mình đau khổ, và cũng làm cho người xung quanh đau khổ. Trong nhiều năm qua, chính cô đã làm tình cảm vợ chồng lâm vào cảnh bế tắc, không ai muốn nói chuyện với ai. Tuy hai người sống chung một mái nhà, ăn chung mâm, ngủ chung phòng nhưng phòng the gối chiếc lạnh lùng, tình cảm nguội dần nên đắng cay, đau khổ vô cùng.
Suốt thời gian dài trong sáu năm trời, hai người thỏa thuận cùng đi dự đám cưới, tiệc mừng sinh nhật, nhưng khi về nhà thì mạnh ai nấy làm, mạnh ai nấy sống. Họ sống giống như người câm mà không biết ra dấu. Nhìn bên ngoài ai cũng tưởng gia đình hạnh phúc, nhưng bên trong lại không khác chốn ngục tù. Họ đâu biết rằng nỗi khổ niềm đau hai người ngày thêm lớn mạnh, vì họ diễn xuất khéo nên ai cũng thầm ước ao được như họ. Nhưng trên thực tế thì lại hết sức phũ phàng, họ đang sống trong khổ đau tuyệt vọng.
Chúng ta chỉ luôn bảo vệ sĩ diện bản ngã của riêng mình, nên đã cam tâm đành lòng sống giả để che mắt mọi người. Vì sống với nhau mà không biết cảm thông và tha thứ, do đó nỗi khổ niềm đau bị đè nén lâu ngày nên hai vợ chồng rơi vào trạng thái cô đơn tuyệt vọng. May nhờ người bạn là Phật tử thuần thành, nên khéo léo khuyên nhủ cô đến Thiền Viện được nghe pháp mà hồi tâm, tỉnh trí.
Phật pháp quá mầu nhiệm và siêu thoát, nhờ vậy cô quay lại chính mình trở về với đời sống thực tại, mà phá tan bao thành trì cố chấp từ xưa nay. Cô cảm thấy lòng hân hoan, vui mừng phấn khởi vì cửa giải thoát mở ra bao năm nhưng chính cô đã tự mình khóa lại. Hồi tưởng về những tháng năm đau khổ, nghĩ tới đây cô ân hận đủ điều. Giờ chỉ còn chờ ông xã đi làm về để thổ lộ tâm tình với lòng ăn năn, hối lỗi bằng trái tim hiểu biết.
Chiều hôm đó, anh chồng về sớm hơn mọi bữa, cô mới nói, “anh yêu dấu của em, bao năm qua em đã lỡ lầm làm anh cho đau khổ, xin anh mở lòng rộng lượng cảm thông và tha thứ cho em, em còn non dại, còn khờ khạo lắm, nên đã làm anh buồn và đau khổ vì em. Xin anh hãy vì hạnh phúc gia đình từ bi mở rộng tấm lòng thương yêu mà tha thứ cho em, hỡi anh yêu dấu!”. Anh chồng đã gần 6 năm trời chưa bao giờ nghe được một lời nói yêu thương, ngọt ngào như thế nên anh nghĩ chắc mình đang nằm mơ, nhưng không ngờ đây lại là sự thật.
Lời nói ngọt ngào và yêu thương ấy như rót mật vào lòng, anh như người chết đi sống lại, cảm thấy mình trẻ lại hơn 20 tuổi, rồi bất giác ôm chầm lấy vợ mà hai hàng lệ rơi. Rồi hôm đó hai người quấn quít bên nhau suốt cả đêm để cùng tâm sự, giải bày.
Để duy trì và bảo vệ hạnh phúc gia đình, ngoài tình yêu lứa đôi ta còn các mối quan hệ khác như người thân, bạn bè, con cái. Muốn giữ được tổ ấm thật sự trong hôn nhân quả thật là rất khó. Phàm đã làm người khó ai có thể hoàn hảo tất cả về mọi mặt, nên ta cần phải biết cảm thông và tha thứ vì những điều khiếm khuyết của nhau.
Nếu không có lòng khoan dung, độ lượng, cảm thông, tha thứ cho nhau, hạnh phúc dễ đổ vỡ, lụy tàn. Cuộc sống gia đình không có niềm vui, hạnh phúc yêu thương sẽ đưa đến sự mệt mỏi, chán chường. Từ đó, ta không tôn trọng nhau, ta ích kỷ, hẹp hòi và hay so đo, tính toán. Nên mọi khổ đau đều bắt nguồn từ việc không cảm thông là vậy.
Nếu có hiểu biết, ta sống có cảm thông, có yêu thương, biết chấp nhận thói xấu của người, biết nhường nhịn, chia sẻ, lắng nghe, thì trái tim sẽ bao bọc trái tim, hạnh phúc vì thế sẽ được viên mãn, lâu bền.
Tại sao ta hay giận hờn hoặc trách móc lẫn nhau mà không có sự thông cảm, sẻ chia, để đến nỗi cùng sống chung một mái nhà, mà ta lạnh lùng, dửng dưng như không quen biết. Nhớ lại cách nay hơn 20 năm trước, khi mới quen nhau, yêu nhau thì tình yêu thật thơ mộng biết bao. Bởi vậy mới nói, tình chỉ đẹp khi còn dang dỡ, đời mất vui khi đã vẹn câu thề.
Tại sao khi mới biết yêu, trái tim ta màu xanh nhưng khi đã thành vợ chồng với nhau thì trái tim ta lại dần xám xịt. Ta trở nên héo khô, cằn cỗi, trở nên cô đơn tuyệt vọng đến nỗi phải trầm mình xuống sông như người thiếu phụ Nam Xương mà tôi đã đọc được. Người chồng hay vợ không vừa ý trong công việc hoặc oan ức điều gì thì cả hai bên phải khéo léo chuyển biến tâm trạng tiêu cực của mình sang hướng khác, không nên giận cá chém thớt, trút đổ bực bội, vô lý với người kia.
Một số người căng thẳng công việc bên ngoài nhưng về nhà lại vô cớ trút giận lên chồng, vợ, con cái khiến không khí gia đình trở nên căng thẳng, chán chường. Tốt hơn hết, nếu gặp phải điều này, ta nên tâm sự cùng nhau để loại trừ những ấm ức trong lòng. Hôn nhân không chỉ là cùng nhau xây dựng ngôi nhà mà còn là việc chia sẻ tâm tư, và trải lòng với nhau. Dân gian có câu : đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm. Ta sống với nhau đâu chỉ có tình yêu trên thể xác mà còn cần phải trách nhiệm tinh thần. Nếu ta chỉ biết tình yêu trên thể xác thì chẳng qua là sự lợi dụng lẫn nhau mà thôi chứ đâu có tình yêu đích thực. Việc thiếu cảm thông và an ủi sẻ chia bằng tình yêu thương chân thật, ta sẽ dễ dàng gây đau khổ cho nhau.
Biết cảm thông, tha thứ những khiếm khuyết hiện tại là biện pháp tốt nhất để điều hòa mối quan hệ vợ chồng. Thông cảm và chấp nhận bỏ qua những khiếm khuyết của nhau, thực tế là một phương pháp điều hòa thích hợp, thông qua đó sẽ hóa giải những căng thẳng, mâu thuẫn hoặc xung đột giữa chồng và vợ. Ta hãy nên sống bằng trái tim hiểu biết để mở rộng tấm lòng yêu thương với nhau nhiều hơn.
GIẬN DỮ
Tôi sinh ra và lớn lên trên vùng sông nước, nên cuộc sống gắn liền với nghề đánh cá, bắt tôm. Một anh ngư phủ cứ thế cũng hằng ngày làm nghề dân gian hay gọi “đâm hà bá” ấy. Hôm nào trúng mánh thì bắt rất nhiều tôm cá, nhưng có hôm cũng chẳng có con nào vào lưới.
Hôm gặp sóng to gió lớn, thuyền cứ chồng chềnh qua lại thì bữa đó coi như húp cháo, không làm ăn gì được. Anh vì vậy mà nổi cơn thịnh nộ, mặt mày cau có, chỉ tay vào thuyền mà buông lời hằn học: “Tại sao mày ngu quá vậy, bộ mày đui hả, lần sau mà còn như vậy nữa tao sẽ trừng trị mày thẳng tay cho coi”.
Đúng là giận cá chém thớt, chiếc thuyền chỉ là phương tiện đánh bắt chứ tội tình gì mà anh dùng lời hằn học như vậy. Tuy nhiên, về đến nhà anh cũng suy nghĩ lại, chắc vì nó thiếu đôi mắt sáng nên mới bị như vậy. Bây giờ phải tạo cho nó hai con mắt thì chắc ăn như bắp. Nghĩ thế rồi nên anh mua sơn vẽ hai con mắt phía trước thật to rồi hý ha hý hửng như lượm được vàng. Sau đó, anh làm tiệc mừng như để chuẩn bị chuyến đi sau sẽ thắng lớn, trúng nhiều.
Nhưng sự thật lại phũ phàng hơn nữa. Vì sóng to, gió lớn nên thuyền chông chênh, chồng chềnh, hết va vào chỗ này thì lại bá vào chỗ kia. Cuối ngày hôm đó anh mất luôn cả chì lẫn chài. Tức quá, anh cầm cây chèo đập mạnh vào chỗ hai mắt vẽ rồi thét lên: “bộ mày đui hả?” Trong cơn giận dữ anh điên tiết đập gãy luôn cây chèo nên thế là tiền mất, tật mang, không còn phương tiện để mà chèo chống. Anh đành bỏ của đổi người, bơi thẳng vào bờ và bỏ thuyền ở lại. Cũng hên cho anh không bị chết đuối hay làm mồi cho cá mập.
Qua câu chuyện trên ta thấy anh ngư phủ hết sức là vô lý. Chiếc thuyền là ân nhân, là phương tiện chuyên chở giúp anh kiếm sống nhưng anh ngu si không biết phải trái, đúng sai. Đánh được cá nhiều hay ít đều do nhân duyên, phước báo của mình, còn con thuyền tội tình gì mà anh thù anh giận. Con người bởi thế vì bị vô minh che lấp do đó si mê chấp ngã, muốn chiếm hữu nhiều nên lòng tham không được thỏa mãn mà sinh giận dữ, cứ như thế hận thù vay trả không có ngày thôi dứt và hủy diệt lẫn nhau.
Chủ nghĩa cá nhân hay bản ngã là kẻ thù số một của toàn thể nhân loại. Bởi chủ nghĩa cá nhân luôn giành quyền lực tối cao không muốn người khác bằng mình hoặc hơn mình. Nếu chúng ta không biết mở rộng tấm lòng, khi một niệm sân nổi lên sẽ thiêu đốt tất cả những gì ta có được. Bởi không làm chủ bản thân, hành động si mê dễ gây hậu quả xấu cho nhiều người. Biết bao vụ án giết người man rợ đã từng xảy ra làm đau lòng nhân thế. Vì chủ nghĩa cá nhân là bảo vệ bản ngã riêng mình, nên con người sẵn sàng hạ thủ dã man, hủy diệt lẫn nhau bất chấp luân thường đạo lý.
Gốc rễ của sân hận do vô minh dẫn đến si mê, và vì si mê nên tham lam quá mức. Nếu tham không được thì sinh ra nóng giận, muốn bảo vệ riêng mình rồi từ đó gây thù, chuốc oán cho nhau. Đã gây thù thì dẫn đến lo sợ, từ lo sinh ra sợ, rồi từ sợ sinh ra nghi ngờ, và cuối cùng tìm cách hủy diệt lẫn nhau. Tào Tháo là một kẻ gian hùng trong thời Tam Quốc Chí, ông có chủ trương thà giết lầm hơn bỏ xót, nên ông điêu ngoa, tráo trở, phản cả người ân đã từng cứu giúp mình. Kẻ nào không theo ông sẵn sàng triệt tiêu để diệt trừ hậu họa. Ông là người có nhiều mưu sâu, kế độc, muốn nắm cả thiên hạ trong tay nên tàn ác, dã man có một không hai trong lịch sử.
Thuở còn nghèo khó ông có người bạn chí thân tên là Lã Bá Sa. Hai vợ chồng người này rất quý trọng và mến thương Tào Tháo. Một hôm, trên đường tị nạn, Tào Tháo ghé vào nhà bạn nhờ sự giúp đỡ, cứu nguy. Hai vợ chồng mừng quýnh vì lâu ngày mới gặp lại bạn xưa, cho nên Bá Sa bảo vợ ở nhà chuẩn bị mần heo đãi bạn. Phần anh ra chợ mua rượu cùng ít gia vị để nấu cho ngon. Tào Tháo vì mệt nên ngủ thiếp đi. Vợ Sa muốn chọn con heo mập béo nên chỉ gia nhân làm thịt con này. Tào Tháo lúc vật vờ, nửa tỉnh, nửa mê nghe tiếng giết heo, hoảng mình thức giấc đâm chết vợ Sa và tên gia nhân vô tội. Sau đó, Tháo liền trốn đi trên đường gặp bạn mình tay cầm bầu rượu vừa đi vừa hát nghêu ngao, tư tưởng diệt cỏ phải diệt tận gốc tránh bị truy tố, trả thù nên Bá Sa vì thế cùng chung số phận.
Kẻ thất bại như Tào Tháo đã bỏ chạy thụt mạng đến nhờ sự giúp đỡ của người bạn, vì nỗi sợ hãi bị người khác giết nên trong tâm lúc nào cũng âm ỉ sôi sục niệm căm thù bên trong. Ở chiến trường máu đổ thịt rơi vì tranh tài cao thấp, lúc hoạn nạn gặp lại bạn cũ vì đa nghi nên đã giết lầm người. Dù biết mình sai nhưng Tào Tháo một mực tuyên bố “ ta thà phụ người chứ không để người phụ ta”. Trong chiến trường, để tranh giành sự sống, không có yêu thương và hiểu biết mà chỉ có sân giận, thù hằn, giết bỏ. Họ cố tình tìm đủ mọi cách để giết hại lẫn nhau. Chiến tranh làm cho nhân loại không còn biết tình người là gì nữa.
Nóng giận là một tập khí thuộc căn bản phiền não lâu đời, là một trong ba thứ có gốc rễ sâu xa trải qua vô lượng kiếp. Loại tập khí này là thâm căn, cố đế, khi ta có mặt là nó theo sát bên. Trong kinh thường gọi ba thứ nầy là “tham, sân, si”. Từ vô lượng kiếp đến nay, chúng ta trôi lăn trong luân hồi sinh tử, chịu nhiều đau khổ trong ba cõi sáu đường, cũng bởi ba thứ này làm nguyên nhân gây ra nỗi khổ niềm đau cho con người. Tuy nhiên, tùy theo tập khí sâu cạn mỗi người, sự thể hiện nóng giận nhiều ít, nặng nhẹ và mạnh yếu khác nhau.
Từ Thứ là một quân sư văn võ song toàn, sống có tình có nghĩa. Tào Tháo biết Từ Thứ hiếu thảo với mẹ nên ông lập kế ly gián buộc Từ Thứ bỏ việc chung đặng một lòng hiếu dưỡng. Rốt cuộc, hiếu và nghĩa Từ Thứ đều bị mất, bởi mưu sâu kế độc của Tào. Cuối cùng, ông trở thành kẻ thất chí chẳng giúp ích cho gì ai, uổng cả một kiếp người sanh thân nam tử. Đó là cách hại người dã man và tàn độc nhất, vì mộng bá quyền thiên hạ của Tào Tháo. Đọc chuyện xưa để ta có cơ hội quay đầu nhìn lại, thấy được bao nhiêu điều sai lầm tội lỗi cũng từ chấp ngã mà ra, rồi từ đó chiếm hữu.
Trong chính trị không có thương hại mà chỉ có mưu mô, xảo quyệt, sát phạt lẫn nhau để tranh giành quyền lực. Kính mong người con Phật hãy nên chín chắn suy nghĩ đắn đo khi làm chuyện gì kẻo gây đau thương cho người khác. Chúng ta luôn mong mọi người sống tốt với nhau bằng tấm lòng chân thật, bằng trái tim yêu thương và hiểu biết. Bản ngã hay chủ nghĩa cá nhân đã tiềm ẩn trong ta nhiều đời, ta phải can đảm quyết tâm dũng mãnh mới đủ khả năng tháo gỡ hay chuyển hóa những oan khiên, nghiệp chướng nhiều đời do tâm sân hận gây nên.
Con người được mệnh danh là loài cao cấp hơn hẳn các loài khác. Nếu biết suy nghĩ, quán chiếu, mở rộng lòng từ, thương yêu, cứu khổ thì không ai bằng, nhưng khi ác thì cùng hung cực ác, man rợ, dã man. Nguyên nhân chính làm cho con người bộc phát sân hận vì nghĩ mình bị mất mát, thiệt thòi tài sản như chàng ngư dân không đánh được cá lại đổ thừa cho chiếc thuyền nên nổi cơn nóng giận. Ta hãy nên nhớ thành tựu trên đời đều do nhiều nguyên nhân kết hợp, khi đủ nhân đủ duyên thì mọi việc tốt đẹp, bằng ngược lại thì kết quả không như ý, trái lòng.
Nhiều người nóng giận vô lý làm sao, như anh chồng bị vợ sài xể, không dám làm gì, lại quay qua mà hành hạ con chó. Chuyện giận đâu đâu lại trút giận lung tung nên đời lắm ẩu đả, xô xát với lý do cực kỳ ngớ ngẩn. Ai cũng biết nhịn người một chút thì dù sóng to, gió lớn cũng nguôi. Đằng này ta cứ một bề chấp trước, ôm mãi vào lòng nên chuyện nhỏ thành to, hỏi thế gian này làm sao không hết khổ. Ấy vậy mà dân gian có câu “giận lẫy xẫy cùi” cùng là vì vậy.
TẠI SAO CON NGƯỜI XẤU XÍ
Có một cô bé bán bánh hằng ngày thường xuyên cúng dường bánh đến Thế Tôn với tâm cung cẩn, chí thành, chí kính. Biết được nhân duyên tốt đẹp của cô trong tương lai, nên Phật ân cần chỉ dạy cô làm gì cũng phải có tâm cung kính hàng đầu. Nhờ lòng cúng dường thành kính nên cô bé sau này đã trở thành hoàng hậu, là bậc mẫu nghi thiên hạ. Hoàng hậu là người thuyết phục được vua Ba Tư Nặc hướng tâm quy y Tam Bảo và hộ trì chánh Pháp. Một hôm, sau khi cúng dường Trai Tăng, hoàng hậu ngồi sang một bên cung kính hỏi Phật:
Do nhân duyên gì một số người nữ trên thế gian có màu da xấu xí, thân hình thô kệch, lại khốn khổ, bần cùng bị mọi người khinh chê, coi rẽ mà tìm cách lánh xa?
Do nhân duyên gì mà một số người nữ trên thế gian này có màu da trắng đẹp, thân hình đoan chánh, khuôn mặt dễ thương, mọi người quý mến, vui vẻ ngắm nhìn, lại giàu sang phú quý, nắm quyền, có thế trong xã hội này.
Phật dạy rằng:
_ Này Mạc Lợi phu nhân! Có một số người nữ trên thế gian này thường xuyên nóng giận, bực tức cau có, giận dữ quát tháo, nạt nộ, đánh đập, chữi bới, không biết kính trên, nhường dưới, lấn lướt mọi người. Do nhân như thế và hành động như thế nên đời này sinh ra phải chịu mặt mày xấu xí, đen đúa, thân hình thô kệch, thường xuyên bị mọi người khinh chê, ghét bỏ, lại còn nghèo cùng khốn khổ.
Nóng giận là một âm tính biểu hiện của sự vô minh, từ sự vô minh làm chúng ta suy nghĩ rồi phát sinh lời nói, cử chỉ không được nhẹ nhàng, hòa nhã với mọi người, khiến người bực tức lẫn khổ đau. Nói dễ hiểu hơn, nóng giận là trạng thái tâm lý bất ổn bởi sĩ diện bản ngã, lòng tự trọng quá cao, dẫn đến tâm trạng bực tức, khó chịu, hằn học, bất mãn rồi sinh ra căm thù muốn trả đũa và làm hại người khác.
Người nóng giận trước tiên chưa hại được ai đã tự hại chính mình, nên hiện ra tướng dữ, mặt mày bặm trợn, đôi mắt đỏ ngầu, nói năng hằn học làm mọi người khiếp sợ. Bản thân người nóng giận cảm thấy luôn bực tức, ray rứt, khó chịu trong lòng. Vậy mà có người lại nói “ tôi giận bà đó suốt đời, suốt kiếp không quên”. Sống mà suốt đời ôm hận như vậy, thì thử hỏi sao lại không bị già trước tuổi. Cũng vì giận nên mặt mày lúc nào cũng nhăn nhăn, nhó nhó, nên lấy gương soi tự mình còn thấy sợ chính mình. Có người vì không chuyển hóa nổi cơn giận nên thành ra đánh đập, chửi bới vợ con một cách tàn nhẫn, khiến gia đình bất hòa, xào xáo như ngục tù.
Người Phật tử chân chánh hãy nên thường xuyên chiêm nghiệm từng tâm niệm của mình, đừng để tâm sân bộc phát quá mạnh làm cho người lẫn mình chịu đau khổ. Người hay ôm giữ nóng giận vào lòng thân thể lúc nào cũng khó chịu, bất an. Chính vì thế, cuộc sống của ta nếu chỉ bằng mặt mà không bằng lòng thì con người lúc nào cũng mâu thuẫn, xung đột với nhau, vì sợ mất mát, thiệt thòi quyền lợi.
Trong các loại phiền não, giận dữ hay hờn mát là nguy hiểm hàng đầu, gây tiêu hủy cả một rừng công đức. Chúng ta chớ coi thường lửa sân hận mà ôm ấp mãi cũng sẽ có ngày gặp tai họa khôn lường. Giận quá mất khôn, không ai biết trước sự việc xảy ra trong cơn giận dữ, chỉ trong vài giây mất đi bình tĩnh, ta có thể gây họa tày trời ân hận mãi về sau. Sự việc đã xong ăn năn, hối lỗi có ích gì. Kẻ mất mát, người thiệt hại rồi lại thù hằn nhau từ đời này cho đến đời khác không có ngày thôi dứt.
Giận là có một cảm xúc mạnh không gì tốt đẹp đối gây hại đến người hay một việc nào đó. Có những cái giận ta cho là chính đáng, như khi mình thấy người lành bị ức hiếp, con cái hư hỏng, hay người thân bị đe dọa. Những lúc đó nỗi bực tức nóng lên, mình muốn ra tay cứu vớt kẻ yếu, hoặc vì mủi lòng, muốn động viên, an ủi.
Tuy nhiên, khi phân tích sự nóng giận của con người, các nhà tâm lý học cho biết, ta hay nổi giận khi người chung quanh làm những điều trái ý, nghịch lòng, không như mong muốn. Như khi người chồng đi làm về vừa mệt, vừa đói, nghĩ rằng bà xã đã chuẩn bị cơm nhưng lại không thấy gì nên bực tức mà nổi trận lôi đình.
Hay chuyện người vợ đi khám bác sĩ, nhờ chồng đón về nhưng đứng mãi, chờ mãi mà không thấy chồng đâu. Về đến nhà thì thấy chồng đang nhậu. Người vợ điên tiết nên phải phát cáu lên.
Ta thấy, nóng giận là một cảm xúc khó chịu làm mọi người bất an, tức tối, dẫn đến hằn học và lớn tiếng với mọi người.
ÔNG ĐÃ HẾT NÓNG GIẬN CHƯA?
Một hôm, có cư sĩ đến hỏi đạo Thiền sư, vị Phật tử này huyên thuyên nói rằng con đã kiến tánh, đã ngộ đạo, xin Thiền sư chứng minh cho.
Thiền sư mới hỏi: Trâu ông đã thuần chưa? Có nghĩa là ông đã hết nóng giận chưa?
Vị cư sĩ trả lời: Trâu con thuần rồi, trâu con thuần rồi. Vị cư sĩ này quả quyết rằng mình không còn nóng giận nữa.
Thiền sư liền nói, anh là hạng người bá vơ chỉ biết ăn bám Phật pháp mà thôi.
Cư sĩ nghe liền thay đổi sắc diện mặt mày tái mét, đang ngồi bỗng dưng đứng dậy.
Thiền sư hỏi lại: Trâu ông thuần chỗ nào?
Cư sĩ bây giờ đành im lặng, chờ sự chỉ giáo của Thiền sư.
Thiền sư Bạch Ẩn đã từng nỗi tiếng một là tăng sĩ có đạo hạnh vững vàng, nên Phật tử khắp nơi tán thán, kính trọng như các vị Bồ Tát hóa thân. Gần chùa của Thầy có rất nhiều thiếu nữ xinh đẹp thường xuyên công quả và tụng kinh niệm Phật. Tiếng lành đồn xa, người học đạo đông đúc, nhưng bỗng một hôm, gia đình nọ phát hiện đứa con gái đã có mang. Họ tra gặn mãi cô gái mới khai cha của đứa bé chính là Thiền sư Bạch Ẩn. Bà mẹ tức quá, dẫn cô gái đến chùa làm một trận tơi bời nhưng Thiền sư chỉ nói “thế à!”
Bắt đầu từ đó, bao nhiêu danh thơm, tiếng tốt từ lâu đều tan thành mây khói. Chính vết nhơ đó đã làm cho chùa vắng tanh không khách thập phương nào lui tới, kể cả những Phật tử thuần thành.
Đến khi đứa bé chào đời, người ta thấy bà ngoại đem nó đến chùa với những lời sỉ nhục thậm tệ. Mỗi ngày trôi qua, Thiền sư đi khất thực với đứa bé trên tay. Người động lòng thương cảm thì cúng sữa đầy đủ cho Thầy, nhưng kẻ khinh chê thì từ xa đã đóng sầm cửa lại. Dù bị oan ức nhưng thầy không oán giận, một lòng từ bi, nuôi nấng đứa bé rất tử tế, đàng hoàng. Dù có bị người đời mắng chửi, Thầy không giận cũng chẳng buồn mà còn trải lòng thương tưởng về họ.
Đứa bé nhờ vậy mà lớn nhanh như thổi, chú biết lật, biết bò và dần hồi chập chững bước đi. Kể từ ngày có chú ở chùa, Thiền sư không còn ai lui tới nữa. Ngài cũng không lấy thế làm buồn, vẫn vui vẻ nuôi dưỡng đứa trẻ như chính mình đang dưỡng nuôi con ruột mình vậy.
Thời gian trôi qua, cũng đã hơn một năm nên chú bé đi đứng rành mạch, cất tiếng kêu “sư phụ, sư phụ” nghe rất êm tai. Tưởng chừng mọi việc như đã đi dần vào quên lãng. Kể từ lúc bà ngoại trao chú bé vào chùa, mẹ ruột của chú lương tâm luôn phải dày vò, ray rứt. Không một đêm nào cô yên lòng, ngon giấc vì cái tội phỉ báng, làm nhục Thiền sư. Suốt hơn năm trời cô vì thế mà luôn sống trong dằn vặt, đau khổ đến tột cùng. Cô thú thật với mẹ cha ruột chú bé là anh chàng bán cá ngoài chợ. Cả gia đình nghe thế mới tá hỏa tam tinh, vội vàng đến chùa quỳ lạy sám hối, mong Thiền sư tha thứ lỗi lầm và xin lãnh đứa bé về nuôi. Thiền sư vẫn không buồn giận, trách móc điều gì, chỉ đáp vỏn vẹn hai tiếng “thế à” như trước đây vậy.
Như anh cư sĩ trong câu chuyện trên, vì quá tự hào công phu tu tập đạt mức thượng đỉnh, nên anh đến khoe để Thiền sư ấn chứng. Thiền sư biết rõ anh chỉ học suông, hành trên ngôn ngữ, nên gặng hỏi nhiều lần“trâu anh đã thuần chưa” và anh khẳng định “đã thuần”. Ấy vậy mà với lời nhận xét nhẹ nhàng anh ta đã mặt mày biến sắc. Vậy là thuần sao? Trâu ở núi đủ nước đủ cỏ, trâu ra ngoài chém Bắc chém Đông. Các Thiền sư sử dụng ngôn ngữ đôi khi khó hiểu, hay nói đúng hơn chúng ta chưa đủ lực hành trì thì không đủ trí tuệ để hiểu. Thuật ngữ chăn trâu thường chỉ ứng dụng trong nhà Thiền như con trâu hoang chưa thuần thục, chạy Đông chạy Tây phạm vào lúa mạ của người làm ruộng.
Những lúc tịnh tâm trong thất vắng, không tiếp duyên xúc cảnh, ta cảm thấy như an nhiên bất động, nên cứ tưởng mình đã hết phiền não tham sân si. Có ngờ đâu đó chỉ là tạm thời yên lắng, vì không có nghịch duyên nên lòng ta thanh thản là thường. Căn và trần không tiếp xúc nhau, nên ta cảm thấy dường như không vọng động, nhưng thật chất chỉ như đá đè cỏ. Khi đá được lăn đi thì cỏ nơi ấy sẽ mọc nhanh hơn bình thường.
Cũng vậy, có nhiều người không bao giờ chịu tu tập, chỉ nói Thiền trên miệng lưỡi cho đã miệng, sướng tai mà thôi. Vì để chứng tỏ mình tu Thiền giỏi, nên họ hết khoe với người này, lại đi khoe với người kia. Suốt ngày, suốt tháng, họ nằm mộng “ta chứng Thiền, ta ngộ Thiền”, nhưng chỉ là loại Thiền ba hoa trên môi, trên mép. Bằng chứng như anh cư sĩ trên, khi Thiền sư gạn hỏi, anh luôn khẳng định rằng “trâu đã thuần”, tức là anh không còn nóng giận nữa. Thiền sư chỉ nói một câu nhẹ nhàng, anh đã liền thay đổi sắc mặt, đang ngồi đó mà vội vàng đứng lên. Rõ ràng, trong tâm anh đang bị dao động bởi câu nói ấy, nên tỏ thái độ đánh mất bình tĩnh dù chưa nói lời nào.
Thiền sư Bạch Ẩn mới thực là vị chân tu đức hạnh. Dù hàm oan, mất hết danh tiếng, bị thóa mạ đủ điều nhưng thầy vẫn không mảy may dao động. Thiền sư đâu cần giảng kinh, thuyết pháp gì nhiều, chỉ cần rộng lòng từ bi, hỷ xả, không phân biệt người thân, kẻ thù, rồi cái gì sáng nó sẽ sáng, dù ai cố tình ngăn che ánh sáng vẫn không thể nào phủ lấp được một chân lý sáng ngời, như hương thơm giới hạnh luôn ngát hương dù tung bay khi ngược chiều gió.
CÚ, QUẠ TRANH HÙNG
Thuở xa xưa, một đàn Cú và một đàn Quạ có một mối thù không đội trời chung, luôn thừa cơ hội tàn sát, giết hại lẫn nhau, và mỗi bên đều có một khiếm khuyết riêng của mình. Loài Cú có một nhược điểm là ban ngày có mắt như mù còn Quạ thì đêm lại mù mịt, tối tăm. Một bên sợ ban ngày, còn một bên lại sợ ban đêm, nên trong lòng luôn sống trong lo âu, sợ hãi. Bầy Quạ thì canh ban ngày Cú không thấy đường tìm cách tấn công, còn bọn Cú thì canh ban đêm Quạ không thấy đường sẽ ra tay sát hại. Cứ thế nên cả hai bên ngày qua ngày đều hao mòn nhân lực, e có ngày diệt chủng.
Trong đàn Quạ, có một con thông minh mới hiến kế với cả bầy, chúng ta và họ nhà Cú đã có mối thù truyền kiếp bao đời, nếu cứ để tình trạng này kéo dài thì hai bên lần hồi sẽ bị tiêu diệt hết. Vậy ngay bây giờ, ta cần tìm ra phương pháp tiêu diệt bọn Cú, không để mống nào sống sót nhằm diệt họa về sau. Được như thế thì loài Quạ chúng ta mới có cơ hội sống bình yên, hạnh phúc, mà không phải phập phồng lo sợ”. Cả đàn Quạ đều nhao nhao lên tán đồng ý kiến, nhưng làm cách nào để tiêu diệt chúng đây? Đó mới là vấn đề quan trọng cần bàn mà bấy lâu chúng mãi không suy nghĩ được. Chú quạ nói rằng, “việc này không khó, chỉ cần chúng ta làm khổ nhục kế, một con chịu hy sinh thì mọi sự sẽ được thuận buồm xuôi gió”.
Nói xong, chú Quạ thông minh bảo cả đàn rằng, “tôi sẽ lãnh nhiệm vụ quan trọng này với điều kiện quý vị hãy đánh tôi tơi bời, gây ra thương tích nặng nề thì tôi có cách để tiêu diệt bọn Cú”. Cả đàn Quạ nghe nói như thế thì không đành lòng làm vậy, nhưng con Quạ thông minh bảo rằng, “thà tôi chịu khổ thân này mà cứu được cả giống nòi nhà ta khỏi họa diệt vong”. Cuối cùng, cả đàn Quạ đành cam chịu kế sách trên, thi hành khổ nhục kế, nước mắt tuôn trào vì sự hy sinh lớn lao của chú Quạ thông minh. Lễ tuyên thệ bắt đầu, chú Quạ trước khi lên đường làm nhiệm vụ đã tuyên thệ trước đàn, “tôi thà quyết tử để cứu giống nòi nhà Quạ chúng ta được trường tồn mãi mãi”.
Sự dũng cảm hy sinh của chú Quạ thông minh đã làm cho cả đàn ngậm ngùi đau xót. kế hoạch được thi hành và chú Quạ bị đánh tả tơi, máu me đầy mình trông rất đáng thương. Quạ ta ráng lết đến chỗ Cú ở mà rên rỉ khóc lóc, thở than, giống như là sắp chết.
Một con Cú đầu đàn nghe tiếng rên liền chạy ra hỏi, “sao bạn Quạ bị thế này?” Quạ vừa khóc, vừa kể lễ, “tôi khuyên đàn Quạ nhà tôi hãy nên quy phục dòng họ nhà anh, mà mỗi năm triều cống lễ vật, mong vua Cú thương tình tha thứ để dòng họ nhà Quạ chúng con được yên mà sống qua ngày. Không ngờ, tôi vừa nói xong thì bị cả đàn nhà Quạ xông vào đánh đấm, cấu xé tôi tơi bời hoa lá, tôi cố gắng lắm mới chạy được đến đây. Tôi bây giờ sống được là nhờ tấm lòng thương xót của các anh, cứu giúp tôi qua cơn hoạn nạn, thì ơn này tôi xin kết cỏ ngậm vành mà đáp đền trong muôn một không bao giờ dám quên.”
Con Cú đầu đàn nghe nói thế nên động lòng thương xót, bảo với đàn rằng, “chúng ta hãy mở rộng vòng tay nhân ái để cứu giúp chú Quạ trong cơn hoạn nạn, bằng xây cả chín ngôi chùa vậy”. Nhưng cả đàn của Cú đều nói, “nó là kẻ oan gia ở gần còn không được huống hồ là cho ở chung, e có ngày chúng ta sẽ bị tan thây mất mạng vì nó”. Nhưng anh Cú đầu đàn nói rằng, “thấy Quạ khổ mà ta không ra tay cứu giúp là kẻ bất nhân, bất nghĩa, không xứng đáng là bậc anh hùng trong thiên hạ”.
Thế là đàn Cú cho Quạ ở chung và nhiệt tình chăm sóc, lo ăn uống đầy đủ, nên chú Quạ mau chóng hồi phục lại. Để tỏ lòng biết ơn đàn Cú, Quạ ta nói rằng, “ở đây toàn hang đá lạnh lẽo mà mùa đông sắp đến, em sẽ tha cỏ khô về chất quanh tổ để chúng ta được ấm áp mà vui hưởng hạnh phúc”. Đàn Cú nghe có lý nên gật đầu chấp nhận, Quạ ta mừng rỡ trong lòng vì cơ hội tiêu diệt họ Cú đã chín mùi.
Sau đó, Quạ chịu cực đi tha cành củi và cỏ khô về chất đầy quanh hang rồi quạ ta đàn Cú đã canh gác ngoài cửa và trả công ơn bấy lâu được nuôi dưỡng tận tình. Mùa đông đã đến, gió bấc thổi mạnh nên khí lạnh bắt đầu xâm nhập, tất cả đàn Cú phải rúc hết vào trong hang tránh nạn rét mùa đông. Cơ hội ngàn năm đã đến, Quạ ta thừa lúc sơ hở của đàn Cú đang cùng nhau vui ca, hát xướng mà châm lửa thiêu rụi cả đàn chỉ trong chốc lát.
Câu chuyện ngụ ngôn trên là bài học thiết thực trong cuộc sống loài người. Sở dĩ thế giới này luôn xảy ra chiến tranh, binh đao tàn sát, giết hại lẫn nhau chỉ vì sự tham lam, ích kỷ của chính mình. Thế gian này là một chuỗi dài nhân duyên tương tàn, tương sát, sống theo quy luật lớn hiếp nhỏ, mạnh hiếp yếu, cứ thế mà ăn nuốt, bức hại lẫn nhau. Loài người vì khôn ngoan do có ý thức, biết suy nghĩ nên là sát thủ thầm lặng của tất cả muôn loài. Khi loài người quá đông thì nhu cầu ăn, sống càng cao, nên khai hoang, phá rừng càng lắm. Việc săn bắt, đánh lưới nhiều hơn nên nguồn cung cấp thức ăn dần cạn kiệt. Chính vì vậy, con người tìm đủ mọi cách chế biến, nuôi dưỡng, trồng trọt với kỹ thuật cao mới đảm bảo nhu cầu cần thiết, phục vụ loài người.
Mọi chấp trước bám víu hay thành kiến cá nhân đều từ chấp ngã mà ra. Do nghĩ mình cao hơn thiên hạ, giỏi hơn thiên hạ nên lúc nào mình cũng chứng tỏ tài năng với mọi người, cống cao ngã mạn cũng phát sinh từ đó nên sanh tâm tìm cách chiếm hữu. Nạn kỳ thị chủng tộc màu da, phân biệt giai cấp, tranh hơn, tranh thua, triệt tiêu, sát phạt lẫn nhau cũng để giành quyền lợi về mình.
Chính vì sự si mê chấp ngã nên thế giới loài người chinh phục thiên nhiên và hủy diệt loài vật quá đáng. Con người đối với con người thì phân biệt giai cấp, đối với màu da thì kỳ thị chủng tộc, đối với loài vật thì tự cho mình quyền giết hại để làm thức ăn mà nuôi sống chính mình. Quả thật, sự sống này sống bằng sự chết!
CÁCH CHINH PHỤC LÒNG SÂN HẬN
Làm người có ai lại không nóng giận, chỉ khác nhau ít hoặc nhiều mà thôi. Nóng giận là một thói quen dính mắc từ sự chấp trước làm cho mình lẫn người đều phiền não. Chúng ta phải làm thế nào để trở thành người có nhân cách đạo đức tốt, đòi hỏi bản thân phải luôn xét nét, nhìn kỹ chính mình, để thấy được những lỗi lầm nhỏ nhặt nhất mà tìm cách khắc phục. Mình phải biết làm chủ bản thân qua từng cảm thọ, xúc chạm để biết sống khoan dung, độ lượng, tha thứ ngay đối với người từng làm đau khổ hay tổn hại đến mình. Mọi việc mình làm hãy lấy lợi ích chung làm trọng, làm vì người, vì lợi ích tất cả chúng sinh chứ không vì lợi ích của bản thân. Ai thực tập được như vậy là người sống có đức hạnh, sống có đạo đức và đang tiến bước trên con đường giác ngộ và giải thoát.
Muốn trở thành người có nhân cách đạo đức, ta phải thực tập lời nói từ tốn, ôn hòa, luôn sống chân thực với người trước sau như một, không vì lợi dưỡng riêng tư, cũng chẳng vì những tham muốn cá nhân vị kỷ.
Trong các phiền não, giận dữ là điều vô cùng nguy hiểm. Ta chớ khinh thường một đốm lửa nhỏ, nếu không biết cách ngăn chặn từ đầu sẽ đem lại một hậu quả đau thương.
Vị Bà La Môn vì ganh ghét Phật nên theo sau chửi hoài mà Phật vẫn ung dung, bình thản bước đi. Thay vì quay lại tranh hơn, Người chỉ nhẹ nhàng trải tọa cụ rồi ngồi lại mà nói lên câu kệ này:
Người hơn, thêm ân oán hận thù
Kẻ thua, tức tối ngủ chẳng yên
Cả hai hơn thua đều xả
Do đó duỗi thẳng hai chân mà ngủ.
Lời Phật dạy quả là chân lý. Ở đời ai cũng tranh giành phần hơn, nên kẻ thắng thì tự hào hãnh diện, kẻ thua thì ôm hận, oán thù nên rốt cuộc lại thêm nhân quả thù hằn dai dẳng. Khi phải trao đổi hay bàn giải điều gì, cả hai nên dùng lời ái ngữ ôn hòa, dẹp bỏ lòng tự ái, kiêu căng ngã mạn mà cởi mở cùng nhau. Lòng tự ái là con đẻ của bản ngã, chính nó gây nên thù hận và giết chết đời ta.
Một khi đã giải quyết ổn thỏa và thông cảm với nhau rồi, ta cảm thấy lòng vơi đi gánh nặng, tâm hồn tươi mát, nhẹ nhàng, cảm thấy yêu thương nhau nhiều hơn. Đó mới thực sự là phương cách hóa giải hận thù một cách tuyệt hảo vậy. Ngược lại, nếu cứ mãi ôm ấp hận thù, ta chỉ làm cho chính ta và người đau khổ, thêm sầu, thêm oán, thêm hận chứ không ích lợi gì cho nhau.
Theo lẽ thường, khi ta bị ai mắng chửi là ta lại muốn chửi lại nặng hơn để đối phương phải nể. Hai bên vì thế càng trở thành đối nghịch và thù ghét lẫn nhau. Cứ như thế, cả hai đều có chung nỗi khổ, niềm đau, người hơn và kẻ bị thua đều phải mất ăn, mất ngủ, thắng cũng khổ mà bại cũng khổ. Tốt hơn hết, ta hãy nên buông xả cho lòng được nhẹ nhàng, thanh thoát, nhường nhịn nhau một chút chứ dại khờ gì mà hơn thua nhau để làm khổ thân tâm.
Là người Phật tử tu theo đạo từ bi và trí tuệ, Phật dạy ta không nên nuôi dưỡng hạt giống sân hận, thù hằn, ganh ghét bất cứ ai. Đôi khi ta đã sai lầm mà ta vẫn cứ khư khư cố chấp, mãi bảo thủ những định kiến của mình. Vì sĩ diện bản ngã của ta, nên lúc nào ta cũng muốn lấn lướt hơn người, hại người, chính vì thế ta luôn sống trong nỗi khổ niềm đau. Cho dù ta có thỏa mãn sự chiến thắng của mình bằng sự sân hận, nhưng lòng ta lại luôn bất an và đau khổ vô cùng vì lo sợ trả thù.
Trở lại câu chuyện người Bà La Môn đã mắng chửi Phật một cách thậm tệ. Phật vẫn nghe rõ từng âm thanh hằn học, chát chúa, nhưng Ngài nghe chỉ là nghe, nên lời mắng chửi đó không làm Ngài bất an dao động. Người biết rằng, kẻ hơn thì thêm oán, kẻ thua ngủ chẳng yên, bởi cuộc sống này người đời lấy hơn thua thắng bại làm căn bản, thắng thì kiêu hãnh, tự hào, khoái chí; thua thì tức tối, phiền muộn, khổ đau tìm cách trả thù.
Có chú sa di tính tình rất nóng nảy, luôn cộc cằn, thô lỗ với mọi người. Tuy xuất gia đã trên 10 năm rồi, nhưng chú vẫn chứng nào tật đó. Vì tính nóng giận nên huynh đệ ở chung không vui được lúc nào. Để giúp chú chuyển hóa cơn giận, một hôm sư phụ trao cho chú một túi đinh và căn dặn rất kỹ càng, “khi nào con nổi nóng và nặng lời với ai thì hãy lấy một cây đinh đóng vào hàng rào gỗ phía sau chùa, sau hãy tự suy gẫm lại mọi việc”.
Ngày đầu tiên chú đã đóng được 36 cây đinh vào hàng rào. Những ngày kế tiếp chú cố gắng tìm lại nguyên nhân tại sao, nên số lần giận giảm bớt lại một cách rõ rệt và số đinh đóng vì vậy cũng thưa dần. Nhờ kiên trì với phương pháp đóng đinh, chú nhận ra sự sân hận nơi mình thật đáng sợ vì sự tác hại của nó. Bắt đầu từ đó chú bình tĩnh, sáng suốt để đối đầu mọi việc, vẫn khỏe hơn khi nóng giận rồi lại đóng thêm một cây đinh. Nhờ siêng năng, tinh cần theo lời dạy của sư phụ mà giờ đây chú là một Tỳ Kheo chững chạc, nhã nhặn, không bốc đồng và nóng nảy như xưa nữa.
Với tấm lòng từ bi rộng lớn, sau khi tán thán đệ tử của mình, sư phụ của thầy đã đưa ra một đề nghị lớn để tiếp tục giáo dưỡng. Nếu một ngày trôi qua mà con không làm cho ai phiền muộn, thì con hãy nhổ bớt một chiếc đinh trên hàng rào.
Vâng lời chỉ dạy của thầy, vị đệ tử dùng tuệ giác của Thế Tôn để chuyển hóa cơn sân giận của mình. Cuối cùng, thầy Tỳ Kheo ấy đã nhổ sạch hết số đinh mà mình đã đóng từ bấy lâu nay. Lúc này, sư phụ của thầy mới vui vẻ hài lòng, dẫn người đệ tử ra phía sau hàng rào nói lời như sau:
Con đã thực tập pháp môn đóng đinh rất tốt con ạ. Tuy nhiên, con thấy hàng rào không còn trơn sạch và đẹp đẽ như xưa nữa vì bị dấu đinh làm sần sùi loang lổ. Những gì con đã thốt ra khi nóng nảy, giận dữ đã làm mọi người đau khổ vô cùng. Nhân quả nghiệp báo rất công bằng, bình đẳng. Khi ta làm người khác đau khổ bằng sự nóng giận của mình, thì dù ta có ăn năn, sám hối, nói lời xin lỗi nhưng cũng không thể nào rữa sạch hết vết nhơ đó.
Đó là vết thương lòng khó chữa, dù thương yêu như cha mẹ cũng khó lòng mà hàn gắn được. Vết thương chỉ có thể lành hẳn khi ta sống với trái tim hiểu biết, bằng tình yêu thương chân thật, biết cảm thông và tha thứ, khoan dung và độ lượng cho nhau với tinh thần vô ngã vị tha.
HẠNH NHẪN NHỤC
Nếu muốn chuyển hóa sân giận và đạt được kết quả như ý, điều trước tiên chúng ta phải quán sát rõ ràng. Ta phải thấy tất cả người nam là cha ta, và tất cả người nữ là mẹ ta. Ta sống được là nhờ cha mẹ mỗi đời đã sinh ra ta và không quản lòng nuôi dưỡng. Công ơn mang nặng, đẻ đau, công lao làm lụng nhọc nhằn vất vả nuôi con không ngôn từ nào kể xiết.
Nếu ta thường xuyên quán chiếu như vậy, ta sẽ thấy rõ chúng sinh trong sáu đường luân hồi đều là cha mẹ của ta tất cả. Do đó, khi thấu hiểu công ơn cha mẹ, ta sẽ bớt si mê, nóng giận đi nhiều. Nhờ vậy, ta và người luôn sống với nhau bằng trái tim yêu thương, biết kính trên nhường dưới và sống vui vẻ thuận thảo với mọi người. Chúng sinh luân hồi trong ba cõi, sáu đường, do nghiệp duyên chi phối nên đã ta từng làm cha mẹ, anh em người thân với nhau. Cũng chính vì thế mà ta phải biết sống yêu thương và đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau, bởi tất cả đều là những người có ân nghĩa với mình. Nhờ quán sát tất cả chúng sinh là cha mẹ nhiều đời, nên ta dễ dàng thông cảm, mà từng bước tìm cách chuyển hóa tâm sân giận, oán ghét thù hằn, thành vô lượng tình yêu thương chân thật.
Đức Phật đã từng nói, ta là Phật đã thành, còn chúng sinh là Phật sẽ thành. Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh như nhau, nếu ai làm đúng theo lời Ngài thì tất sẽ thành Phật trong tương lai. Nhận thức điều này, nếu ta thường xuyên quán sát chúng sinh là chư Phật vị lai, thấy ai cũng là Phật thì làm gì còn sinh tâm nóng giận. Có một vị Bồ tát tên là Thường Bất Khinh lúc nào cũng tu hạnh khai mở Phật tính cho mọi người, nên lúc nào cũng kính trên nhường dưới, một bề sống khiêm hạ thấp mình không bao giờ nóng giận hay phiền muộn một ai. Khi làm việc nghĩa lợi ích chúng sinh, dù bị mắng chửi, đánh đập, ngài vẫn vui cười, không bao giờ biết buồn khổ, hay oán hờn trách móc một ai mà còn trải lòng từ bi thương xót hết tất cả mọi người.
Suốt cuộc đời hoằng hóa độ sinh, Bồ tát chỉ hành trì một câu nhưng vô lượng chúng sinh được lợi lạc không thể nghĩ bàn:
“Tôi không dám khinh các Ngài, vì các ngài sẽ thành Phật.”
Còn chúng ta thì sao, từ sáng sớm cho đến chiều tối, hễ gặp nghịch duyên là lại nổi nóng, thậm chí giận cá chém thớt, chuyện không đâu lại đổ lên người. Đó là thói quen thâm căn cố đế của nhiều người, nếu chúng ta không biết tu tập từ, bi, hỷ, xả, để trên kính dưới nhường mà biết yêu thương nâng đỡ cho nhau.
Còn một pháp quán nữa đó là quán tình thương, nhìn thấy ai cũng nghĩ là người thương của mình nên đã thương thì ta không giận, mà đã giận thì là không thương. Tình thương này không phải tình thương vị kỷ, mà là tình thương không phân biệt màu da, dòng máu, chủng tộc. Nếu ai đã từng có con chung và con riêng với nhau, thì sẽ biết rõ tình thương yêu đó có ích kỷ hay không? Vì lúc nào ta cũng thấy con mình vẫn hơn, nên đôi khi ta phân biệt đối xử hẹp hòi mà làm mích lòng nhau. Quán tình thương sẽ giúp cho ta mở rộng tấm lòng từ bi thương xót bình đẳng, mà biết cảm thông và yêu thương nhau bằng tình người trong cuộc sống. Thường chúng ta có tật hay đòi hỏi, nhất là phái nữ vì nghĩ mình đẹp, mình dễ thương nên được nước làm tới, muốn làm gì thì làm. Phái đẹp hay giận hờn làm eo, làm sách để bắt nạt đấng mày râu.
Cách thức chuyển hóa cơn giận mỗi khi có điều gì đó làm ta bực tức, thì ta chỉ cần nói thầm trong miệng giận là ngu, không giận là khôn và như thế cứ lập đi, lập lại nhiều lần.
Đây cũng là một phương pháp mà các Thiền sinh thường hay dùng để chế ngự cơn giận, khi mới vào chùa mỗi khi gặp chuyện bất bình. Cách này tuy đơn giản nhưng lại rất hiệu quả, nhất là đối với người có bản tính nóng nảy, hay để cơn giận lấn át lấy mình. Khi đối diện lỗi lầm hay sai sót của người khác, ta có khuynh hướng hay chỉ trích, giận dữ rồi làm lớn chuyện ra. Khi bình tĩnh lại ta mới thấy ăn năn, hối tiếc nhưng đã quá muộn màng.
Do đó, muốn chuyển hóa cơn nóng giận, chúng tôi xin khuyên các bạn hãy thực hành phương pháp dùng trí tuệ soi sáng bằng cách nói giận là ngu, không giận là khôn, để kiềm chế lại phản ứng của mình trong các tình huống xấu. Chúng ta có thể kết hợp với phương pháp quán tình thương để tâm từ phát khởi, nhờ vậy dễ dàng làm lắng dịu cơn giận. Cụ thể, mỗi khi cảm thấy cơn giận có nguy cơ bùng nổ, bạn hãy hít một hơi thật sâu và đồng thời nói thầm trong miệng “ai cũng có tính biết thanh tịnh sáng suốt”, nhắc đi nhắc lại nhiều lần như thế rồi thở ra từ từ để cơ thể hoàn toàn thư giãn. Đây chính là một hình thức Thiền đơn giản, giúp đầu óc bạn được thoải mái, và ngăn chặn giảm bớt những cơn kích động mạnh mẽ dễ làm ta nóng giận.
Hít thở sâu chính là bí quyết giúp ta bình tĩnh sáng suốt để thấy biết rõ trạng thái, cảm xúc bên trong. Việc kiểm soát cơ thể sẽ giúp ta đẩy lùi những cơn giận không như ý. Thực tế, các Thiền sinh khi thực hành những bài tập này, phổi sẽ tiếp nhận một khối lượng lớn dưỡng khí, rồi nhanh chóng lan tỏa khắp cơ thể. Thời gian tĩnh lặng giữa lúc bạn đang tức giận cho đến lúc bạn hoàn thành bài tập này sẽ giúp bạn lấy lại sự bình tĩnh, nhờ vậy tâm tư lắng dịu nên biết cách chuyển hóa và dừng hẳn cơn giận. Mỗi khi thấy mình căng thẳng và sắp nổi nóng, bạn hãy thử thực hành bài tập này xem. Riêng chúng tôi, đây là bài tập mà tôi có thể luyện tập hằng ngày, nó đem lại cho tôi cảm giác an bình thư thái, đồng thời giúp tôi lấy lại trạng thái cân bằng để có cái nhìn toàn diện, đưa ra những quyết định sáng suốt hơn trong cuộc sống.
Nóng giận là một thứ tập khí thâm căn cố đế, thuộc căn bản phiền não lâu đời, có gốc rễ sâu xa trải qua từ vô lượng kiếp. Chúng ta có mặt trên cuộc đời, trôi lăn trong sinh tử cũng bởi ba thứ tham sân si, làm nguyên nhân lẩn quẩn trong ba cõi sáu đường. Tập khí nóng giận hầu như ai cũng có, kể cả các bậc hiền Thánh. Vì thế, khi gặp những điều không được hài lòng như ý, ta thường nổi nóng, giận dữ như ngọn lửa cháy phừng bốc lên cao ngọn. Dù ta cố gắng điều phục cơn giận bằng nhiều hình thức, nhưng cũng không thể dằn hẳn cơn giận trong một chốc, một hồi.
Muốn chuyển hóa ngọn lửa sân hận này, kinh Phật có nêu ra nhiều phương pháp chữa trị. Tùy theo trình độ nhận thức mỗi người mà ta áp dụng phương cách trị liệu khác nhau. Nhưng mọi phương pháp Phật đều chỉ dạy ta phải dùng trí huệ quán chiếu sâu vào nội tâm. Tuyệt đối, không nên ức chế đè nén. Vì đè nén cơn giận tức chỉ làm cho nó càng thêm sâu nặng. Đạo Phật rất tối kỵ và không chấp nhận việc đè nén dằn ép này. Đó không phải là phương cách hữu hiệu tuyệt hảo làm cho ta hết đau khổ bởi cơn giận. Càng ức chế, đè nén chừng nào, thì lòng sân hận càng tăng trưởng và lớn mạnh chừng nấy. Một lúc nào đó, khi sự ức chế đè nén đến tột cùng, nó sẽ nổ tung và tàn phá rất mãnh liệt. Đây là một kết cục bi thảm tai hại mà không ai có thể lường được hậu quả ra sao. Bằng chứng là những thảm cảnh khủng bố giết người gây án với sự tàn sát, giết hại dã man biết bao người đã chết chóc đau thương gây nên cảnh ta nhà nát cửa.
Đạo Phật dạy ta cần phải nhận diện và chuyển hóa cơn sân giận. Khi ta giận ai, có thể nói rõ cho đối phương biết ta đang bực tức, không hài lòng về họ. Ta có nỗi khổ niềm đau riêng của mình, nên ta cần phải trình bày một cách chân tình và thật thà cùng người đang giận. Mình giận họ vì không làm cho mình vừa ý, hài lòng một vấn đề nào đó. Mình cần phải nói rõ lý do để cho họ hiểu và cảm thông với ta nhiều hơn. Hoặc cũng có thể vì sự chấp trước của ta về những sai lầm trong quá khứ.
Cho nên ta cần phải thiết lập truyền thông, tìm hiểu cặn kẽ, kỹ càng, để hai bên cùng nhau cảm thông và tha thứ. Ta không nên nuôi dưỡng, chất chứa thù hận trong lòng mà sanh tâm oán ghét dài lâu. Đó không phải là thái độ khôn ngoan hành xử của người tu theo đạo Phật.
Ta hãy biết rằng, khi người nào có thái độ và hành động làm mình đau khổ bằng sự giận dữ, thì trước tiên ta đã biết người đó tự chuốc lấy đau khổ trước rồi. Do đó, ta cần phải nên cảm thông thương xót nhiều hơn, vì họ đang bị vô minh chi phối, nên họ mới hành động ra nông nỗi như vậy. Có thể họ có quá nhiều nỗi khổ niềm đau, bởi do đè nén chất chứa lâu ngày nên lời lẽ không được hay cho lắm.
Hạt giống giận hờn của họ luôn ẩn tàng sâu kín tận tâm thức nên ta phải thương yêu họ nhiều hơn là ghét bỏ. Muốn nhận diện được bản chất của sân hận thật không phải dễ dàng. Nó vốn dĩ không hình không tướng, không có chỗ nơi chỉ đối duyên xúc cảnh mới phát sinh. Muốn vô hiệu hóa cơn giận, trước khi nó bộc phát, Phật dạy ta hãy thường xuyên quán chiếu, xem xét sâu vào nội tâm để ta luôn tỉnh giác từng tâm niệm của mình.
Ta phải ý thức được lời nặng nề, cay cú, ác độc chỉ làm cho ta người khác khổ đau. Mình phải biết sáng suốt trước khi nói và làm bất cứ điều gì, để tránh gây thiệt hại cho người khác. Chỉ cần mình khéo nhận diện mặt mũi trước khi cơn giận nổi lên, thì khả năng nóng nảy sẽ không còn cơ hội bộc phát. Ta hãy thường xuyên quán chiếu sâu nơi tâm của mình và mọi người thật kỹ. Ta cần lấy gương soi lại mặt mình khi sự bực tức nóng giận nổi lên. Nếu phải nhìn thấy một gương mặt hình thù quỷ quái, hung dữ thì cái nhân hiện tại sẽ cho cái quả đời sau như thế. Chắc chắn là ta sẽ trở nên xấu xí bởi những lần sân hận thế này. Nhận thức rõ điều này một phần cũng giúp cho ta bớt đi phần nào sân hận, bởi đâu có ai muốn mình thành một kẻ xấu như quỷ La Sát ?
Tóm lại, muốn chuyển hóa cơn giận hiệu quả, ta có thể ứng dụng thực tập các nguyên tắc căn bản sau đây:
Ta phải thường xuyên giữ chánh niệm tỉnh giác bằng cách theo dõi hơi thở, thở vào mình biết thở vào, thở ra mình biết thở ra.
Trước khi nói hay hành động gì, ta phải xem xét kỹ càng liệu điều đó có tính chất nóng giận hay không?
Ta hãy thường xuyên quán niệm thực hành trải rộng lòng từ thương yêu đến tất cả mọi người, mọi vật. Hãy mở rộng trái tim để yêu thương, hiểu biết và đối xử với nhau bằng sự cảm thông và tha thứ.
Ta hãy quán chiếu thật sâu vào tâm thức để thấy rõ hạt giống sân hận nếu để nẩy mầm sẽ chỉ làm cho mình và người đau khổ. Chính vì vậy, mình cần nên chuyển hóa ngay từ khi còn trong trứng nước.
Nói về tôn giả Phú Lâu Na, người thuyết pháp đệ nhất trong mười vị đệ tử xuất cách của Phật. Nhưng có một khía cạnh tuyệt vời khác mà chúng ta ít lưu tâm tới chính là tinh thần cầu thầy học đạo, một đức tính cần thiết và quan trọng nhất trong đời sống tu hành của ta.
Tôn giả sinh ra trong một gia đình Bà La Môn giàu có ở gần thành Ca Tỳ La Vệ. Ngài có gương mặt đẹp, đôi mắt từ ái cùng hình dáng trang nghiêm. Dù được cha mẹ thương yêu, chiều chuộng hết lòng, nhưng Tôn giả vẫn không sinh tâm ỷ lại mà một lòng quy hướng Tam bảo, suốt đời đem ngọn đèn chánh pháp soi sáng khắp nơi, phá tan bóng tối vô minh khắp các vùng xa xôi hẻo lánh, cùng các miền sông núi bao la.
Với lòng tin sâu Tam bảo cùng biện tài vô ngại, sau khi chứng quả giác ngộ giải thoát, Ngài bắt đầu lên đường thuyết pháp độ sinh, được mọi người tôn xưng tán thán với danh hiệu “đệ nhất thuyết pháp”.
Với ba y, một bát, Ngài dân du khắp nơi để thuyết pháp độ sinh, giúp mọi người sống an vui hạnh phúc. Sau những giờ thuyết pháp hay đi qua những chặng đường dài gian khổ, Ngài chỉ cần ngồi lại dưới gốc cây, nhập định là đủ sức để tiếp tục lên đường.
Trên bước đường tha phương cầu thực và hoằng hóa độ sinh, Ngài như một cơn gió thoảng, một áng mây bay, không trụ lại bất cứ nơi nào. Nơi nào cần có Tịnh xá để tiện việc tu tập thì Ngài xây dựng, xây xong Ngài xin đức Phật cử một vị khác đến hướng dẫn Pháp, rồi Ngài lại ra đi. Ngài đã thành lập rất nhiều Tịnh xá, hướng dẫn cho rất nhiều người phát tâm thành kính và quy y Tam bảo.
Thời gian cứ thế trôi qua, sự nghiệp giáo hoá của Tôn giả Phú Lâu Na ngày càng lan rộng khắp các vùng xâu xa hẽo lánh.
Vào một ngày nọ, sau mùa An cư kiết hạ, chư Tăng lại tiếp tục lên đường du hoá. Tôn giả Phú Lâu Na xin đức Phật cho Ngài đến hướng dẫn ở xứ Du Na, một nơi miền rừng núi hiểm trở, sự đi lại khó khăn, người dân đa số sống bằng nghề săn bắn, nhận thức còn chậm lụt và tính tình thô ác bởi nghiệp sát sinh, hại vật.
Đức Phật bảo với ngài rằng:
_ Ta biết là người xứ Du Na rất hung dữ và độc ác. Nếu họ không muốn nghe lời ông nói, mà còn nặng lời mắng chửi, xua đuổi thì ông sẽ xử lý ra sao?
_ Kính bạch Thế Tôn! Con sẽ chấp nhận chịuđựng, vì họ chỉ nói lời nặng nề mắng chửi, xua đuổi, chứ họ chưa dùng cây gậy để đánh đập thương tổn đến con.
_ Nếu họ đánh đập ông thì sao?
_ Kính bạch Thế Tôn! Con vẫn chấp nhận chịu đựng được, vì họ chưa giết hại con.
_ Nhưng nếu họ giết ông thì sao?
_ Kính bạch Thế Tôn! Con không có gì để oán than hay trách móc họ, vì con biết rằng xác thân tứ đại này là vô thường, huyễn hóa. Con phải cám ơn họ nhiều hơn, vì đã giúp con xả bỏ xác thân ô uế này.
Đức Phật khi nghe Tôn giả nói vậy liền mỉm cười vui vẻ nói:
_ Lành thay! Phú Lâu Na! ông hãy mau lên đường vì ta tin chắc ông đủ sức giáo hóa người dân nơi xứ ấy.
Khi đến nơi, Phú Lâu Na không vội vàng thuyết pháp. Ông chỉ lân la tìm hiểu phong tục, tập quán và sở thích của họ. Thấy người dân thường hay bệnh hoạn, đau yếu, mỗi ngày Tôn giả vào tận rừng sâu hái thuốc làm thầy chữa bệnh. Thấy trẻ con dốt nát, thất học, Tôn giả nhiệt tình tận tâm chỉ dạy. Thấy dân thiếu trước, hụt sau, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, Tôn giả động viên, khích lệ họ gieo mạ, cấy lúa, làm nương, làm rẫy. Cứ như thế từ ngày này qua tháng nọ, Ngài đã được mọi người tôn trọng và quý kính.
Trước kia, vì thiếu hiểu biết nên người dân xứ Du Na cực kỳ hung ác làm nghề sát sinh hại vật. Sau thời gian gặp được Tôn giả, họ đã lần hồi thay đổi tâm tư và hiểu biết mà bắt chước làm theo lời Ngài chỉ dạy.
Ngày trở về, Tôn giả cùng dẫn theo 500 người xứ Du Na đến xin đức Phật xuất gia. Ngài đã để lại hình ảnh tốt đẹp đối với toàn thể người dân xứ này vào phút chia tay rất thấm đậm nghĩa tình. Tôn giả đã trao cho họ một món quà vô giá về đạo lý làm người, sự yêu thương và hiểu biết. Ngài lại tiếp tục cuộc hành trình, dấn thân vào vùng sâu vùng xa để thuyết pháp, độ sinh. Sách sử không ghi rõ Ngài nhập diệt nơi đâu, vì với Ngài bất cứ nơi đâu cũng chính là quê hương thân yêu của mình.
THAY LỜI KẾT
Muốn chuyển hóa căn bệnh sân hận, ta phải thực tập hạnh kham nhẫn, nghĩa là nhịn chịu những điều không vừa ý, trái lòng như bị nói nặng, bị mắng chửi, bị thách thức, bị nhục mạ, mình vẫn bình tĩnh, thản nhiên, xem tất cả như chất liệu của yêu thương, hiểu biết mà đón nhận với lòng không phản kháng. Kham nhẫn còn là sức chịu đựng trong mọi hoàn cảnh, như nóng lạnh, đói khát, tham muốn quá đáng hay bị mất mát, đau thương…
Một hôm, đức Phật đến giáo hóa tại một làng người Bà La Môn. Một gia đình nọ có bà vợ giỏi tướng số cùng cô con gái xinh đẹp. Vì họ muốn tìm người có đủ 32 tướng tốt về làm rể nên khi người cha vô tình gặp Phật, ông mừng quýnh chạy về báo với vợ, rồi cùng bà đến xem cho chính xác. Khi bà thấy Phật, đúng như người bà bỏ công tìm kiếm, nên bà ưng ý, muốn gã con gái ngay mà không cần điều kiện. Phật nói, ta xưa kia có đầy đủ tất cả cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con xinh, thần dân thiên hạ, ta còn bỏ lại sau lưng, sống đời đơn giản rày đây mai đó mà hướng dẫn đạo lý giác ngộ giải thoát cho mọi người. Bà vui lòng hãy tìm nơi khác vì ta đã từ bỏ ngũ dục thế gian từ rất lâu.
Bà buồn quá trở về kể lại cho con gái nghe, làm cô tự ái trước vẻ sắc nước hương trời mà có người dám buông lời từ chối. Kể từ đó, cô ôm lòng oán thù và chờ ngày rửa hận. Vì có nhan sắc mặn mà nên về sau cô được làm hoàng hậu, mẫu nghi một nước. Lần này, Phật đến giáo hóa tại vương quốc đó, bà biết được nên mướn bọn côn đồ, du đãng chặn đường Phật mà chửi mắng thậm tệ.
Trên con đường hoằng hóa độ sinh, đức Phật đã gặp nhiều gian nan, thử thách. Nếu ta không kham nhẫn hoặc kham nhẫn sai phương pháp thì tất cả công đức gây tạo sẽ bị thiêu đốt hết. Nếu không có bồ đề tâm kiên cố, tức thành tâm hướng về sự giải thoát, giác ngộ, thiếu lòng từ bi khi làm việc thiện giúp ích cho đời bằng tình thương bình đẳng, không phân biệt đối xử, không vụ lợi cá nhân, thì sự dấn thân ấy dù làm Phật sự đôi lúc có thể trở thành ma sự.
Cả bọn du đãng ấy cứ vây quanh chửi mắng, khủng bố thậm tệ, nên ngài A Nan mất hết bình bĩnh mà thưa với Phật rằng:
Kính bạch Thế Tôn, dân ở đây họ không có tâm cung kính, lại thiếu sáng suốt nên ta hãy đến nước khác giáo hóa, vì con bây giờ chịu hết nỗi những lời mắng chửi, sĩ nhục kia rồi.
Phật hỏi: Vậy thì chúng ta đi đâu?
Dạ thưa, Thế Tôn đi nước nào cũng được, miễn là không có ai vây hãm chửi bới là tốt rồi.
Phật nói: Giả sử, chúng ta đi tới chỗ khác cũng bị mọi người mắng chửi nữa thì sao?
_ Nếu vậy chúng ta trở về thành Xá Vệ, Ma Kiệt Đà, nơi Thế tôn đã có nhiều đệ tử thuần thành.
Phật hỏi: Nếu ông là thầy thuốc giỏi thì có nên đề bảng “ở đây tôi chỉ trị bịnh nhẹ thôi, còn bệnh nặng thì vui lòng đi nơi khác” ?
A Nan thưa: Dạ đâu được đức Thế tôn, thầy thuốc giỏi thì phải trị những bệnh nan y mới cứu được nhiều người ạ.
Phật nói: Cũng vậy! Dân ở đây vì chưa biết đạo làm người, nên nhiều người bệnh quá nặng mới có những lời lẽ thiếu văn hóa như vậy. Thôi ta hãy thong thả, từ từ để tìm cách chuyển hóa cho họ.
Bọn du đãng vẫn tiếp tục chửi hoài, A Nan nói họ chửi hoài làm sao đức Thế Tôn giáo hóa họ được.
Phật bảo: Khi nào họ không chịu nghe lời nói của ta nữa, thì ta đi nơi khác cũng không muộn màng gì.
Tên cầm đầu bọn du đãng nghe Phật nói với Ngài A Nan như thế bổng chuyển tâm, hồi ý quỳ xuống nói rằng: Dạ thưa sa môn Cù Đàm, chúng con từ sáng tới giờ vì ngu si, mê muội nên mới có mắt như mù đối trước bậc siêu phàm vượt Thánh như Ngài. Xin Ngài mở rộng lòng từ ở đây thương xót chỉ dạy chúng con.
Kể từ đó, Phật đã ở lại xứ này giáo hóa.
Nếu chúng ta muốn gieo tạo công đức trọn vẹn, hạnh phúc, an vui lâu dài thì phải kham nhẫn, kiên chí, bền lòng. Bản thân đức Phật cũng từng gặp rất nhiều trở ngại suốt cuộc đời hoằng hóa độ sinh. Người có đủ 32 tướng tốt, cùng 80 vẻ đẹp. Dung mạo hoàn hảo khiến nhiều người quy kính, nhưng cũng kéo theo những rắc rối sau là nhiều cô gái đem lòng thương yêu, nhớ nhung Ngài say mê, đắm đuối không được mà tìm cách hại Ngài.
Với tất cả lòng hoan hỷ, từ bi và trí tuệ sự kiên nhẫn nơi đức Phật đã làm cho bao trái tim con người được chuyển hóa. Do đó, ta có thể khẳng định đức kiên nhẫn là chất liệu nuôi lớn lòng từ bi, là điều kiện làm cho tâm ta trở nên diệu mát như nước cam lồ của Bồ tát Quán Thế Âm. Sự kiên nhẫn được định nghĩa như một hạt giống tốt để con đường dấn thân thêm tinh tấn, còn là thành trì để tất cả phiền não, nghiệp chướng trong đời lần hồi rơi rụng. Tuy nhiên, mỗi hành giả cần phải kiên nhẫn với thái độ bình tĩnh, sáng suốt, bằng từ bi và trí tuệ.
Lòng kham nhẫn trong các Phật sự hay trong sự dấn thân phải bắt nguồn từ nhận thức sáng suốt, tất cả những điều chướng tai, gai mắt diễn ra xung quanh đều có những nguyên nhân sâu xa của nó, không lẽ nào là vô cớ, ngẫu nhiên.
Nếu không đủ bình tĩnh, sáng suốt và kham nhẫn chịu đựng, con đường hoằng hóa sau lời ngài A Nan góp ý đã đứt đoạn giữa đường. Biết rõ nguyên nhân, Ngài sáng suốt nhận ra đây là cơ hội cuối cùng để chuyển hóa hoàng hậu, và cuối cùng bà cũng quy Phật trong nỗi niềm ăn năn, hối hận. Bà đến đảnh lễ và xin theo làm đệ tử của Ngài. Đức kham nhẫn là sự chịu đựng, chấp nhận, nhẫn chịu trước những điều không hài lòng vừa ý.
Chúng ta đã biết, đức Phật ngày xưa còn bị nhiều người vì thương yêu không được nên phát sinh đem lòng thù hận. Vì lòng tham lam, ganh ghét, tật đố mà bọn ngoại đạo đã âm mưu, chống phá đủ điều. Chúng vu khống, hủy nhục, dựng chuyện cô gái có bầu để bêu rếu Phật ngay trước mặt quần chúng. Độc ác hơn nữa, chúng giết chết người con gái, chôn trong Tịnh xá, rồi mời vua quan xác minh, làm chứng để hãm hại Phật. Chuyện như vậy mà Phật vẫn bình tĩnh sáng suốt, an nhiên, tự tại.
Như vậy, sự kiên trì, nhẫn chịu để làm lợi ích cho người là cơ hội mang lại niềm an vui, hạnh phúc. Vì nội tâm đã hoàn toàn thanh tịnh, trong sáng, nên bợn nhơ không thể nào vẩn đục. Như nước trong ly đã gạn lọc hết chất cáu bẩn, dù có cốtình quậy đục mà nước vẫn cứ trong. Phật cũng lại như thế! Chính nhờ vậy mà hơn 2600 năm qua, chánh pháp Phật đà trường tồn giúp con người thấu triệt chân lý, sống yêu thương bằng trái tim hiểu biết với tấm lòng vô ngã vị tha.
HIỂU BIẾT ĐỂ CẢM THÔNG
Ngày xưa, trên hòn đảo nọ, có cô Niềm Vui cùng chị Nỗi Buồn, anh Giàu Sang và chị Kiến Thức, anh Danh Vọng cùng chị Tình Yêu, ngoài ra còn nhiều nhân vật quan trọng khác.
Một hôm, có thông báo hòn đảo sắp chìm, mọi người hay tin chuẩn bị thuyền bè để rời khỏi đảo. Ai cũng xôn xao mong sớm đi khỏi đặng được bề an ổn. Mỗi chị Tình Yêu cứ nấn ná lại vì tiếc nuối sự nghiệp bấy lâu. Mãi đến phút cuối, cô ngậm ngùi ra đi, và hòn đảo bắt đầu chìm thật. Lúc này, chị Tình Yêu mong muốn được mọi người giúp đỡ. Thấy anh Giàu Sang ung dung trên chiếc tàu lớn đang chạy ngang qua, chị liền hô lớn, “anh Giàu Sang ơi, anh giúp em cùng về đất liền nhé!”. Nghe vậy, anh Giàu Sang liền lên tiếng “không được đâu, tàu của anh chứa nhiều châu báu, vàng bạc và các thứ đồ quý giá nên hết chỗ rồi, em thông cảm đi nhờ tàu khác”. Rồi chiếc tàu anh Danh Vọng cũng đến, chị Tình Yêu liền kêu lớn, “anh Danh Vọng ơi! Cho em quá giang với!”. Anh Danh Vọng đáp, “tôi cao quý sang trọng thế này, sao có thể đi cùng cô được, cảm phiền cô đi nhờ tàu khác”. Rồi đúng lúc đó, chị Nỗi Buồn chạy qua, Tình Yêu liền lên tiếng, “xin giúp đỡ em, chị Nỗi Buồn ơi! Chị cho em đi theo với nhé!” – “Ồ, không thể được! Tôi đang ôm trong lòng nỗi khổ niềm đau, chỉ muốn yên thân một mình, xin em thông cảm tìm tàu khác nha”. Rồi tàu của chị Niềm Vui chạy tới, cô Tình Yêu gắng la thật lớn, nhưng vì vui quá nên chị Niềm Vui cũng không nghe cô gọi.
Quá thất vọng ê chề, chị Tình Yêu ngồi rầu rĩ, nửa tỉnh nửa mê, thì bỗng nghe một giọng oang, oang, “này cô Tình Yêu! Hãy đến đây, tôi sẽ đưa cô rời khỏi chỗ này”. Cô Tình Yêu chợt tỉnh giấc mộng và lờ mờ thấy một ông già đầu tóc bạc trắng. Cô nhanh chân lên tàu mà quên thưa hỏi, cùng kính chào ông. Sau khi về đến đất liền, ông già chợt nhiên biến mất. Cô rất đỗi ngạc nhiên và vô cùng biết ơn ông lão, bèn tìm đến ngài Kiến Thức để hỏi cho ra ông lão giúp mình là ai. Lão Kiến Thức nhỏ nhẹ, từ tốn trả lời, “đó chính là ông Thời Gian”. Cô tình yêu hỏi tiếp, “tại sao những người kia không giúp tôi mà chỉ có ông thời gian làm việc ấy?” Ông lão Kiến Thức mĩm cười, “chỉ có thời gian mới hiểu hết tất cả sự mầu nhiệm trong cuộc sống!” – “À, thì ra là thế, chỉ có thời gian mới là quan trọng và thiết thực nhất trong đời”.
Thời gian đối với người trí vô cùng quan trọng, họ không bao giờ để lãng phí dù chỉ là một chút, với những kẻ ngu si thì hoàn toàn ngược lại. Họ si mê mãi dính mắc trong ngũ dục trần gian, như con thiêu thân lao vào lửa, giống hệt bùn đất chẳng có giá trị gì. Anh Giàu Sang vì có nhiều châu báu, vàng bạc là những vật quý hiếm, nên những nhu cầu thiết yếu hằng ngày anh hầu như được vừa lòng, thỏa mãn. Chính vì thế mà anh cứ mãi bám vào đó, chỉ lo thụ hưởng, vui chơi với các lạc thú trần gian, để thời gian trôi qua vô ích. Anh không biết rằng, đời nay giàu có là nhờ nhiều đời biết gieo trồng phước đức, hiện đời không biết tích lũy thêm, mãi vui chơi hoang phí, thì đến khi phước hết thì họa đến, sau khi chết chỉ mang theo nghiệp xấu mà chịu vô vàn đau khổ. Người trí sáng suốt biết tranh thủ thời gian để đóng góp, sẻ chia, giúp đỡ nhiều người, nhờ vậy giảm bớt tính tham lam, sân giận, si mê, mà thoải mái nhắm mắt xui tay khi duyên trần đã hết, và đời sau chắc chắn được ấm no, hạnh phúc.
Thời gian thoi đưa cứ mỗi ngày trôi qua lặng lẽ, không thể nào quay ngược trở lại. Nếu ta không biết tu tâm, dưỡng tánh thì uổng phí cả kiếp người. Sự giàu có thực chất chỉ như bóng mây mờ, hư ảo, là cái phước của đời trước và là cái họa của đời này khi ta không biết chi tiêu ăn xài hợp lý. Nếu ta dùng tiền chỉ để thỏa mãn dục trần, mãi chìm đắm trong thú vui tạm bợ, thì tiền mất tật mang, ta còn tự mình rước họa vào thân. Vàng bạc tuy quý hiếm khiến ta phải đào đãi khó khăn, dùng làm đồ trang sức hoặc làm của hồi môn thủ hậu về sau, nhưng thời giờ còn quý hơn tất cả, cứ mãi trôi nhanh, không bao giờ quay trở lại. Nếu chúng ta không biết tranh thủ, tận dụng từng thời khắc quý báu để làm tròn bổn phận, trách nhiệm đối với gia đình, xã hội, thì ta sẽ gây tổn thất, thiệt hại nặng nề cho toàn nhân loại và cho cả chính mình về sau.
Một ngày mới bắt đầu là một cơ hội giúp ta rèn luyện nhân cách sống, mình hãy cố gắng làm điều gì đó đóng góp cho đời. Sự đóng góp, dấn thân phục vụ nhân loại, sẽ giúp ta kết nối yêu thương và duy trì mạng sống lâu dài. Chính vì vậy, ta phải tiếc từng chút thời gian để suy xét, quán chiếu cuộc đời mà dấn thân phục vụ, nỗ lực làm thiện không biết mệt mỏi, không biết nhàm chán, vì thế gian này cần có đôi bàn tay rộng mở. Mạng sống con người chỉ dựa vào hơi thở, chỉ một tích tắc thở ra không thở vào là cuộc sống coi như chấm dứt. Mạng sống này là vô thường biến đổi, ngắn ngủi, mong manh, nên ta phải biết trân quý từng giây phút mà gắng công tu tập, chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc. Nếu ta chết đi mà một đời không biết gieo trồng phước đức, cơ hội kiếp sau mang thân người quả thực rất khó. Do đó, Phật vì lòng từ bi thương xót tất cả chúng sinh nên chỉ dạy “ thân người khó được ” giống như con rùa mù một trăm năm mới trồi lên mặt biển, gặp bọng cây trôi giạt mà bám vào được, còn dễ hơn được sinh lại làm người.
Cho nên, chúng ta phải biết con người mới thật sự là quý nhất. Có con người là có tất cả, vì con người có trí tuệ, biết siêng năng, chăm chỉ, cần cù lao động, sẽ làm ra nhiều lúa gạo, sẽ khai thác đào mỏ, luyện vàng. Nếu không có những con người siêng năng chịu khó, biết tranh thủ tận dụng thời gian làm những việc có ích, phục vụ nhân loại đầy đủ các nhu cầu cần thiết, thì cuộc sống này sẽ trở nên vô ích.
Thời gian dù có lâu hơn, có dài hơn, nhưng nếu ta không biết tích lũy phước báu, thì kết cuộc dù sống 100 năm cũng vô tích sự mà thôi. Vì thế, ngay từ thuở nhỏ, các em phải cố gắng ra sức học hành để nâng cao trình độ hiểu biết. Sau này lớn lên, có tri thức vững vàng để góp phần làm lợi ích cho đời. Tùy theo khả năng cá nhân mà mỗi người chọn lựa cho mình một công việc phù hợp để nuôi sống bản thân, làm tròn bổn phận trách nhiệm đối gia đình và phục vụ tốt cho xã hội.
Này các em, này các bạn trẻ, ta có đôi bàn tay khéo léo để làm tất cả mọi việc. Khi còn nhỏ, đôi bàn tay này giúp cho chúng ta học viết chữ, qua đó nâng cao trình độ hiểu biết, có kiến thức phổ thông, sau này lớn lên dùng đôi tay, với trái tim hiểu biết mà dấn thân đóng góp, phục vụ cho gia đình và xã hội. Chúng ta có đôi chân mạnh mẽ để gánh chịu toàn thân, giúp thân này làm lợi ích vì nhân loại. Đôi chân này luôn giúp chúng ta đi xa ngàn dặm, trèo non lội suối. Dù đường đời có chông gai hiểm trở, đôi chân này vẫn luôn tiến bước không ngừng cho đến khi sức cùng, lực kiệt mới thôi. Tất cả chúng ta với tình yêu thương nhân loại, công ơn sâu dày của cha mẹ sinh dưỡng, mang nặng đẻ đau, hy sinh chịu đựng, vất vả nhọc nhằn để nuôi mình khôn lớn, trưởng thành, mình phải dùng thân này để phục vụ mọi người, gắn kết yêu thương, sẻ chia cuộc sống.
Nếu chúng ta không biết vun trồng tri thức thì loài người không thể nào phát triển. Để chinh phục đỉnh cao hiểu biết, đạt được danh vọng, giàu sang, là cả chuỗi ngày dài ta phải trải qua một thời gian nhọc nhằn, lao khổ. Cuộc sống vốn dĩ công bình được cái này thì phải mất cái kia. Thế nhưng, khi mọi thứ gần như toại nguyện thì ta vui vẻ hạnh phúc, bằng ngược lại thì ta thất vọng, buồn rầu, lo lắng, sợ hãi. Nếu được thì hân hoan phấn khởi vui sống qua ngày, nếu mất thì kéo theo nỗi khổ niềm đau cùng vạn khối sầu. Cuối cùng, lúc chết đi cũng chỉ mang theo hai bàn tay trắng, cùng sự nghiệp thiện, ác của mình.
Sự sống mong manh, cuộc đời vô thường giả tạm, vậy mà ta cứ mãi nhọc nhằn vất vả, bon chen cả đời cũng chỉ để có chút tình yêu thương bé bỏng. Trong khi đó, ta không biết nhìn lại chính mình, không biết mình là ai, và từ đâu đến? Tuy có lúa gạo, có vàng bạc, có danh vọng, có vợ đẹp con ngoan, có tình yêu, có thời gian, nhưng ta lại thờ ơ với chính mình, và ta chẳng biết mình là gì cả. Thật là tội nghiệp cho ta quá chừng!
Ta có tính biết sáng suốt ngay nơi thân vật chất này, nương nơi mắt thì thấy rõ ràng các hình sắc mà không lầm lẫn, tai có tiếng thì nghe có tiếng, không tiếng nghe không tiếng, tính nghe vẫn thường hằng như thế có khi nào vắng thiếu bao giờ đâu? Mũi lưỡi thân ý cũng lại như vậy. Trong bầu vũ tru bao la này trên là trời, dưới là đất, song hành với chúng ta có năm loài cùng chung ở, chúng ta thấy rõ nhất là con người và các loài súc sinh. Đất giúp cho con người có sự sống nhờ đôi bàn tay và khối óc. Trời cao bao gồm mây mưa, mặt trăng, mặt trời, các sóng điện giúp con người đủ điều kiện tồn tại trên đời. Trời và đất không có cái hiểu biết, ngược lại con người có tri giác, có hiểu biết, chính vì vậy con người là trọng tâm của trời đất, là vật tối linh của muôn loài.
Lâu nay, chúng ta hầu như ai cũng coi trọng trời đất mà lại coi thường và lãng quên chính mình. Làm việc gì cũng cầu trời, khẩn đất phù hộ, đó chính là sai lầm lớn nhất của con người. Sợ trời phạt, mong trời thương, rồi cầu thần đất, thần tài ủng hộ cho có nhiều đất đai, của cải, tài sản, mà không biết gieo nhân nào để gặt được quả lành. Cho nên có câu: có trời, có đất, có ta, nhưng không có con người, thì trời đất bao la này cũng trở thành vô nghĩa. Không có con người thì tất cả mọi thứ thiên hình, vạn trạng trên thế gian này đều trở thành vô nghĩa và không có gì giá trị. Trong chúng ta, ai cũng có trái tim yêu thương và hiểu biết, trái tim này luôn bao dung, độ lượng và dung nhiếp hết tất cả mà tạo nên sự hòa hợp trong cuộc sống. Nếu ta có nhiều lúa gạo, vàng bạc, của cải, mà không biết đem ra sẻ chia để làm vơi bớt nỗi đau khổ, bất hạnh bằng tình người thì tất cả những thứ ta đang có còn giá trị gì nữa. Tình thương nhân loại ở chỗ nào? Lúa gạo là nhu cầu cần thiết trong đời sống hằng ngày, nó luôn làm cho con người no đủ mà không sợ chết đói, chết khát. Vàng bạc nếu so với lúa gạo thì giá trị thực tế không bằng, không có vàng ta vẫn sống bình thường, không có lúa gạo ta không thể tồn tài. Cụ thể như năm 1945, hơn 2 triệu người Việt Nam bị chết vì nạn đói. Vậy mà, nhân loại cứ cho cái gì quý hiếm là có giá trị. Từ nhận định chủ quan đó, ta cứ mãi chạy theo các nhu cầu vô vị, không cần thiết.
Bây giờ, ta hãy thử làm một bài toán so sánh các giá trị vật chất ở thế gian. Vàng có thể nuôi sống con người hằng ngày hay không? Người ta vẫn nói có vàng mới mua được lúa gạo, nhưng người trong sa mạc hoang vắng mang theo đầy vàng có thể giúp ích qua cơn đói khát hay không? Trong khi đó, ta chỉ cần ăn và uống để sống. Về giá trị giao dịch sản phẩm nuôi sống nhân loại, người ta sắp đặt theo giá trị quý hiếm, thường có, nhưng trên thực tế vật quý hiếm lại không có nhu cầu chính đáng. Những gì cần thiết cho sự sống con người đáng lẽ phải có giá trị hơn, vì nó tác dụng trực tiếp nuôi sống chúng ta thường ngày, nhưng lại bị liệt vào diện bình thường thấp kém, để rồi con người phải lệ thuộc vào các thứ phù phiếm, xa hoa mà suốt đời phải nhọc nhằn, lao khổ.
Như nước là nhu cầu cần thiết cho con người trong sinh hoạt hằng ngày, tắm rửa, giặt giũ, nấu nướng, tiêu dùng... có nước đầy đủ thì cây xanh tươi tốt, tạo ra hoa màu, thực phẩm, hấp thu khí dưỡng, làm bóng mát cho đời. Thiếu nước vài ngày thì cây cỏ sẽ chết. Vậy mà có mấy ai quan tâm? Các nhà doanh nghiệp vì lợi ích riêng mà cam tâm, đành lòng xả thải các chất độc hại làm ô nhiễm môi trường nước,gây thiệt nghiêm trọng cho con người và tất cả muôn loài. Vì chút lợi ích cá nhân nhỏ nhoi đối với một số người mà cả triệu, triệu con người cùng muôn loài chịu khổ. Không khí là nhu cầu cần thiết để bảo đảm sự sống cho cả hành tinh, thiếu nó vài phút thì mọi loài sẽ chết, vì nó bao trùm khắp cả hư không. Vậy mà con người chỉ biết lợi trước mắt, làm tổn hại sự sống hôm nay và cho cả về sau. Lúa gạo, nước, không khí, so với vàng cái nào quý hơn? Chắc chắn ai cũng nói vàng quý hơn. Đó là cái thấy sai lầm nghiêm trọng từ ngàn xưa cho đến ngày nay mà ít ai quan tâm, nhận biết. Con người đã tạo ra sự mâu thuẫn quá lớn. Những cái cần thiết giúp ích cho nhân loại mỗi ngày thì ta lại lơ là, lãng quên, mà chấp nhận gánh lấy hậu quả đau thương từ chủ nghĩa tiêu thụ vật chất quá đáng.
Bây giờ, chúng ta thử so sánh giữa vàng và sắt xem thứ nào có giá trị hơn? Ai cũng nói vàng giá trị hơn, vì vàng tính thành tiền thì đương nhiên mắc hơn sắt, nhưng lợi ích thiết thực cho con người lại chính là sắt chứ không phải là vàng. Trong cơ thể con người rất cần chất sắt, vì nó là yếu tố quan trọng để tạo thành máu đỏ. Con người nếu thiếu máu thì sẽ chết, nhưng nếu thiếu chất vàng thì cũng không hề gì. Đó là giá trị chất sắt trong con người, ngoài ra sắt còn đáp ứng những nhu cầu cần thiết phục vụ sự sống tiện lợi về nhiều mặt như xây dựng nhà cửa, cầu cống, xe cộ giúp con người có chỗ ăn, ở, nghỉ ngơi, đi lại dễ dàng mà tiết kiệm được thời gian. Những gì cần thiết cho con người thì chúng ta lại lãng quên và ít quan tâm tới. Cho nên, chúng ta đành chịu chấp nhận sống chung với ô nhiễm, sống chung với bệnh hoạn, sống chung với tệ nạn xã hội, sống chung với những cái đang dần hủy diệt thiên nhiên và sự sống con người.
Người nông dân phải cực khổ, vất vả nhọc nhằn, một nắng hai mưa, chân lấm tay bùn, đầu đội trời, chân đạp đất, mới tạo ra những hạt gạo thần tiên giúp nhân loại được no đủ mỗi ngày. Vậy mà chính con người lại đánh giá gạo là vật chất thấp nhất trong các nhu cầu cần thiết để phục vụ cho sự sống thường ngày. Chúng ta cần có một cuộc hội thảo về vấn đề này, phải tìm ra giải pháp chính đáng để giúp con người cân bằng lại giá trị cuộc sống. Ta cứ nghĩ rằng những gì quý hiếm là đắt tiền mà bỏ quên giá trị thiết thực của sự sống. Lúa gạo tuy cần thiết, vàng bạc tuy quý hiếm, ai biết làm phước thiện nhiều đời thì mới giàu sang, nhiều tài sản, nhưng nếu ta không biết trân quý thời gian mà sử dụng vào các việc vui chơi trác táng thì uổng phí cả một kiếp người. Mọi thứ ta làm được để trở nên giàu sang, có cuộc sống đầy đủ, tiện nghi vật chất, nhà cao cửa rộng, tiền bạc của cải, nhưng chỉ một chớp nhoáng thoáng qua như trận động đất tại Nhật Bản vừa rồi, tài sản, của cải đều sẽ bị cuốn trôi đi hết. Cuối cùng, ta chỉ còn lại hai bàn tay trắng cùng nỗi tiếc nuối, khổ đau.
Do đó, tiền bạc của cải, vật chất ta biết xử dụng đúng nhu cầu mục đích sẽ đem lại lợi ích cho mọi người, bằng ngược lại ta chỉ tiêu xài hưởng thụ cho cá nhân quá đáng thì trở thành vô nghĩa. Tất cả mọi thứ chỉ có giá trị khi ta biết đem lại lợi ích thiết thực, phục vụ cho đời sống con người. Nếu con người không có lương tâm, không có đạo đức, không có trái tim hiểu biết, luôn sống si mê, vô độ thì những thứ đó có cũng như không, chẳng mang đến lợi ích gì cho ai cả, mà con gieo thêm tai họa cho nhiều người.
Thực tế cuộc sống, vì cái thấy biết sai lầm từ ngàn xưa đến nay mà ai cũng nghĩ cái gì quý hiếm là có giá trị cao, nên lãng quên những giá trị thiết thực trong cuộc sống. Không có châu báu, vàng bạc, đá quý, ta vẫn sống, vì nó chỉ là món đồ trang sức tô điểm và phụ thuộc con người sử dụng. Không có lúa gạo, không có nước để tiêu dùng, không có không khí để thở, không có con người tâm linh thì thử hỏi ta có thể sống còn được hay không? Rốt cuộc, con người vì si mê chấp ngã, mong muốn chiếm hữu, nên ai cũng thích được tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, để rồi cuối cùng tạo ra không biết bao nỗi khổ, niềm đau mà làm tổn hại cho nhau.
Thực tế, cuộc sống này khổ nhiều hơn vui, vì ta cứ mãi đua tranh, giành giựt nên bức hại nhau không một lòng thương tiếc. Mỗi ngày, thế giới này có vô số con người bất hạnh, thiếu thốn khó khăn, chết đói, chết khát. Họ đang đói tình thương, đang cần những bàn tay rộng mở, đang cần sự nâng đỡ sẻ chia để làm vơi bớt nỗi đau bất hạnh, với tinh thần bao dung, độ lượng. Trong khi đó, số người lãng phí, xa hoa, ăn trên, ngồi trước thì lại chiếm quá nhiều.
Vậy cái gì thực sự quý giá nhất trên đời này? Nói chung tất cả mọi thứ cái gì cũng quý cả nếu ta biết xử dụng đúng nhu cầu. Nếu ta biết sống bớt tham lam ích kỷ, thụ hưởng cá nhân để san sẻ, giúp đỡ những con người khốn khó, bất hạnh vượt qua nỗi khổ, niềm đau thì những gì ta có đều là rất quý. Hiện nay, cả thế giới mỗi ngày có hơn 40 ngàn người phải chết vì đói, khát. Lương thực tiêu dùng khan hiếm, thiếu thốn mọi bề, trong khi một số người lại xa hoa, phung phí. Con người cần vật chất, con người cần tình cảm, con người cần tinh thần, con người cần sự sẻ chia và con người cần có sự yêu thương bằng trái tim hiểu biết. Có lương thực, thực phẩm đầy đủ mới bảo đảm nuôi sống con người. Có tình cảm để con người nối kết yêu thương mà đóng góp sẻ chia cho gia đình, xã hội. Có tinh thần lành mạnh, sáng suốt, minh mẫn để luôn sống lạc quan, yêu đời. Có con người tâm linh để sống với trái tim hiểu biết, sẻ chia, giúp đỡ mọi người trên tinh thần tương thân, tương trợ, yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau.
Vì vậy, ta phải biết tin sâu nhân quả, tránh ác làm lành để chuyển hóa tâm si mê, chấp ngã, trở về sống với tính biết thanh tịnh sáng suốt của mình. Khi sống được với tính biết sáng suốt, ta sẽ không bị dòng đời cuốn trôi dù phải sống trong môi trường si mê, loạn động, để làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Thế mới biết, con người là quý nhất, các vật chất khác chỉ phụ thuộc nơi con người mà thôi. Không có châu báu, vàng bạc, ngọc quý, kim cương, ta vẫn sống, nhưng thiếu lúa gạo, nước uống, không khí cùng tình thương chân thật thì ta khó lòng sống bình yên và hạnh phúc. Vậy mà thế gian cứ mãi chạy theo những điều phù phiếm, xa hoa tạm bợ mà quên đi những điều cần thiết và quý giá nhất. Có con người là có tất cả khi ta sống với trái tim hiểu biết và yêu thương, biết chia sẻ nâng đỡ những nỗi khổ, niềm đau.
Sư phụ chúng tôi đã dạy rằng: “Học tập, làm việc, uống ăn làm nên sự sống; tu là hơi thở quyết định sự sống; thân thể này thiếu tu cũng như thiếu hơi thở trong chừng phút giây là chết ngay.”
Do đó, Sư ông chúng tôi chủ trương tu, học và lao động như cái đỉnh ba chân không thể thiếu. Lao động như ăn cơm, học hỏi như uống nước, tu như hơi thở và có con người tâm linh thì cuộc sống này sẽ là thiên đường hạnh phúc. Chúng ta muốn vượt qua những phù phiếm, hư danh, ảo vọng trong đời, để làm tròn trách nhiệm, bổn phận gia đình, có cơ hội dấn thân phục vụ xã hội thì hãy nên áp dụng ba điều trên cho hài hòa, hợp lý. Lao động giúp chúng ta tạo ra của cải vật chất để nuôi sống bản thân, nhưng không vì thế mà ta tham đắm vơ vét cho riêng mình, làm tổn hại chung đến nhân loại. Đối với người đời thì sự học hỏi giúp mở mang trình độ tri thức, áp dụng vào công việc hằng ngày để đem lại lợi ích cho đời. Đối với người xuất gia thì việc học nhằm biết được phương pháp để tu hành, mà chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc, dấn thân đi vào đời, vì lợi ích chúng sinh với tinh thần vô ngã, vị tha.
Tóm lại, ta có quyền làm giàu để nâng cao đời sống do sự siêng năng, tinh cần bằng chính đôi tay và khối óc của mình. Nhờ vật chất sung mãn, đời sống được ổn định, ta không phải lo toan, bận bịu về kế sinh nhai, ta có điều kiện bố thí sẻ chia và thời gian để nâng đỡ cưu mang người khác. Ta phải nhớ rằng, tài sản, địa vị tuy rất cần thiết trong cuộc sống nhưng chưa chắc sẽ mang lại hạnh phúc, an vui thật sự, nếu ta không biết tận dụng thời gian để làm mới lại chính mình và sống với tính biết sáng suốt. Thời gian vô cùng quý giá, vì nó đi qua mà không bao giờ trở lại. Nếu con người không biết chắt chiu, trân quý từng phút giây để làm những việc có nghĩa cho đời, thì quyền cao chức trọng hay giàu sang, phú quý có được lợi ích gì cho ai?
Đôi lời tâm sự chân thành kính mong mọi người hãy nên chín chắn suy xét, quán chiếu cho tường tận. Hãy biết tận dụng, tranh thủ thời gian quay lại chính mình, mở rộng tấm lòng nhân ái, lấy đó làm kim chỉ nam trong việc chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau, thành an vui, hạnh phúc.
Kính ghi
Phong Trần An Nhiên
NHÀN QUÁ SINH TẬT XẤU
Cuộc sống an nhàn là điều ai cũng ưa thích và ham muốn. An nhàn trong thời gian ngắn sẽ giúp ta phục hồi sức khỏe sau thời gian làm việc mệt nhọc khi được tịnh dưỡng, nghỉ ngơi. Nhưng nếu để sự an nhàn kéo dài thái quá sẽ làm cho ta cảm thấy nhàm chán, dẫn đến tình trạng “nhàn quá sinh tật xấu”.
Một người nọ thường hay làm phước đặng mong cầu được ăn sung, mặc sướng, hưởng một cuộc đời ấm no, đầy đủ. Cả một đời người đó làm phước chỉ để cầu như vậy mà thôi, và cuối cùng nhân quả đã giúp cho anh toại nguyện. Sau khi chết đi anh ta được tái sinh vào một cung điện nguy nga, sang trọng. Một người chờ sẵn và bàn giao cung điện cho anh. Anh ta mừng quá liền nói, “tôi ở trần gian làm việc nhọc nhằn vất vả cả đời chỉ mong sao được sinh chỗ mới khỏi phải làm việc, chỉ ăn no rồi ngủ, ngủ dậy rồi ăn, không phải cử tay, động chân vất vả, đó là ước nguyện của tôi”. Người kia nói, “vậy là đúng theo sở cầu của anh rồi. Nơi đây, chúng tôi có đủ tất cả nhu cầu cần thiết ngài muốn gì cũng có, chỉ cần ngài khởi niệm muốn là có người phục vụ ngay. Nhà ở đây được xây theo kiểu biệt thự hiện đại, tiêu chuẩn 5 sao, giường nằm có hệ thống xoa bóp tự động, mọi tiện nghi đều được hài lòng, vừa ý”.
Thời gian đầu mới đến, anh ta ăn rồi ngủ, ngủ dậy rồi ăn, cảm thấy hạnh phúc và sung sướng vô cùng. Nhưng dần dần, anh cảm thấy cô đơn và buồn tủi, vì tối ngày chỉ biết sống hết ăn rồi ngủ chỉ có một mình. Riết rồi anh cảm thấy mệt mỏi chán chường, bởi ăn ngủ hoài nên bụng anh cứ bự ra rồi xệ xuống và đầu óc anh lú lẩn dần dần. Anh muốn tìm một việc làm cho khuây khỏa tâm hồn, nên anh tìm đến người kia yêu cầu. Người đó đáp, “chỗ của tôi chỉ dành riêng cho hạng người thích ăn và ngủ thôi, ngoài ra không thể đáp ứng nhu cầu khác được”.
Thời gian kéo dài và anh trở nên vô cùng khốn khổ. Cảm giác tù tùng, bực bội đến nỗi anh không còn chịu đựng được nữa. Vì bực quá nên anh thét lên một tiếng như trời long đất lở, “ tôi thà xuống địa ngục còn sướng hơn ở chỗ này”. Người kia đáp, “bộ anh tưởng nơi đây là thiên đường hay sao? Nơi đây chính là địa ngục trần gian, chỉ dành riêng cho những con người biếng nhác, thích ăn không ngồi rồi”. Lúc này, anh mới ngộ ra rằng, cuộc sống quá an nhàn dễ sinh ra nhàm chán, chỉ khiến mình càng khốn khổ, bức bách bởi bức tường vô minh mê muội, u ám che lấp. Tuy nó không phải nơi chứa đầy chông gai, núi đao, rừng kiếm hoặc chảo dầu sôi, nhưng nó làm cho tinh thần con người trở nên lú lẩn, mê muội theo thời gian và si dại vì thói quen ham ăn, mê ngủ.
Liên hệ đến cuộc sống thực tế, có một sinh vật cũng được con người nuôi dưỡng rất tử tế, đàng hoàng, chỉ lo ăn rồi ngủ mà thôi. Suốt ngày, chúng chỉ nằm một chỗ, trong cái lồng sắt vừa đủ nhúc nhích, cục qua cựa lại. Nhân vật đó chính là họ heo nhà ta. So với thời xưa, loài heo nếu nuôi nhanh lắm cũng phải 6 tháng, nhưng heo vẫn được đi lại thoải mái trong chuồng lớn, vẫn được đùa giỡn, vui chơi, ăn uống, giành giựt lẫn nhau. Chú nào hám ăn táp nghe phầm phập, mau mập, mau lớn thì mau nhanh được đưa vào lò mổ. Chú nào chậm chạp kém ăn, hay bệnh thì lại càng sớm đi hơn, vì để lâu chủ sợ bị lỗ. Ngày nay, công nghệ nuôi heo hiện đại hơn, nên thời gian rút ngắn chỉ khoảng chừng 3 tháng. Nhưng heo ta chỉ được nằm một chỗ, hết ăn rồi ngủ, ngủ rồi lại ăn, và sau 3 tháng lại bị đưa vào lò mổ thịt. Heo ta quả thật sung sướng làm sao, được ăn một thứ thức ăn siêu nạc, được con người chăm sóc tắm rữa kỹ càng, sạch sẽ ngày ba bữa, nên heo mau mập, lớn nhanh. Nhưng lớn nhanh, mập mạp để làm gì, cuối cùng chúng được đưa vô lò mổ, làm thức ăn phục vụ cho con người.
Tham ăn ngon và thích ngủ nhiều là một thói quen của người mê muội, một trong năm món dục lạc đức Phật thường xuyên khuyên nhủ hàng đệ tử chúng ta. Ăn quá nhiều, ăn trong vội vã, ăn đêm, ăn với sự thèm khát là những nguyên nhân gây nên bệnh béo phì, nhất là các chị em, phụ nữ trong thời hiện đại. Ai thích ăn ngon, ngủ nhiều thì chắc chắn trong tương lai sẽ được hài lòng vừa ý với kiếp sống mới đầyđủ sự an nhàn là làm loài heo công nghiệp.
Lười biếng là căn bệnh trầm kha của kẻ ăn không, ngồi rồi, chỉ muốn vui chơi, hưởng thụ cho riêng mình mà thôi. Hạng người này sẽ làm tổn hại kinh tế gia đình và làm thiệt thòi cho xã hội, vì không có tâm tư phục vụ, đóng góp cho ai. Sống an nhàn là thú vui của những kẻ chán ngán cuộc đời, vì thấy xã hội bất công, họ rút vào rừng để tìm sự an vui cho riêng mình. Bởi vì sao? Vì chính nơi phồn hoa, phố thị, cấp trên chỉ một bề nghe theo sự tâu dối của bọn gian thần, nhiễu loạn dân chúng, làm mọi người lầm than cơ cực. Chốn quan liêu là nơi tranh đua giành giựt, thuận theo thì tham quan hữu hóa, lợi dụng quyền hạn để cùng nhau thao túng lấy bớt của dân. Người có chút nhân cách sống cảm thấy hổ thẹn, buồn tủi nên rút lui để khỏi làm ô uế tâm sáng suốt, thanh tịnh, mà chấp nhận sống đời đạm bạc giản đơn.
Cho nên, dân gian có câu: Khôn cũng chết, dại cũng chết, chỉ có biết khôn khéo từ chối, rút lui, mới có thể không rơi vào hố sâu tội lỗi. Ta thà sống đơn giản, đạm bạc mà vui cùng chân lý, chứ không vì cửa rộng, nhà cao, tiền bạc dồi dào mà làm mất hết phẩm chất nhân cách đạo đức của mình. Nhưng có mấy ai thấu suốt điều này mà vượt khỏi dòng đời nghiệt ngã. Chúng sinh vì tham đắm, mê muội, lầm chấp thân này là thật ta và của ta, mà tìm cách chiếm đoạt, bóc lột tha nhân dưới mọi hình thức.
Ngày xưa, một chú ngựa con hằng ngày theo mẹ cùng chuyên chở đồ vật qua lại cho loài người. Chúng làm việc vất vả mà thức ăn chính chỉ toàn là cỏ khô, cỏ dại. Một hôm, chú ngựa con vô tình nghe được một mùi thức ăn thơm ngon hấp dẫn. Mùi thơm đó khiến chú thèm thuồng, khao khát mà lần theo mùi vị thì đến một trang trại nuôi heo. Tại đây, bọn heo được loài người cho ăn một thứ lúa mạch rang bơ thơm ngon đáo để. Cả bầy heo ăn rất ngon lành, táp nghe phầm phập, thoáng một chốc là hết thức ăn trong máng. Tiếp đến, chúng nằm phè ra, đánh một giấc ngon lành say sưa, trong có vẻ nhàn hạ. Ngựa con mủi lòng khóc ra nước mắt mà tiếc cho kiếp ngựa sao khó khăn, khốn khổ đến thế này. Cả một đời, tối ngày chỉ biết kéo xe chở người khắp nơi, mà thức ăn chỉ toàn là cỏ khô, cỏ úa. Nó vội vàng chạy về, tìm hỏi ngựa mẹ nguyên do vì sao lại có sự bất công đến như vậy. Ngựa mẹ nói, “con cứ yên tâm, một thời gian sau con sẽ hiểu thôi. Tuy loài ngựa chúng ta có vất vả, nhọc nhằn một chút, nhưng mà ta vẫn giúp được loài người thuận tiện đi lại dễ dàng, nhanh chóng, lại giúp loài người vận chuyển hàng hóa phục vụ tiêu dùng. Con có thể thấy loài ngựa dường như quá thiệt thòi hơn loài heo kia, và thức ăn của ta tuy đơn sơ, đạm bạc, nhưng tinh khiết, trong sạch. Do đó, ta có sức khỏe để đóng góp và phục vụ lợi ích cho loài người”.
Chú ngựa con tuy nghe mẹ nói như vậy, nhưng trong lòng vẫn còn ấm ức, nên sinh ra phiền muộn, khổ đau vì tâm so đo, tính toán. Rồi một hôm, chú nghe tiếng heo kêu la thảm thiết, giọng điệu như van xin, cầu cứu, thất thanh gần như tuyệt vọng. Để thỏa mãn tính tò mò, ngựa con liền chạy một mạch tới xem. Một cảnh tượng quá hãi hùng đang phơi bày trước mắt. Loài người trói gô các con heo lại, nấu nồi nước sôi to đùng, rồi sau đó chế thẳng vào mình con heo từ đầu cho đến đuôi. Người thì cạo lông, kẻ thì mổ bụng. Trong chớp nhoáng, con heo bị chặt ra làm nhiều mảnh và được đưa dần lên xe chở đi. Giờ đây, chú ngựa con mới biết được nguyên nhân rõ ràng, và thở phào nhẹ nhõm, an tâm vui vẻ chấp nhận công việc hằng ngày của mình.
Sở thích tham muốn, hưởng thụ nhiều là tâm tư của những người thiếu hiểu biết vì ngu si mê muội. Họ chẳng bao giờ tin sâu nhân quả, vì nghĩ rằng chết là hết, nên hiện đời lao vào các cuộc vui chơi thấp hèn, làm mất đi phẩm chất đạo đức. Kẻ si mê ham vui trong chốc lát mà chịu khổ đau ngàn đời, đó là thói quen thâm căn cố đế của kẻ lười biếng ăn không ngồi rồi. Họ có thói quen tham hưởng thụ quá đáng, nên không bao giờ có được một tương lai tốt đẹp. Những kẻ lười biếng muốn làm ít nhưng lại tham hưởng nhiều, thích dựa dẫm, và mong cầu sự giúp đỡ của người khác, nên thường sống ỷ lại vào gia đình, người thân. Họ hay cầu sự may mắn từ bên ngoài, vì tâm biếng nhác không nỗ lực hoàn thiện chính mình. Hạng người này hay lánh nặng, tìm nhẹ, vì mang cục nhớt trên lưng quá lớn. Họ không dám thức khuya, dậy sớm, hay chịu khó dầm mưa, dãi nắng để lao động góp phúc lợi cho cuộc đời. Những kẻ này thường lại hay nói khoát lác, nói chuyện trên trời mà việc dưới đất cũng chẳng làm được, sống như vậy chẳng khác nào mang thân người nhưng còn thua cả loài súc sinh, ngu độn.
Việc được sẻ chia, nâng đỡ đôi khi cũng cần thiết, nhưng ta không nên ỷ lại, dựa mãi vào đó, mà đánh mất đi khả năng làm việc luôn tiềm ẩn nơi mình. Một người thiếu thốn khó khăn muốn vươn lên vượt qua hiểm nghèo, thì luôn cần một cần câu để câu những con cá. Ta không thể trông chờ vào sự giúp đỡ của người khác mãi, mà cần phải nỗ lực siêng năng, tinh cần chịu khó, chịu khổ mới có khả năng thay đổi cuộc đời. Sự chăm chỉ, cần cù siêng năng không sớm thì chày sẽ dẫn đến thành công ở một ngày không xa. Người có thói quen thích ăn không ngồi rồi, suốt ngày cứ vùi mình trong giấc ngủ thì tâm trí lúc nào cũng mờ mờ, mit mịt, trở nên lú lẫn, chán ngán cuộc đời, vì sự buông lung vô độ, để thời gian trôi qua vô ích.
Siêng năng làm việc để phục vụ vì lợi ích tha nhân là công hạnh của các vị Bồ tát, nhất là Bồ tát Quán Thế Âm với chí nguyện độ sanh không mệt mỏi, không biết nhàm chán luôn sống vì người và làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Bồ tát đi vào đời với 32 ứng thân, hòa nhập vào cộng đồng, xã hội, làm việc nghĩa, việc ích dưới mọi hình thức. Bồ tát sẵn sàng chịu khổ thay cho tất cả chúng sinh không một lời than oán, như mẹ hiền thương con chỉ một lòng lo lắng, đáp ứng mọi nhu cầu cần thiết.
Kẻ lười biếng vì đam mê hưởng thụ mà đánh mất dần nhân cách, phẩm chất con người, dễ dính vào vòng tệ nạn xã hội. Nếu có nhiều phước báu thì cũng đọa vào loài heo để sống kiếp súc sinh chịu ngu si, mê muội. Người trí, kẻ ngu khác nhau ở chỗ là biết nhận thức sáng suốt ngay nơi tâm niệm sống an vui, hạnh phúc hay chịu sa đọa, khổ đau. Ai làm người cũng hãy nên một lần chính chắn suy nghĩ, làm việc giúp ta cân bằng sự sống, thoải mái tâm hồn mà cùng nhau góp phần an sinh xã hội cho được vuông tròn, tốt đẹp.
VƯỢT QUA CHÍNH MÌNH
Một người cụt tay đến xin ăn tại một nhà nọ. Cô chủ nhân không mở rộng tấm lòng mà còn nhờ người bê đống gạch ra phía sau nhà. Kẻ ăn xin tức giận nói, “bộ bà không thấy tôi cụt một tay hả, làm sao rinh gạch cho bà được? Tôi đang cần miếng ăn sao bà lại bảo tôi khiêng gạch”. Bà nói, “nếu anh chịu khiêng ta sẽ trả công cho anh, có tiền anh muốn ăn gì chả được”. Thế là bà ta dùng một tay bê gạch, rồi nói đâu nhất thiết có hai tay mới làm được, “ta làm được, sao ngươi chẳng làm được”. Kẻ ăn xin bất đắc dĩ phải làm việc đó, anh ta hì hạch mãi gần hai tiếng đồng hồ mới chuyển xong đóng gạch. Thân thể mệt lã, mồ hôi ướt đẫm, mặt mày bơ phờ bám đầy bụi gạch. Bà chủ nhà liền đưa cho anh một cái khăn sạch và anh ta lau kỹ mặt mày, đầu cổ, thoáng chốc khăn trắng đã trở thành đen dơ. Sau đó bà đưa cho anh 100 đồng. Kẻ ăn xin nhận tiền rồi cám ơn rối rít. Bà già nói, “ngươi khỏi phải cám ơn ta, vì đó là tiền công kiếm được bằng chính sức lao động của ngươi mà”. Kẻ ăn xin nói, “bà là vị cứu tinh của đời tôi, bấy lâu nay tôi lầm lẫn quá lớn, tôi rất biết ơn bà, ơn này tôi xin khắc cốt ghi tâm và xin hẹn gặp bà trong một thời gian gần đây”.
Mười năm sau, một người đàn ông đi trên chiếc xe hơi sang trọng, tài xế lái dừng xe trước cửa nhà bà. Người chủ bước xuống xe với phong thái lịch sự, nhưng người này lại chỉ có một tay. Anh ta mừng rỡ cúi đầu chào bà một cách cung kính, rồi dùng tay níu lấy bà và cảm kích nói, “ngày xưa, nếu con không gặp bà thì con vẫn là tên ăn mày khốn khổ. Những viên gạch của bà đã giúp con thay đổi cuộc đời bằng sự tự lực vươn lên, dù con chỉ còn một tay, nhưng với khối óc biết học hỏi, tìm tòi, sáng tạo, giờ đây con đã thành đạt với cương vị là chủ tịch một công ty lớn”.
Người đàn bà ờ lên một tiếng, “à, ta nhớ rồi, chính cậu là kẻ ăn mày khi xưa được ta nhờ khiêng gạch bằng một tay gần mười năm về trước. Nhưng đó là do sự kiên trì, siêng năng, tinh cần, cố gắng của bản thân cậu, chứ ta chỉ giúp cậu thêm ý chí, nghị lực và sức mạnh làm chủ bản thân trong cuộc sống mà thôi. Xin chân thành chúc mừng sự thành đạt của cậu!”
Vị chủ tịch một tay này là người sống có ơn, có nghĩa. Vì biết ơn người đã giúp mình vượt qua mặc cảm tự ti mà vươn lên vượt qua cuộc sống hiểm nghèo. Cậu ta nhớ lại mười năm về trước, nếu không gặp bà thì anh làm gì có được sự nghiệp như ngày hôm nay. Nhớ ơn xưa nên anh muốn tặng cho bà một số tiền lớn để nuôi dưỡng bà hết quãng đời còn lại. Bà già nói, “tôi không dám nhận số tiền quá lớn từ tấm lòng của anh, anh hãy dùng số tiền đó đễ giúp đỡ những người bất hạnh không còn phương tiện sinh sống thì vẫn tốt hơn”. Vị chủ tịch một tay cứ nài nĩ hoài.
Bà nói:
_ Tôi bây giờ còn đủ cả hai bàn tay và một khối óc.
Vị chủ tịch đau lòng nói mà hai hàng lệ rơi.
_ Dạ thưa bà, con nhờ bà đã giúp cho con biết thế nào là một con người sống có nhân cách và lòng tự trọng. Ngày nay, con được thành đạt như vầy cũng là nhờ vào sự chỉ dạy của bà năm xưa.
_ Vậy thì bây giờ, anh hãy nên lấy số tiền đó để thành lập một trung tâm nhân đạo giúp người bất hạnh và cô độc đi.
Biết ơn và tự lực vươn lên trong cuộc sống là mục tiêu lý tưởng để giúp cho mọi người tự hoàn thiện chính mình. Ta nỗ lực siêng năng tinh cần không ỷ lại vào sự nghiệp của người khác, cố gắng phấn đấu vượt qua và vươn lên để chính mình tìm ra được lý tưởng sống, có cơ hội đóng góp cho gia đình và phục vụ tốt cho xã hội. Khi ta còn nhỏ dại, nhờ công ơn nuôi nấng của cha mẹ, lúc lớn lên ta phải biết sáng suốt chọn cho mình một việc làm chân chánh, khi thành đạt thì ta phải nhớ biết công lao, khổ nhọc của nhiều người. Thứ nhất là ơn cha mẹ, thứ hai là ơn thầy tổ, thứ ba là ơn thầy dạy nghề, và thứ tư là ơn đất nước. Biết ơn và đền ơn là đạo lý uống nước nhớ nguồn, ăn trái nhớ kẻ trồng cây, là đạo gốc của dân tộc Việt Nam từ mấy ngàn năm văn hiến. Đó là một truyền thống tốt đẹp của dòng giống con rồng cháu tiên.
Trong cuộc sống, chúng ta làm việc cũng giống như quả bóng bằng cao su, khi rơi xuống đất nó sẽ tưng lên. Chính vì thế, ta có thể thay đổi nghề nghiệp sao cho phù hợp với hoàn cảnh hiện tại. Gia đình, sức khỏe, bạn bè và tinh thần, lại được ví như những quả bóng bằng thủy tinh, nếu lỡ tay đánh rơi thì chúng sẽ trầy trụa, bị nứt, bị hư hoặc bị vỡ nát. Khi đó, ta khó mà hàn gắn và sửa chữa lại được.
Cũng vậy, khi ta không biết giữ gìn sức khỏe mà lao vào những thú chơi vô ích, thức suốt sáng thâu đêm để cờ bạc, rượu chè, hút chích, đàn điếm mà lãng phí thời gian một cách vô tích sự. Ai đã lỡ vướng vào vòng này thì thân tàn ma dại, sống thì làm khổ gia đình người thân, chết thì bị đọa lạc vào ba đường dữ, chịu khổ báo vô số kiếp không có ngày cùng. Đến khi trở lại làm người thì thân thể xấu xí, đen đúa, bệnh tật, cô đơn, không người nuôi dưỡng. Gia đình là tổ ấm để chúng ta nương tựa, là nền tảng vững chắc nhằm phát triển một xã hội tốt đẹp. Một con người tốt, một gia đình đạo đức, một xóm làng sống có nghĩa tình, biết thương yêu đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau, thì thế gian này sẽ là thiên đường hạnh phúc.
Ngược lại, nếu ta sống không hiếu thuận với ông bà cha mẹ, không biết kính trên nhường dưới, vợ chồng không biết thông cảm và tha thứ cho nhau, không biết nuôi dạy con cái làm điều thiện lành tốt đẹp, không biết sống có chừng mực đạo đức, “muốn ít biết đủ”, thì ta sẽ dễ dàng bị tha hóa, sa đọa, mà bị dòng đời cuốn trôi. Một khi con người đã sống thiếu hiểu biết thì rất nguy hại cho gia đình, xã hội, tình cha nghĩa mẹ không còn, tình chồng vợ cũng bị phôi phai, chia lìa, con cái cũng bị ảnh hưởng mà không có chỗ tựa nương.
Nói chung, một con người hư hại làm khổ lụy bao nhiêu người thân và làm xã hội thêm nhiều gánh nặng. Nhiều người dính vào tệ nạn xã hội dẫn đến trộm cướp, lường gạt, giết hại lẫn nhau. Có tệ nạn xã hội, có phạm pháp thì phải có chỗ dung chứa tội nhân, nên cứ thế con người mãi nghèo nàn, lạc hậu và trình trạng đạo đức, nhân phẩm con người càng bị xuống cấp trầm trọng. Đó là nỗi đau chung cả nhân loại phải gánh lấy, dần rồi tình người không còn nữa và con người dễ dàng sống trong vô cảm. Chính chủ nghĩa tiêu thụ vật chất quá lừng lẫy làm con người mỗi lúc mỗi xa rời nhau, bởi thời gian ngồi lại bên nhau tâm tình, sẻ chia không có. Gia đình là nền tảng của xã hội, vậy mà ba thế hệ ông bà, cha mẹ, con cái không có cơ hội để sống yêu thương, hiểu biết. Xã hội càng nghèo nàn lạc hậu thì con người càng mê tín, mù mờ, càng sống theo chủ nghĩa tiêu thụ vật chất nên tình người dần rồi không còn nữa.
Chính vì vậy mà Phật dạy ta phải “muốn ít biết đủ” để có cơ hội cùng giúp đỡ sẻ chia, mà cùng cảm thông nỗi đau của người khác. Cái gì cần xài ta mới xài, để có dư chút đỉnh mà mở rộng tấm lòng, với tinh thần lá lành đùm lá rách. Khi đau yếu, bệnh hoạn, ta mới thấy sức khỏe là quý. Khi sa cơ, thất thế, ta mới thấy tình người là quan trọng. Vậy mà đa số con người chỉ biết sống vì tiền bạc, tài sản, vật chất mà đành lòng giết hại lẫn nhau.
Thế giới này là một vòng lẩn quẫn của sự hơn thua, phải quấy, tốt xấu, nên hư, thành bại. Ta cứ mãi tranh giành các thứ vật chất vô tri phù phiếm xa hoa, mà làm mất đi tình nghĩa của một con người. Vật chất là vô tri, con người là hiểu biết, là tri giác, con người là nền tảng của gia đình và xã hội. Do đó, ta cần sự yêu thương bằng trái tim hiểu biết, biết cảm thông và tha thứ, biết khoan dung và độ lượng, nhưng ta lại mặc tình làm ngơ, dửng dưng, lạnh lùng, vô cảm.
Thế giới này sở dĩ xây dựng mở mang phát triển cũng chỉ nhằm mục đích phục vụ lợi ích con người, ấy thế mà có mấy ai có được tấm lòng rộng mở vì tha nhân? Phật dạy, “trong bầu vũ trụ bao la này, từ con người cho đến muôn loài, muôn vật đều phải nương nhờ lẫn nhau mới bảo tồn mạng sống”. Ta không làm ruộng nhưng vẫn có cơm ăn, kẻ thiếu phước thì phải cày sâu cuốc bẩm, phơi mình trong nắng mưa vậy mà đôi khi vẫn bị thiếu ăn. Ta không nuôi tằm, dệt vải, nhưng vẫn có áo quần và ta cứ như thế mà có đủ các thứ phục vụ nhu cầu cần thiết trong đời sống hằng ngày. Sức khỏe của ta và những người thân yêu nếu để mất đi thì khó tìm lại được. Bạn bè cũng rất quan trọng trong cuộc sống hằng ngày, nó là nhịp cầu nối kết để cùng nhau chia vui, sớt khổ. Có gia đình, có bè bạn, có sức khỏe, ta có thể sống vui, sống khỏe mà cùng nhau gầy dựng sự nghiệp giống nòi nhân loại. Tinh thần lại càng quan trọng hơn hết, ta có hiểu biết, ta có nhận thức sáng suốt, nên biết tiếp nhận những thứ gì cần thiết.
Nhờ vậy, ta sống có định tĩnh chừng mực nên khi được lợi lộc ta không vì nó mà tham đắm, mê mờ. Ngược lại, khi bị mất mát ta cũng không quá sầu bi, khổ não, do đó ít bị hai thứ được mất, hơn thua làm tổn hại tinh thần, nhờ ta thường xuyên biết quay lại chính mình mà thân tâm luôn được an ổn.
Tóm lại, ta muốn thành đạt trong cuộc sống thì trước tiên phải có ý chí và nghị lực, biết tranh thủ tận dụng hoàn cảnh sống của mình vì ta có hai bàn tay và khối óc. Như anh ăn mày cụt tay kia, nếu không được bà già cho một liều thuốc bổ tự lực cánh sinh, thì chắc có lẽ anh sẽ chịu chết chìm trong cuộc đời bần cùng, đói rách. Lần đầu tiên rinh gạch một tay gần hai tiếng đồng hồ, anh chắc phải chịu nhức mỏi, ê ẩm cả người. Nhờ vậy, anh học được cách thức làm người “sống phải có lòng tự trọng”.
Khi còn nhỏ dại, ta đương nhiên phải nương nhờ vào sự giúp đỡ của cha mẹ. Nhưng nếu bất hạnh, ta không có người thân thì sao? Ta vẫn phải chấp nhận một mình đơn độc, tự mình bươn chải, để làm sao có miếng ăn mà tồn tại với đời. Cũng như có hai đứa bé một con nhà giàu, một con nhà nghèo. Đứa con nhà giàu khi bị té ngã sẽ khóc thét lên, chờ cha mẹ đỡ dậy. Cha mẹ vì thương con nên mọi cái đều đỡ đần chu đáo khiến đứa trẻ trở nên ỷ lại, cái gì cũng đều trông chờ người khác. Ngược lại, đứa trẻ con nhà nghèo khi bị té ngã không có ai nâng đỡ, nó không khóc ré như đứa con nhà giàu, mà tự đứng lên tiếp tục bước đi.
Cũng vậy, ai biết nỗ lực, siêng năng, tinh cần học hỏi, quyết chí vươn lên sống không ỷ lại nhờ vã người khác, thì người này nếu đầy đủ phước báu sẽ thành tựu trong nay mai mà vững vàng đi tới, không chịu khuất phục bởi một áp lực nào. Người Phật tử chân chính khi đến với đạo pháp, ban đầu phải nhờ vào tha lực, nhờ sự hướng dẫn của quý Thầy Cô, đến khi hiểu biết rồi phải tự mình thắp đuốc lên mà đi, hành trì theo chánh Pháp. Chính vì vậy, Lục Tổ Huệ Năng nói, “Khi mê thì Thầy độ - Khi ngộ thì tự độ”.
Nhiều người chỉ hiểu biết suông nên lúc nào cũng van xin cầu cạnh người khác, cứ nghĩ rằng trời Phật sẽ ban ơn hay gia hộ cho mình, nên đành chấp nhận cuộc sống như bèo dạt, mây trôi. Họ chẳng biết suy nghĩ, tìm tòi nghĩa lý sự thật của cuộc đời, thấy ai làm sao thì mình làm vậy mà không biết đúng sai, phải trái. Tuy nhiên, sự sống này ta vẫn cần “tha lực”. Khi chưa có hiểu biết hay đủ khả năng, ta vẫn cần sự trợ giúp của người khác. Khi đã biết rồi thì chính ta phải tự lực vươn lên. Chính vì vậy mà Phật thường nói, “ta chỉ là người Thầy dẫn đường, còn có chịu tu hay không là do ý chí và nghị lực của mọi người”. Tha lực tuy rất cần thiết cho con người bước đầu vượt qua khó khăn, thử thách nhưng nếu muốn đạt được thành công viên mãn thì ta phải tự lực vươn lên bằng chính đôi bàn tay và khối óc của mình.
CHỌN NGƯỜI HỢP TÁC
Có một người kinh doanh rất thành đạt ở nước ngoài, ông ta muốn mở chi nhánh ở quê nhà, nhưng việc chọn người quản lý điều hành công việc quả thật khó khăn. Cuối cùng, ông chọn được hai người và từ đó lựa ra một người cùng hợp tác với mình, đồng thời giao cho người đó quản lý công việc đầu tư trong nước.
Cách thức chọn người của ông cực kỳ đơn giản. Một trong hai người chỉ cần đấu cờ với ông, nếu như chiến thắng sẽ được ông chọn làm người quản lý. Hai người này cũng là cao thủ trong làng cờ. Người thứ nhất chơi với ông trước. Mặc dù cố gắng hết sức nhưng anh ta không tài nào thắng nổi. Cuối cùng, đành chịu thua vì chủ nhân quá giỏi. Người thứ hai rất giỏi đánh cờ nên hai bên bất phân thắng bại. Thời gian phải kéo dài suốt cả buổi. Tận dụng lúc chủ nhân bàn cờ bận đi vệ sinh, người thứ hai liền đổi vị trí một quân cờ. Hành động này vị chủ nhân biết rõ. Nhờ tráo một con cờ nên người thứ hai cuối cùng đã thắng, anh ta mừng thầm vì chắc rằng mình sẽ là người được chọn. Ai cũng đinh ninh là người thứ hai được mời làm việc, nhưng không ngờ ông chủ nhất quyết chọn người thứ nhất. Người thứ hai mới bất bình lên tiếng, “tại sao ông không giữ đúng hợp đồng đã định”.
Ông chủ nói, “anh hãy bình tĩnh. Người thứ nhất tuy đánh cờ thua ta, nhưng anh ta thành thật, không có ý gian lận, dù anh ấy biết sẽ là người thua cuộc. Ta rất cần người quản lý như thế. Còn anh tuy thắng ta, nhưng anh không trung thực, anh đã tráo cờ khi ta đi ra ngoài, hành động đó nói lên sự gian dối, qua mặt của anh. Nếu ta hợp tác cùng anh, chắc có ngày ta tán gia bại sản. Đó chỉ là một ván cờ mà anh còn như thế. Trong thực tế, ta làm sao mà quản lý anh được. Thôi, anh hãy cảm thông chọn một nơi khác để mà hợp tác”.
Chỉ một ván cờ thôi, người thành đạt kia đã tìm được người hợp tác lâu dài. Sống ở đời, có người thăng quan tiến chức lên như diều gặp gió, sự nghiệp công thành danh toại, hanh thông. Điều này không phải tự nhiên mà có. Mọi thứ trên đời đều có nguyên nhân sâu xa, ta không lường hết được. Định luật nhân quả công bằng, bình đẳng, chi phối tất cả, không thiên vị một ai. Ta có thể qua mặt được người khác, qua mặt được luật pháp, nhưng không thể nào qua mặt được chính mình. Ta làm đúng ta biết, ta làm sai ta biết, ta điêu ngoa tráo trở như thế nào ta cũng biết, cớ sao ta lại gian dối mọi người để làm gì? Vì lòng tham muốn quá đáng, vì sự ích kỷ chính mình mà ta nỡ đành lòng hủy diệt lẫn nhau không thương tiếc. Từ một ván cờ, người chủ thành đạt đã tìm được người quản lý, chỉ đơn giản vậy thôi. Thành thật, không gian dối là một đức tính cao quý để làm nên nhân cách một con người.
Đó là ván cờ cuộc đời làm người mà chúng ta ai cũng phải đem hết tài năng thi thố. Quản lý kinh tế, phục vụ cho đất nước, cần phải chọn một bậc hiền tài, sống gương mẫu, đạo đức mới khả dĩ giúp ích được nhiều người. Bằng ngược lại, tài sản nhân dân sẽ bị kẻ trên tham quan hữu quá, kẻ dưới lạm dụng bê tha, sa đọa, lãng phí của công, báo cáo khống, rồi khéo léo thủ đoạn nhằm che mắt thiên hạ. Xã hội nào có ý thức dân chủ cao thì nạn lạm phát thất thoát tiền bạc của công sẽ ít, vì điều luật ban hành pháp được giám sát kỹ càng. Cho nên, chọn người quản lý trước nhất phải có tấm lòng vì dân, vì nước, vì sự an vui, hạnh phúc của nhiều người.
Con người vì tham muốn cho riêng mình, và sợ bị người khác ghét bỏ, nên hay sống giả dối để lấy được lòng người. Ta thà không được lòng người nhưng quyết không để thói quen gian dối, xu nịnh, xâm chiếm tâm hồn ta. Cuộc sống này đôi khi ta cần khôn ngoan khéo léo, tìm cách che đậy, bưng bít những xấu xa, đê tiện, nhưng rốt cuộc sự thật vẫn là sự thật.
Trong quan hệ hợp tác làm ăn, ta cần người thật thà, chất phát. Khi có được con người như vậy, mình khỏi cần phải lo lắng nghi ngờ, luôn an tâm làm việc để phục vụ tha nhân. Phật thấy rõ sự gian dối lường gạt là nguyên nhân suy đồi nhân cách, làm tổn thất thiệt hại nặng nề cho nhân loại, nên Phật vì lòng từ bi chế ra giới “không gian tham, trộm cướp của người” để giữ gìn, bảo vệ tài sản chung. Dối gạt, gian tham, trộm cướp là thói quen xấu làm khổ đau nhân loại. Người nắm cán cân công lý nếu không vâng theo lời Phật chỉ dạy, tin sâu nhân quả, thì có nguy cơ làm thiệt hại tài sản chung của nhân loại. Họ sẽ lợi dụng quyền cao, chức trọng để tước đoạt tài sản của chung một cách khéo léo, tài tình.
Thường thì mục đích nói dối để che dấu tội lỗi hay lường gạt người khác là tâm xấu ác, có tính cách làm tổn hại cho nhau. Nếu ta hợp tác với hạng người này, không chóng thì chày, trước sau gì cũng tán gia bại sản. Chủ nhân kia đã từng trải nghiệm trong cuộc sống ở nước ngoài, nên đã thành đạt vì đó là cách giúp ông tồn tại trong lĩnh vực kinh doanh. Ngoài ra, trong các mối quan hệ khác cũng cần có thành thật, nhờ vậy ta mới có tinh thần thương yêu, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau mà không sợ tổn thất, thiệt hại về mọi mặt. Một doanh nghiệp muốn thành công trước hết phải có khả năng quản lý điều hành, sau biết chọn lựa đúng người, đúng việc. Người quản lý cần phải có tấm lòng trung thực, siêng năng, cần mẫn. Việc biết chọn lựa và sử dụng nhân lực hợp lý, tạo nên sự no cơm, ấm áo cho tất cả mọi người, góp phần kiến tạo xã hội, xây dựng, phát triển đất nước ngày càng thêm lớn mạnh.
RÈN LUYỆN NHÂN CÁCH
Việc nuôi dạy con cái không đúng cách sẽ làm hư hỏng cuộc đời của chúng. Nếu ta quá cưng yêu, chiều chuộng, thì đứa con đó sau này lớn lên chẳng làm nên tích sự gì, bởi tính lười biếng, ỷ lại gia đình, người thân. Giáo dục là nền tảng cơ bản giúp con người tự hoàn thiện chính mình, làm tròn bổn phận đối với gia đình và phục vụ tốt cho xã hội.
Có hai người cùng trồng cây dương trên vùng đất cát, khô cằn. Một người siêng năng tưới cây mỗi ngày dù cho trời mới vừa trổ mưa. Người kia thì cứ tà tà, ban đầu chăm sóc rất kỹ, càng về sau thì hạn chế dần sự tưới tẩm cho cây, nếu thấy cây nào bị ngã thì tiện tay anh mới đỡ lên. Trong hai người này, một người thì quá siêng năng tưới tẩm, một người thì chỉ tưới lúc ban đầu cho cây đủ sức, sau lại hạn chế chăm sóc, dưỡng trồng. Thời gian trôi qua gần ba năm, những cây dương đều đã lớn bằng bắp chân con người. Mọi người nhìn thấy rừng cây của anh chăm tưới thường xuyên xanh tươi, đều đặn hơn. Như chứng minh sự vững vàng giữa hai cách trồng, bỗng dưng giông tố đêm đó kéo đến, rồi mưa to gió lớn liên hồi cả đêm.
Sáng hôm sau, hai người ra xem cây trồng của mình ra sao? Phía rừng cây của người siêng tưới bị gãy cành, tróc gốc, ngã đổ, nằm nghiêng, sóng soài trên đất. Ngược lại, rừng cây của anh chăm sóc lơ là chỉ bị gãy cành, rụng lá, chẳng có cây nào bị mưa quật ngã.
Ai cũng ngạc nhiên lấy làm khó chịu vì có chuyện lạ đời như vậy. Sở dĩ cây của anh bị ngã đổ nhiều là do anh siêng năng tưới và bón phân nhiều quá. Thật ra, trồng cây cũng như giáo dục con người. Nếu cha mẹ lo cho con cái quá đầy đủ mọi nhu cầu cần thiết sẽ tập cho con quen tính lười biếng và sống ỷ lại vào gia đình nhiều hơn. Cho nên, những đứa con như vậy không bao giờ thành đạt trong đời, vì căn bệnh biếng nhác ỷ lại. Đây là sự thật dẫn đến một số người có quyền cao chức trọng, mà không có khả năng thật sự để đảm đương công việc. Vì sao? Vì họ chỉ mua bằng cấp, hoặc và nhờ vào thế lực của người thân. Cha mẹ nào lại chẳng thương con, nếuđể cho chúng muốn gì được nấy mà các bậc cha mẹ không cần tìm hiểu nguyên nhân thì e rằng đứa con đó sau này lớn lên chẳng làm nên tích sự gì. Nếu có thì cũng chỉ làm khổ mọi người mà thôi.
Có chàng trai nọ phát giác ra một kén bướm. Một hôm, anh thấy cái kén hé một lỗ nhỏ. Động lòng hiếu kỳ, anh ta chăm chú xem chú bướm nhỏ làm cách nào để thoát ra cái lỗ nhỏ đó. Vậy mà, đã hơn một buổi, chú bướm vẫn không đủ sức thoát ra dù đã cố gắng thật nhiều. Anh ta tự suy nghĩ khi nó chui ra khỏi cái kén chật hẹp này, chắc nó sẽ mừng lắm, nó sẽ tung bay khắp bầu trời đầy hoa thơm, cỏ lạ để thưởng thức những hương vị ngọt ngào của cuộc sống. Anh ta cảm thấy hạnh phúc tràn đầy khi giúp cho chú bướm sớm thoát ra. Nghĩ vậy, anh dùng kéo rạch cho cái lỗ lớn hơn. Nhờ vậy, chú bướm dễ dàng thoát ra khỏi cái kén trong chớp nhoáng. Nhưng nghiệt ngã thay, nó chỉ là thân nhộng trần trụi với đôi cánh bèo nhèo, bị quắp lại bởi sự nhăn nhúm của nó. Bây giờ, chú bướm nhỏ không còn đủ khả năng để xòe rộng đôi cánh mà bay dạo khắp nơi. Thế là cuộc đời chú bướm phải chịu thân tàn ma dại, vì mất đi năng lực của đôi cánh, để chịu kiếp bò loanh quanh, lẩn quẫn trong tối tăm mờ mịt.
Cũng vậy, trong cuộc sống, nếu ta quen ăn sung, mặc sướng, sống ỷ lại nhờ vã vào người khác mà ta không tự nổ lực hoàn thiện chính mình, thì ta sẽ chịu chết chìm trong si mê, sa đọa. Ta đã chấp nhận đánh mất đi sức mạnh vô song đang tiềm ẩn bên mình. Thường thì những cây nằm cheo leo bên bờ vực thẳm khi đã sống được thì khó mà bị phong ba, bão táp quật ngã. Bởi vì khi muốn tồn tại thì rễ của chúng phải phải bám sâu vào lòng đất. Con người cũng vậy, phải chịu khó rèn luyện từ khi có hiểu biết, ai gian nan vất vả từ tấm bé, sống có tinh thần tự lập nhiều hơn thì bất cứ hoàn cảnh nào, dù khắc nghiệt tới đâu họ cũng vươn lên, vượt qua cạm bẫy cuộc đời.
Hình ảnh chú bướm nhỏ được người giúp thoát ra khỏi cái kén quá sớm, nên nó mất hết năng lực chịu đựng bền bỉ để làm quen với cuộc sống. Thế rồi đành cam chịu số phận hẩm hiu mà sống đời tàn phế trong đêm tối vô minh. Ai sống ỷ lại, nhờ vã vào người khác mà không chịu siêng năng học hỏi, không chịu sống đời tự lập, kẻ đó khó mà làm nên sự nghiệp và có một tương lai tốt đẹp. Đa phần, những con người như thế đều dính vào vòng tệ nạn xã hội. Nếu không phải là kẻ phạm pháp, thì cũng là kẻ ăn không ngồi rồi. Người này hoàn toàn không có tâm chí thú làm ăn, nên lúc nào cũng ỷ lại vào gia đình, người thân. Phần lớn đều là con nhà khá giả sống nhờ vào đồng tiền bất chính của gia đình, nên quả báo phải trả là con cái bất hiếu và tán gia bại sản. Bởi đồng tiền mình làm ra không chân chính, sẽ vô cửa trước, lòn cửa sau, cùng nhau chịu chung số phận khổ đau vì gia đình không có hạnh phúc.
Làm bậc cha mẹ thương con không đúng cách đã vô tình hại con mình. Từ nhỏ, chúng đã có thói quen ỷ lại, lớn lên chúng bê tha sa đọa cùng bạn bè xấu, hoặc chứng tỏ đẳng cấp nhà giàu chơi sang lấy tiếng. Cây còn nhỏ không khéo uốn nắn, thì lớn dễ gãy cành. Cho nên, làm cha mẹ phải dạy con mình biết quý tiếc thời gian, sống tự lập không ỷ lại vào người khác. Nếu con cái lỡ vấp ngã một lần, ta có thể tự tay đỡ dậy, hay hỗ trợ cho nó đứng dậy. Nhưng đến những lần vấp khác, ta phải chỉ cho chúng cách thức đứng dậy bằng tự lực bản thân. Như trên, chúng ta đã thấy cách thức trồng cây. Cây xum xê ra nhiều cành nhánh thì dễ bị bão táp phong ba quật ngã, do rễ của nó không bám sâu vào lòng đất.
Trồng người lại càng khó hơn, bởi chúng ta có nhiều mối quan hệ tương giao trong cuộc sống, quan hệ gia đình, quan hệ học đường, quan hệ bạn bè, quan hệ xã hội. Nếu để các em tự do quá đáng trong giao tiếp mà không có sự kiểm tra nhắc nhở của cha mẹ, thì ta vô tình đưa con mình vào chỗ khốn cùng. Cho nên, “dạy con từ thuở còn thơ” có nghĩa là cha mẹ khéo sắp xếp, uốn nắn, chỉ dạy. Khi thấy con trẻ tự tay giết hại các loài vật vô lý, thì ta phải khuyên nhủ, răn dạy không nên như thế. Hoặc khi thấy con mình có món đồ lạ đem về nhà, ta phải tra hỏi coi món đồ đó mượn của ai, hay lỡ cầm nhầm của bè bạn thì ta khuyên con đem trả lại. Dạy con biết tôn kính, hiếu thảo với ông bà, cha mẹ, siêng năng, chăm chỉ học hành, biết chọn bạn tốt để thân cận, sống tự lập không ỷ lại, biết chọn nghề nghiệp chân chính và sẵn sàng giúp đỡ sẻ chia khi có nhân duyên. Cha mẹ nào khéo biết dạy con cái như thế thì khỏi phải lo vận mệnh tương lai của nó sau này, vì biết chắc rằng con mình sẽ là người tốt trong hiện tại và mai sau.
CHỌN NGƯỜI KẾ THỪA
Có một lão già chuyên nghề sửa khóa, ông đã làm nghề trên 50 năm nên rất nỗi tiếng về tài mở khóa các loại. Để tìm một người đệ tử kế thừa, ông đã gạn lọc rất nhiều người và cuối cùng, chỉ còn hai đồ đệ mà ông cho rằng có thể xứng đáng nhận lãnh trách nhiệm nặng nề ấy. Vì trong hai ông chỉ chọn một nên hai người cần phải tranh tài qua một cuộc thi. Thể lệ cuộc thi chỉ đơn giản là ai mở khóa nhanh nhất sẽ là người thắng cuộc và phải trả lời được một câu hỏi của thầy. Lão ta đã chuẩn bị hai chiếc rương để vào mỗi phòng và khóa lại rất kỹ càng bằng loại khóa siêu hiện đại. Nếu không phải là tay nghề chuyên nghiệp thì đừng hòng có thể mở ra. Kết quả chưa đầy 5 phút thì vị đệ tử thứ nhất đã mở ra được, vị đệ tử thứ hai phải mất 20 phút mới mở xong. Ai cũng tin chắc vị đệ tử thứ nhất sẽ được kế thừa, vì kết quả vòng một quá rõ ràng để thể hiện tài năng. Vòng hai bắt đầu, ông thầy già hỏi vị đệ tử thứ nhất, “sau khi mở khóa, con thấy trong rương có những gì?”. Mắt vị đệ tử thứ nhất sáng lên và nhanh nhẫu trả lời, “dạ thưa thầy, trong rương có thật nhiều tiền và vàng ạ”. Cũng câu hỏi đó, vị thầy quay sang hỏi vị đệ tử thứ hai, “trong rương có gì không con?” - “ dạ thưa thầy, con chỉ biết mở khóa thôi, nên không thấy có gì trong rương ạ”.
Cuộc thi chấm dứt, mọi người hồi hộp chờ đợi kết quả từ sự công bố của người thầy. Ai cũng tin chắc rằng, người thứ nhất sẽ giành phần thắng tuyệt đối. Bấy giờ, ông thầy trịnh trọng tuyên bố, “vị đệ tử thứ hai được kế thừa sự nghiệp của ta”.
Gã đệ tử thứ nhất không chấp nhận liền phản đối, “thầy làm như vậy là không công bằng tí nào”. Lão già từ tốn trả lời, “nghề của ta cần phải có lương tâm và đạo đức. Mục đích mở khóa là giúp người làm lại chìa khóa, để họ tiện nghi sử dụng những gì cần thiết. Nhà ngươi do lòng tham nên đã cố gắng mở rất nhanh, vì mục đích tìm kiếm tiền bạc. Do đó, ngươi sau này nếu không thay đổi tâm tính sẽ là tên siêu trộm lấy cắp của người”.
Chúng sinh vì một niệm bất giác nên bị vô minh che lấp, từ đó bị gió nghiệp chi phối do sự chấp ngã mà ra nên tham muốn vô cùng tận. Người có quyền cao, chức trọng, nếu không có nhân cách đạo đức thì tham nhũng hữu hóa, tìm cách chiếm đoạt, vơ vét về cho riêng mình, làm thiệt hại chung cho nhiều người. Kẻ ăn không ngồi rồi vì muốn hưởng thụ quá đáng nên khoét vách trèo tường trộm của người khác, nặng hơn nữa thì giết người rồi cướp của. Thế gian này, lúc nào trộm cướp, lường gạt cũng xảy ra hằng ngày, bởi lòng tham con người như giếng sâu không đáy. Người nhiều tài sản thì lo lắng sợ hãi, vì sợ bị hao hụt mất đi nên cố tình tìm cách nắm giữ, bất chấp luân thường đạo lý, như các ông vua thời phong kiến ngày xưa.
Trở lại câu chuyện trên, đúng như lời tiên đoán của ông thầy già, gã đồ đệ thứ nhất sau này là một tên siêu trộm nỗi tiếng. Một hôm, nhờ một người điềm chỉ mà hắn ta biết được tại khu phố nọ, có một gia đình đang cất giấu một số tiền rất lớn. Đêm đó, hắn đến nơi khi cả khu phố đang chìm ngập trong bóng tối, chỉ có căn nhà giấu tiền là có ánh đèn sáng trưng. Hắn nhanh chóng hạ thủ con chó trong tích tắc và vào nhà một cách dễ dàng. Nhà có hai gian, ở gian ngoài chủ nhà vẫn còn thức, còn gian trong là chỗ giấu tiền. Hắn dùng kỹ thuật cao siêu bẻ khóa, và cuối cùng, lấy được số tiền gần 50.000 đô la. Nhưng hắn ta rất lấy làm lạ, vì nhà để nhiều tiền như thế mà không hề có hệ thống chống trộm. Chính sự khác biệt của gia đình này làm hắn tò mò muốn biết vị chủ nhân kia là hạng người thế nào? Hắn nhanh chóng tiếp cận phòng bên ngoài, rồi áp sát tai vào cánh cửa để tìm hiểu nguyên nhân. Tiếng một bà già thốt lên trước như đang nói với chồng mình, “này ông à, chúng ta nên thuê một người giúp việc đi, vì hai ta đều mù cả. Tên trộm nghe nói vậy càng kinh ngạc hơn. Tại sao họ mù, mà lại đốt đèn sáng đêm, làm hắn thêm tò mò hơn nữa. Ông già lên tiếng, “bà nói cũng phải, nhưng mình đang thiếu thốn, khó khăn thế này thì lấy tiền ở đâu mà mướn người” – “ông không nhớ à, mình vừa lĩnh tiền bồi thường của đứa con trai, vì bị tai nạn máy bay gần 50.000 đô, mình dùng số tiền đó để mướn người”. Tên trộm nghe đến đây cảm thấy lòng nặng trĩu mà thấp thỏm lo âu. “Bà điên rồi sao, chúng ta đã đồng ý dùng số tiền đó để xây lớp học tình thương cho các trẻ em mồ côi trong thôn làng?”. Tên trộm nghe xong trái tim càng đau nhói như muốn vỡ tung ra từng mãnh. “À! Ông nhắc tôi mới nhớ đó, xuýt chút nữa là tôi quên mất. Nhưng chúng ta còn phải đóng tiền điện nữa, đèn thắp sáng cả đêm hao tốn dữ lắm đó, ông thử tính coi” – “Chuyện đó không sao, vì nhờ ánh đèn mà mọi người không bị mò mẫm trong đêm tối là được rồi. Mỗi ngày, hai ta chỉ cần đan thêm một cái giỏ nữa cũng đủ để trang trải mọi thứ qua ngày” – “Ông nói nghe cũng có lý, phải chi hồi trẻ ta nhận nuôi thêm một đứa con, thì giờ này vợ chồng mình đâu phải chịu vất vả, nhọc nhằn như thế này” – “Thôi đừng nói nữa, hãy ráng đan thêm một cái giỏ nữa đi”. Tên trộm nghe xong cảm thấy ray rứt trong lòng, tự nhiên hắn muốn vứt bỏ hết mọi thứ. Hắn ta như người vừa tỉnh cơn mê, vội bỏ lại số tiền đó và hộp chìa khóa vạn năng mà ra đi biệt tích.
Nhân cách là phẩm chất cao quý để ta và người được sống yêu thương mà cùng nhau chia vui, sớt khổ. Ta không biết tên trộm đó có hoàn lương thật sự hay không, nhưng đối với hắn, chất liệu của tình thương vẫn còn, nên hắn mới động lòng bi cảm mà để lại số tiền. Động cơ nào khiến hắn thức tỉnh hồi đầu, bởi hắn còn trẻ, còn có sức khỏe cùng với hai bàn và một khối óc.
Bây giờ, chúng ta thử làm một bài toán, để so sánh tên trộm và hai vợ chồng ông già mù. Tên trộm còn trẻ, có sức khỏe, có đôi bàn tay, có đôi mắt sáng và khối óc, đủ khả năng làm tất cả mọi việc. Ấy thế mà, anh ta lại đi làm cái nghề mà ai cũng khinh chê, nguyền rũa. Giết người làm cho nhân loại khổ đau, gia đình mất mát, đau thương, chia lìa kẻ ở, người đi. Kẻ giết thì bị tù tội, người chết thì vĩnh viễn ra đi để lại người thân khóc thương, tưởng nhớ, mà tiếc nuối, oán hờn. Trộm cướp, lường gạt cũng làm cho người ta đau khổ. Tiền bạc làm được từ công khó nhọc. Nhín ăn, bớt mặc lắm mới dành dụm, chắt chiu và đôi khi, phải mất cả một đời. Thử hỏi, có ai bị mất mát mà không khổ, không đau. Tên trộm nghe cuộc nói chuyện của hai vợ chồng mù, dù đã già nhưng vẫn phải đan giỏ để kiếm tiền sống qua ngày. Nhận được số tiền bồi thường con chết vì tai nạn, hai người không lấy đó làm kế sinh nhai mà hiến hết tất cả cho cô nhi viện làm từ thiện, xây lớp học tình thương. Nhà của ông bà được thắp sáng suốt đêm, để soi đường cho người đi đêm không phải mò mẫm trong đêm tối. Nhà ông bà nuôi chó để phát giác ra những kẻ trộm cướp mà không làm hại mọi người chung quanh. Tình thương của hai vợ chồng già mù trong cách đối nhân xử thế, phải là tâm từ của Bồ tát Quán Thế Âm, mới làm được như vậy. Họ đã già mà lại mù lòa, không có người thân, lẫn con cháu giúp đỡ.
Trong cuộc sống, các vị Bồ tát luôn có mặt khắp mọi nơi, tùy duyên hóa độ, ứng hiện vào đời đủ mọi thành phần trong xã hội, để san sẻ, đóng góp cho đời. Hai vợ chồng già mù sống qua ngày nhờ đan giỏ, còn kẻ trộm kia còn trẻ, lại có đôi bàn tay, có hai con mắt sáng và cả một khối óc; ấy thế mà lại đi làm cái nghề khoét vách, trèo tường, cướp đi phương tiện sinh sống hằng ngày của bao nhiêu người khác. Nhưng dù sao, kẻ trộm này vẫn còn có lương tâm, khi biết rõ hoàn cảnh của hai vợ chồng già mù, sống vì tình thương của nhân loại nhiều hơn là chính mình. Chính sự sống cao thượng đó, đã giúp cho anh ý thức được tình người trong cuộc sống mà bỏ nghề trộm cắp, trả lại số tiền lấy được để làm lại cuộc đời.
Bồ tát Quán Thế Âm luôn thị hiện, ứng hóa 32 thân, đi vào đời để cứu giúp chúng sinh. Nhờ vậy, Người mới cảm hóa được vô số người trên thế gian này. Ta trở lại câu chuyện ông thầy sửa khóa chọn người kế thừa. Từ xưa đến nay, ai giỏi nghề nào thì sẽ được kế thừa nghề đó. Nhưng nghề sửa khóa này, ngoài việc giỏi tay nghề, còn phải có lương tâm đạo đức. Nếu không, vì lòng tham của con người như giếng sâu không đáy, ta sẽ lợi dụng vào sự tài giỏi của mình để lừa bịp người khác. Quả thật, ông thầy sửa khóa kia rất biết chọn người hiền tài, đạo đức. Cho nên, sống ở đời, ta phải biết khôn ngoan, sáng suốt chọn lựa nghề nghiệp. Có những nghề nghiệp chỉ mang đến khổ đau cho nhân loại, như nghề mua bán trẻ em, mua bán phụ nữ, mua bán vũ khí, mua bán xì ke ma túy, các chất gây say và nghề sát sinh hại vật.
Nghề sửa khóa là một nghề đòi hỏi mọi người khi học nghề phải có lương tâm và đạo đức. Vì sao? Vì ta có thể lợi dụng nghề nghiệp của mình mà đi trộm nhà của kẻ khác. Ta có chìa khóa của quyền cao chức trọng, chìa khóa của đấng tối cao và cả chìa khóa vạn năng để mở hết các kho bạc của con người. Nhưng các chìa khóa đó, không bằng chìa khóa lương tâm khi mở ra thì lòng từ bi rộng lớn sẽ lan tỏa khắp muôn nơi, làm cho mọi người sống với nhau có tình, có nghĩa hơn và sống yêu thương bằng trái tim hiểu biết.
CỨU VẬT VẬT TRẢ ƠN, CỨU NGƯỜI NGƯỜI TRẢ OÁN
Ngày xưa, có một đất nước nọ, ông vua sống rất nhân từ, đạo đức, thông suốt việc đời cho đến việc đạo. Ông thấy rõ kiếp sống con người tạm bợ, mong manh, mạng người sống trong hơi thở, vì công danh, sự nghiệp, vợ đẹp, con ngoan mà nhiều người đành lòng giết hại, trộm cướp, lường gạt mà bức hại, làm khổ lẫn nhau.
Nghĩ vậy, vua liền từ bỏ tất cả, đi qua nước khác, tìm thầy học đạo và xuất gia làm người tu hành. Gần hai mươi năm, ông lánh xa thế gian trần tục, tinh tấn tu hành, sống đời đạm bạc. Chỗ ông đang ở có một hang sâu, không có đường lên. Một hôm, có anh thợ săn vì ham đuổi theo con mồi mà rớt xuống hang. Vị thầy tu đó nghe tiếng kêu cứu, liền chặt dây leo thả xuống. Anh thợ săn nhờ vậy mà thoát chết. Lúc đó, anh đã bắt được một con rắn và một con quạ, nhốt chung vào cái rọ đeo bên mình. Vì thấy hai con vật tội nghiệp nên vị thầy thương tình, mở rọ ra thả chúng đi. Riêng anh thợ săn thì thương tích đầy mình, và thầy nhiệt tình chăm sóc. Sau đó, anh thợ săn phục hồi được sức khỏe, cám ơn rối rít vị ân nhân cứu mình và hứa sẽ có ngày đền ơn, đáp nghĩa. Nói xong, anh chỉ cho thầy ngôi nhà ở bìa rừng và mời thầy khi nào có dịp thì ghé nhà chơi để gia đình có dịp hậu tạ. Trước đó, hai con vật được cứu thoát cũng đã thầm hứa khi thầy gặp chuyện không may, chúng sẽ hết lòng tìm phương cứu giúp.
Chú quạ sau khi thoát chết luôn tìm cách trả ơn thầy. Nó nghĩ mãi vẫn không có cách nào để đền ơn xứng đáng. Cuối cùng, nó sực nhớ ra, liền bay vào cung vua lúc nửa đêm để lấy cắp hạt kim cương quý giá của hoàng hậu. Sau đó, nó tìm đến vị thầy để đền ơn cứu mạng bằng cách dâng kính thầy hạt kim cương.
Hoàng hậu sau khi ngủ dậy mới phát giác ra hạt kim cương bị mất, liền báo cho vua biết. Vì là vật gia bảo quý giá nên nhà vua truyền rao khắp tất cả thần dân thiên hạ, nếu ai tìm được viên kim cương sẽ được tặng đất đai, nhà cửa, tiền bạc và các nhu cầu cần thiết. Lệnh thông báo được truyền đi khắp nơi từ thành thị phồn náo đến hang cùng hóc hẻm nên ai cũng biết tin.
Riêng vị thầy, sau khi nhận hạt kim cương mới nghĩ rằng gia cảnh anh thợ săn chắc rất túng thiếu nên khởi lòng từ bi đem đến tặng anh ta, không ngờ tai họa bắt đầu ập đến. Tên thợ săn nhân cơ hội này trói vị thầy ân nhân đã cứu sống mạng mình, nộp cho nhà vua để được nhận đầy đủ các thứ nhà vua hứa.
Nhà vua hỏi vị thầy, “hạt kim cương này do đâu mà ngươi có, hãy mau thành thật khai báo”. Vị thầy suy nghĩ, nếu ông nói thật ra thì tất cả loài quạ trên thế gian này sẽ bị tiêu diệt hết. Còn nếu tự mình nhận lấy thì phạm giới tu hành sẽ làm cho mọi người mất tín tâm. Nghĩ vậy nên thầy đành im lặng, một mực cam chịu sự đánh đập, hành hạ dã man. Tuy vậy, thầy không khởi tâm oán giận nhà vua, mà còn khởi lòng bi mẫn, thương xót phát nguyện sau khi thành tựu đạo lý giác ngộ giải thoát, sẽ độ nhà vua trước tiên. Nhà vua thấy ngài bị tra tấn dã man mà không hề có thái độ sợ hãi, nên truyền lệnh chôn sống vị thầy, chỉ chừa cái đầu bên trên. Con rắn hay tin thầy bị oan gia vì muốn giúp người mà đành chịu khổ, nó tức tối nên tìm cách cứu thầy.
Đêm đó, rắn bò vào cung, cắn chết thái tử là đứa con duy nhất của nhà vua. Xong, nó bò về chỗ thầy bị chôn sống, trao thuốc giải độc cho thầy, rồi từ biệt thầy ra đi. Thương tiếc đứa con duy nhất, nhà vua truyền lệnh, nếu ai cứu được thái tử, ông sẽ nhường lại nửa giang sơn. Danh y các nơi nghe thế đều tìm về cung chữa trị, nhưng tất cả đều bó tay, chào thua. Tin thái tử chết và tin thầy tu bị chôn sống được lan truyền rất nhanh. Người hiểu đạo thì tội nghiệp cho nhà vua, người không hiểu thì nói đáng đời cho nhà vua, kẻ thì nói gieo gió thì gặt bão, họ bàn tán xôn xao vì sự oan trái này. Một người lính đi ngang chỗ thầy tu đang bị chôn sống, vừa đi vừa thốt lên tội nghiệp cho nhà vua quá, có đứa con duy nhất mà giờ phải chịu chết vì rắn cắn. Vị thầy nghe vậy mới nói rằng, “tôi có thuốc giải độc rắn cắn hay lắm”. Thế là tên lính liền đem thuốc giải về trình vua và cho thái tử uống thử. Thật là mầu nhiệm! Mười phút sau, thái tử hồi tỉnh lại trong sự vui mừng của tất cả mọi người. Nhà vua liền truyền lệnh mau cứu sống vì thầy tu và quỳ xuống ăn năn sám hối, “mong thầy tha thứ lỗi lầm, con vì người phàm mắt thịt nên xém chút đã giết oan một người tu hành chân chính như thầy”. Sau đó, nhà vua cùng quan quân, gia đình, người thân đồng đến quy y nương tựa thầy cầu mong sự chỉ dạy. Vị thầy vì lòng từ bi cao cả nên đã chấp nhận hết mọi oan gia đau khổ, để tất cả chúng sinh được sống bình yên, hạnh phúc.
Sau đó, thầy hướng dẫn cho vua biết tin sâu nhân quả, khuyên nhủ mọi người làm lành, lánh dữ để cùng nhau sống yêu thương, hiểu biết, để đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau. Sau khi mọi việc xong xuôi, nhà vua mới hỏi, “tại sao thầy lại không nói lên sự thật?” – “Nếu ta nói lên sự thật thì các loài quạ trong nước đều phải bị hủy diệt hết. Chính vì lẽ đó nên ta không nói. Còn nếu nói sai sự thật thì cũng phạm vào giới cấm, làm cho người khác càng mất niềm tin nơi Phật pháp, ta thà cam chịu đau thương để mọi loài không bị tổn hại”. Vua nghe xong hai hàng lệ rơi mà càng cung kính thầy, vừa cảm phục đức độ của vị chân tu, vừa hổ thẹn vì sự phán xét sai lầm của mình.
Kế đến, nhà vua truyền lệnh chu di ba họ gia đình anh thợ săn, nhưng vị thầy xin vua hãy tha thứ, để anh ta có cơ hội làm mới lại chính mình. Vua nghe lời và từ đó phát tâm xây dựng chùa chiền để hướng dẫn cho mọi người tu theo.
Câu chuyện ngụ ngôn trên nói lên sự bạc bẽo của con người nếu không có sự hiểu biết chân chính, không có lòng nhân, không có tình người, không tin sâu nhân quả. Chính vì không tin sâu nhân quả, tin không có đời sau mà người ta đành lòng giết hại lẫn nhau để bảo tồn mạng sống cho riêng mình. Kẻ có quyền cao chức trọng thì nhân danh thượng đế, buộc mọi người phải kính cẩn tôn sùng. Con người vì có hiểu biết nên hơn hẳn các loài vật nhờ biết suy nghĩ, quán chiếu, tìm tòi, nên biết vận dụng đi theo chiều hướng tốt đẹp, cùng giúp nhau sống an vui, hạnh phúc. Nếu si mê, chấp ngã thì tìm cách chiếm hữu của kẻ khác bằng nhiều hình thức, miễn sao lợi cho mình là được, còn ai khổ đau mặc kệ.
Còn các loài vật thì sao? Khi ai cứu nó, nuôi nó, nó sẽ nhớ ơn suốt đời, không bao giờ có tâm phản phúc, mà còn tìm cách để trả ơn và đền ơn. Chính vì lẽ đó mà dân gian có câu “ cứu vật, vật trả ơn, cứu nhân, nhân trả oán”, thật không sai chút nào.
Tình người lòng dạ đổi thay
Ngoài môi, chót lưỡi những câu ân tình.
Biết đền ơn, đáp nghĩa là một việc làm cao quý nhất trong cuộc đời, con người sống thiếu nó thì không có lòng nhân. Biết ơn và đền ơn là đạo lý uống nước nhớ nguồn, ăn trái nhớ kẻ trồng cây. Hiện tại, người Việt Nam chúng ta vẫn giữ được truyền thống tốt đẹp và cao cả này. Ai phủ nhận công ơn của cha mẹ, công ơn của thầy tổ, công ơn của đất nước, công ơn của tất cả chúng sinh, kẻ đó được gọi là “người vong ơn bội nghĩa.”
Ơn cha mẹ là ơn cao cả nhất. Mẹ mang nặng, đẻ đau, cha làm lụng vất vã, nhọc nhằn, chịu cực khổ, mà không hề oán than, chỉ một lòng mong cho con trẻ mau được lớn khôn để nên danh phận ở đời. Đó là sự mong muốn của các bậc làm cha mẹ. Ngoài đời, các em học sinh còn phải biết ơn thầy cô giáo dạy chữ, dạy nghề. Trong đạo pháp, ơn thầy tổ thì vô cùng cao quý. Cha mẹ làm nên thân ta, thầy cô giúp ta có hiểu biết và công ăn việc làm. Thầy tổ giúp ta giới, thân, huệ mạng trang nghiêm, trong sạch, sống có nhân cách và đạo đức. Đức Phật ngày xưa, khi thọ ơn ai một điều gì, dù nhỏ nhặt nhất vẫn nhớ và tìm cách trả ơn. Trong một kiếp quá khứ, Ngài thọ ơn một người vì đã nói một lời an ủi. Kiếp hiện tại, vị ấy là đệ tử xuất gia theo Phật, nhưng bị bệnh ghẻ lỡ, hôi hám, do quả báo kiếp trước khi làm quan đánh đập, hành hạ nhiều người oan sai, hiện tại phải bị quả báo bệnh khổ. Phật đích thân cùng ngài A Nan đến chỗ đệ tử thăm bệnh và ân cần hỏi han, chăm sóc. Chính Phật đích thân nấu nước, tắm rửa, lau chùi cho thầy tỳ kheo ấy. Trong cơn khốn đốn, khổ bệnh hành hạ, vị tỳ kheo được Phật quan tâm, tận tình chăm sóc, như được uống nước cam lồ nên thân tâm cảm thấy nhẹ nhàng, an ổn. Song, Phật chỉ dạy phương pháp quán bệnh khổ, vị tỳ kheo tinh cần miên mật, nhiếp tâm quán chiếu mà chứng quả giác ngộ giải thoát.
Ta bây giờ yên ổn tu hành, không phải bận rộn lo toan các thứ, vì đã có nhiều người hy sinh, chịu khổ, bảo vệ đất nước, giữ gìn an ninh, trật tự cho mình. Họ đã phải can đảm chấp nhận xa lìa người thân, bảo vệ biên cương, bờ cõi. Ta cần phải cám ơn các nhà lãnh đạo đất nước, cùng các chiến sĩ đã hy sinh thầm lặng. Một đất nước luôn bị giặc giã, luôn bị chiến tranh, thì thử hỏi ta có thể yên ổn tu hành hay không? Do đó, Phật dạy ta phải biết ơn đất nước mà cố gắng tu hành để được an lạc hạnh phúc mà dấn thân phục vụ tốt đạo, đẹp đời. Và còn một ơn này nữa cũng tối quan trọng, đó là ơn tất cả chúng sinh và bầu vũ trụ bao la này. Ta không làm ruộng nhưng vẫn có cơm ăn, ta không nuôi tằm dệt vải nhưng vẫn có áo quần mặc ấm. Biết bao con người phải làm lụng vất vả, hành nghề giết mổ để ta được ăn ngon, sống khỏe và bảo tồn mạng sống. Ơn nghĩa ở thế gian là bao la, vô cùng tận, ta không thể nhất thời mà trả hết những công ơn ấy. Do đó, Phật dạy ta biết ơn và đền ơn là đạo lý uống nước nhớ nguồn. Ai sống luôn nhớ nghĩ như vậy và thực hành như vậy, sẽ là những Phật tử chân chính sống đúng theo lời dạy của Như lai Thế tôn.
HÃY SẺ CHIA VÌ CON NGƯỜI
Thời xa xưa, có những tập tục hết sức phi lý. Một số vua cho rằng, cõi này là cõi tạm, sau kiếp này là một cõi khác là cõi vĩnh hằng. Vì vậy, khi vua sắp qua đời, sẽ phải giết người thân, chôn theo vàng bạc, cùng về cõi đó sinh sống. Chính quan niệm này làm mất đi tính nhân đạo của loài người, vì sự tham muốn quá đáng cho riêng mình mà những vị vua ngày xưa đã tán tận lương tâm, giết nhiều sinh mạng mà không hề mảy may tiếc nuối.
Ngày nay, bao nhiêu dự án, bao nhiêu công trình lớn được xây dựng, chủ yếu là để phục vụ con người. Rất nhiều tiền của mà chúng ta đã đổ dồn vào đó, nhưng trên thực tế nó chẳng giúp gì nhiều cho nhân loại. Hình như, ta chỉ lo bao bọc cái vỏ bề ngoài mà lại quên phần bản chất bên trong. Xã hội hiện nay còn rất nhiều người đang đói tình thương, khát khao được các bàn tay rộng mở mang đến cho họ chút niềm vui nho nhỏ trong đời. Giáo dục tâm linh là nền tảng quan trọng nhằm giúp mọi người sống có yêu thương và hiểu biết hơn. Vì chúng ta tạo nghiệp bất đồng nên có sự sai biệt rất lớn, người sống được vui vẻ hạnh phúc thì ít, kẻ sống khổ đau bất hạnh thì nhiều. Cho nên, Phật dạy ta hãy nên mở rộng tấm lòng từ bi hỷ xả để cùng sống với mọi người có tình, có nghĩa hơn. Con người là quan trọng, là hơn hết, vậy mà ta cứ mãi chạy theo chủ nghĩa tiêu thụ vật chất quá đáng, làm cho bao thế hệ con người là ông bà, cha mẹ, con cái tự tách biệt nhau, bởi nhu cầu của sự sống. Ta có lương tri mà lại không biết yêu thương nhau, để cùng giúp đỡ nhau, để cùng cảm thông tha thứ cho nhau, mà kết nối sẻ chia vì cuộc sống.
Một người phụ nữ đã nhiều năm liền, mỗi tuần đều gởi tiền nhờ người mua hoa đặt lên mộ con trai của bà. Suốt thời gian dài như vậy, công việc gửi tiền mua hoa bà cứ liên tục nhờ một anh bảo vệ giúp dùm.
Một hôm, có chiếc xe hơi chạy đến trước cổng nghĩa trang rồi dừng lại, anh tài xế bước xuống, đến nhà trực bảo vệ nói rằng, “xin làm phiền anh một chút, anh hãy ra xe vì có người phụ nữ đang cần gặp anh, bà ta đang bệnh nặng, không thể xuống xe được”. Anh bảo vệ đến nơi thì gặp một người phụ nữ lớn tuổi, đang ngồi trên xe ôm một đóa hoa to. “Tôi chính là cô Hạnh đây, mấy năm liền tôi vẫn thường xuyên gửi tiền cho anh để mua hoa”. Anh bảo vệ nói, “vâng thưa bà, lần nào tôi cũng mua hoa đặt lên mộ cậu ấy”.
Người phụ nữ nói, “bác sĩ bảo tôi không thể kéo dài mạng sống hơn một tháng, nên tôi đích thân đến đây đặt hoa lên ngôi mộ con tôi lần cuối”. Thật ra, tình mẹ thương con cao cả đến dường nào, tuy bà ở xa nhưng vẫn mỗi tuần gửi tiền mua hoa để đặt lên mộ con trai của mình. Việc làm đó rất có ý nghĩa để nói lên tình thương của con người bao la, vô bờ bến. Người sống thì thương tiếc ngậm ngùi, kẻ chết thì ra đi một phương trời vô định, kẻ dương người âm cách biệt trùng trùng, nhưng tình người luôn vẫn còn đó.
Anh chàng bảo vệ nhìn thẳng vào khuôn mặt hốc hác, tiều tụy của bà mà lòng thương cảm xót xa, lấy làm tiếc nuối, anh mới nói rằng, “mấy năm nay bà thường xuyên gửi tiền mua hoa để đặt lên mộ của con bà, tôi lấy làm tiếc lắm. Vì hoa đó đâu có ai thưởng thức, mà lại nhanh khô héo. Hiện giờ, bà biết không, có nhiều cô nhi viện nuôi các trẻ em mồ côi, họ rất cần những bó hoa này. Họ thích được ngắm hoa, được xem hoa, để tận hưởng sắc đẹp của hoa. Chính nơi đó là những người còn sống, họ đang khát khao mong chờ để ngắm hoa đẹp, còn ở nghĩa trang này đâu có ai còn sống”.
Nghe lời nói của anh bảo vệ mà bà như thức tỉnh cơn mê, bà lặng lẽ cầu nguyện rồi cám ơn anh rối rít, trên khuôn mặt bà nở một nụ cười rất tươi. Hai người từ giã nhau và nói lời tạm biệt.
Mấy tháng sau, người phụ nữ ấy tự mình lái xe đến thăm anh và không quên tỏ lòng chân thành cám ơn anh. “Trước khi đến đây, tôi đã tặng hoa và giúp một số phương tiện khác cho các em trẻ mồ côi rồi. Khi nhận được hoa và những món quà khác, các em rất vui làm tôi cảm thấy an ổn, nhẹ nhàng xiết bao. Bệnh tình của tôi bây giờ đã vượt qua cơn hiểm nghèo. Bác sĩ khi khám lại rất đỗi ngạc nhiên, vì không còn dấu hiệu đột tử nữa rồi. Giờ đây, tôi cảm thấy yêu đời và rất lạc quan, và tôi không còn buồn tiếc, thương nhớ con tôi như ngày xưa nữa. Đó cũng chính là nguyên nhân khiến bệnh tình của tôi mau thuyên giảm, sớm phục hồi sức khỏe lại bình thường. Bây giờ, tôi mới hiểu ra, cuộc sống này có nhiều người cần sự nâng đỡ, sẻ chia, để họ vơi bớt nỗi đau bất hạnh mà sống vui vẻ, hạnh phúc. Đói tình thương, khát tri thức, cuộc sống bất hạnh luôn làm cho người trí phải thao thức, trăn trở, tìm ra phương hướng nhằm giúp mọi người chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc. Tình thương nhân loại, tình người trong cuộc sống là một chất xúc tác làm cho ta mở rộng tấm lòng, cùng nhau nâng đỡ và sẻ chia.
Liên hệ đến thực tế cuộc đời, bản thân chúng tôi đã từng đi đến các vùng sâu, vùng xa để chia sẻ niềm tin và hiểu biết cùng với tất cả mọi người bằng phương tiện vật chất lẫn tinh thần. Chúng tôi chỉ làm việc bằng tấm lòng mong muốn mọi người ý thức về sự sống mà tin sâu nhân quả. Đây là những việc làm tuy vất vả khó khăn nhưng thắm đậm tình người, vì đã đem chất liệu từ bi của Phật đà để cùng nhau chia vui sớt khổ bằng tất cả tấm lòng yêu thương và nâng đỡ.
Ngoài những mặt tích cực đạt được đáng khen ngợi, chúng tôi cũng nhận thấy ở nhiều địa phương, không ít người nghèo chỉ mong chờ vào sự bố thí thì thật không nên. Chúng ta thử hỏi: Tại sao nhiều người nghèo lại hoàn nghèo, không thể thoát ra khỏi cảnh nghèo? Phải chăng, theo luật nhân quả, do đời trước không gieo trồng phước đức, không biết làm việc bố thí, giúp đỡ sẻ chia nên kiếp này nghèo. Kiếp này đã nghèo, đã vậy, nếu trông chờ vào của bố thí thì kiếp sau sẽ thế nào, chắc chắn phải lãnh quả báo, bị đọa vào những chỗ xấu. Như vậy, đã nghèo càng nghèo hơn, nên mục đích của chúng tôi là làm sao nối kết yêu thương, sẻ chia cuộc sống, giúp cho họ cái cần câu để họ có thêm nhận thức sáng suốt, tin sâu nhân quả mà cố gắng làm lành, lánh dữ. Để giúp cho họ có cái cần câu thì chỉ có chính quyền địa phương mới có đủ khả năng giúp, và ngược lại, họ phải chịu khó, siêng năng, tinh cần nhiều hơn khi được chính quyền giúp vốn làm ăn. Trải lòng đến người khó khăn, ta phải có lòng từ bi và sự vô ngã, vị tha. Nhờ vậy, ta và người sẽ sống yêu thương hơn mà cố gắng vượt qua hiểm nghèo. “Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”, tình người Việt Nam là vậy đó, ta hãy cùng nhau mở rộng tấm lòng nhân ái để giúp cho đời ngày càng thêm tươi sáng hơn bằng sự hiểu biết chân chính.
TRẢI NGHIỆM CUỘC SỐNG
Có một chàng trai dù đã cố gắng siêng năng làm việc và luôn sống tốt với mọi người, nhưng không biết sao anh toàn gặp chuyện không được hài lòng như ý. Anh cảm thấy quá mệt mỏi, chán chường nên nhiều lúc, muốn chối bỏ cuộc sống này để tìm sự thanh thản nơi cõi khác. Thấy con mình đang trong cơn bế tắc tuyệt vọng, người cha đã tìm đủ mọi cách khuyên nhủ, động viên, nhằm giúp anh có đủ niềm tin, nghị lực để vượt qua những thất bại trong đời.
Hôm đó, ông ta cho gọi đứa con trai lại bảo, “bữa nay, cha con mình sẽ thưởng thức những món ăn kỳ lạ, đặc biệt. Nói xong, ông bắt ba nồi nước lên đun sôi, sau đó lần lượt bỏ vào nồi từng món như củ cà rốt, quảtrứng và hạt cà phê. Người con trai cảm thấy sốt ruột, bồn chồn, không biết cha mình có ý định gì, nên anh đứng ngồi không yên. Trong khi đó, người cha vẫn thản nhiên, vui vẻ. Hai mươi phút sau, người cha tắt bếp và lần lượt múc mỗi thứ vào từng chén riêng.
Ông bảo người con trai nếm thử món cà rốt luộc, xem có ngon không? Chàng trai sau khi ăn thử thì nói, “dạ, mềm lắm cha ạ”. Cứ như thế, ông lần lượt bảo con mình thưởng thức món trứng và hạt cà phê. Người con nhắp thử hương vị cà phê rồi chau mày lại vì sự đậm đặc và vị đắng của nó.
Đứa con thắc mắc, “cha kêu con nếm những thứ này nhằm mục đích gì vậy ạ? Người cha nói, “cha đang muốn giúp con có một nhận thức sáng suốt, bằng cách thưởng thức những món ăn này. Con thấy đó, ba loại thức ăn trên đều gặp phải một nghịch cảnh như nhau là nước sôi 100 độ, nhưng mỗi thứ lại có sự phản ứng khác nhau: Củ cà rốt khi chưa chế biến thì cứng cáp và trông rắn chắc, nhưng sau khi luộc chín rồi nó lại rất mềm. Quả trứng khi chưa luộc thì rất dễ vỡ nát, vì chỉ có một lớp vỏ mỏng bên ngoài bảo vệ chất lỏng phía trong. Sau khi được luộc chín thì quả trứng trở nên đặc và chắc hơn. Cũng thời gian đó, hạt cà phê thì lại khác hẳn. Sau khi được đun sôi, nước của chúng trở nên rất đậm đà và có mùi vị thơm ngon. Khi uống vào ta cảm thấy ngọt ngào, sảng khoái”.
Nói xong, người cha quay sang đứa con trai hỏi, “còn con, con sẽ phản ứng như loại nào khi gặp phải những nghịch cảnh, chướng duyên trong cuộc đời? Nếu như củ cà rốt, khi chưa gặp chuyện bất hạnh thì con thấy như dũng cảm lắm, nhưng khi có chút hoạn nạn con sẽ trở nên yếu đuối, mất hết cả niềm tin, nghị lực. Nếu như quả trứng, lúc đầu trái tim có vẻ mỏng manh nên tinh thần dễbị dao động, đổi thay, nhưng sau một lần mất mát, bị người yêu phụ bạc, bị mất việc làm, và còn nhiều chuyện khác tệ hại hơn, con sẽ chín chắn và vững lòng tin nhờ nghị lực phi thường, vươn lên vượt qua mọi chông gai, cạm bẫy. Hay con là những hạt cà phê, với màu nước đậm đặc và hương vị thơm ngon khi được đun sôi 100 độ. Cuộc đời này cũng vậy con ạ, khi sự thất bại đến với ta thường xuyên, chính khi đối mặt với chúng sẽ giúp ta vươn lên mạnh mẽ để vượt qua cạm bẫy cuộc đời. Vậy con muốn như củ cà rốt, quả trứng hay là hạt cà phê?”.
Đây là bài học sống của cuộc đời, ai không từng khốn khổ khi gặp phải nhiều sự thất bại như: gia đình ly tán, nợ nần chồng chất, thất nghiệp… Hạng người thứ nhất giống như củ cà rốt, mới đầu trông có vẻ mạnh dạn, cứng rắn, nhưng gặp khó khăn thì yếu đuối, bạc nhược, mất hết tự tin, cảm thấy bế tắc, đau khổ trong tuyệt vọng. Hạng người này do không có hiểu biết chân chính, không có niềm tin bản thân, không tin sâu nhân quả nên khi gặp việc khó khăn, trắc trở, họ hay oán trời, trách đất, đổ thừa cho xã hội quá bất công, trách móc gia đình không dang tay giúp đỡ. Người không có đủ niềm tin trong cuộc sống giống như củ cà rốt, khi bị luộc chín thì mềm nhũng ra, đành chắp tay xin chào thua mà rơi vào vòng lao lý, để dòng đời cuốn đi như bèo dạt mây trôi. Dường như ai cũng sợ thất bại hay gặp một việc đau thương ập tới, có thể làm mình hao tốn tài sản, mất hết niềm tin và hy vọng trong cuộc sống. Thật ra, khi đối diện với thất bại, ta hãy nghĩ rằng, ta đang đi tới con đường thành công, có nghĩa là ta đang đi tới và sẽ luôn đi tới. Ta chỉ cần nghĩ vậy thôi, thì ta sẽ không chán nản, không bi quan, vì ta đang tiến bước tới con đường thành công.
Hạng người thứ hai được ví như quả trứng, vỏ rất mỏng manh nên khi va chạm dễ bị vỡ nát, nhưng khi nấu sôi, quả trứng trở nên đặc và chắc hơn. Cũng vậy, con người đã từng trải qua nhiều gian truân, trắc trở, sẽ vững vàng hơn khi đối diện với thất bại. Họ không bao giờ thất chí, nản lòng, mà càng cố gắng kiên trì nhiều hơn, nỗ lực tìm ra nguyên nhân để tiếp tục cuộc hành trình mở ra phương trời rộng lớn. Những thất bại hiện thời là hành trang luôn tiếp sức cho họ càng thêm vững bước, vì không có sự thành công nào mà chẳng thông qua thất bại, do đó thất bại là mẹ thành công.
Các bậc hiền Thánh do nhiều đời đã biết cách gieo trồng phước đức, nên lúc nào họ cũng cứng chắc như hạt cà phê, khi gặp nước sôi thì cho ra hương vị đậm đà, thơm ngon đáo để, giúp mọi người cảm nhận niềm vui trong cuộc sống. Vậy thì, chúng ta nên chọn củ cà rốt, quả trứng hay là hạt cà phê? Chỗ này xin nhường lại cho các bạn tự chọn, vì ai cũng có tâm thanh tịnh, sáng suốt.
THAY LỜI KẾT
Một con người sống có đạo đức, nhân cách, được mọi người tôn quý, kính trọng, chưa hẳn người đó xuất thân từ một gia đình có uy quyền, thế lực và giai cấp quý tộc. Cũng không hẳn là người có nhiều học vị, bằng cấp hoặc người có nhiều tiền của. Sự thật, trong đời sống con người, không có giai cấp khi máu cùng đỏ và nước mắt cùng mặn. Cao quý hay hạ tiện là tùy theo cách sống của ta trong hiện tại mà thôi. Nếu người đó đạt được những tiêu chuẩn trên mà lại không có giới hạnh đạo đức, sống thiếu tình thương, tình người trong cuộc sống, thì giá trị của nó cũng không thiết thực và lợi ích gì cho ai.
Ngày xưa, có một con sư tử và chín con chó sói cùng đi săn chung với nhau. Chúng bắt được mười con nai. Khi đến lượt chia mồi, sư tử hỏi ý kiến đồng bọn, nên chia như thế nào cho công bằng, hợp lý?
Một con sói lanh lợi liền nói, “chúng ta có mười tên, săn được mười con, thì mỗi phần một con chia đều như vậy là công bằng và hợp lý nhất”. Sói vừa dứt lời, đã bị sư tử tát cho một cái lòi cả mắt ra, làm cả bầy sói sợ điếng cả hồn. Với sức mạnh hiện tại, sư tử đã phủ đầu kẻ dưới quyền của mình. Rồi sư tử quay sang hỏi cả bầy sói, vậy chúng ta nên chia như thế nào cho công bằng đây? Sói nâu thấy bạn mình mới bị lòi mắt, nên hoảng quá run lên bần bật, vừa nói vừa khóc, “dạ kính bẩm thưa ngài: để hết mười con nai ngài xơi từ từ ạ!”. Sư tử gầm lên thật lớn, xong liền đạp cho chú sói nâu một đạp lăn cù mèo, rồi nói, “đồ cái thứ gian dối dua nịnh, ngươi tưởng ta là kẻ bóc lột người quá mức hay sao?”. Mọi việc rồi cũng đâu vào đấy. Sư tử làm ra vẻ trang nghiêm, đạo đức rồi nói, “này các bạn sói thân yêu của ta, các bạn hãy nên chia như thế nào cho công bằng mà không một ai trong chúng ta chịu thiệt thòi”.
Cả bầy sói lúc bấy giờ sợ xanh cả mặt, chẳng con nào dám nhúc nhích, hó hé gì cả! Sư tử bực quá, chỉ ngay con sói đen trong bầy, “chú mày ý kiến thế nào?”. Sói đen run rẩy thưa, “dạ, dạ, kính bẩm ngài… cả đoàn chúng ta cả thảy có mười, săn được mười chú nai. Phần ngài chín nai thì bằng mười, chúng con một nai chín sói cũng bằng mười. Dạ, đó là cách chia đều nhất và công bằng số một, kính bẩm thưa Ngài ạ”. Sư tử nhà ta ra chiều đắc ý lắm, “được, chú sói đen thông minh lắm đấy, hãy đợi ta ban thưởng hậu hỷ sau. Ta từ xưa đến nay không muốn làm người mạnh hiếp kẻ thế cô, ta căm thù sự bất công áp bức và không bao giờ ưa kẻ gian dối dua nịnh”. Sói đen cung kính thưa, “dạ, kính bẩm ngài, con từ xưa nay dốt đặc, nhờ chứng nghiệm thực tế của hai bạn sói con vừa rồi, nên mới có chút sáng kiến trình ngài đấy thôi”. Sư tử nhà ta cảm thấy hãnh diện lắm nên lớn tiếng nói, “này, lũ sói nhà ngươi hãy ngoái lỗ tai lớn ra mà nghe và bắt chước sự khôn ngoan như chú sói đen kia đấy nhé”. Cả bầy sói đồng thanh, “dạ, dạ, xin nghe”.
Câu chuyện ngụ ngôn trên cho chúng ta thấy một bài học thiết thực trong cuộc đời, sự tinh khôn, ma mãnh, xảo quyệt của sư tử là đại diện cho lớp người không có nhân cách đạo đức. Bầy sói là tượng trưng cho các loài vật hay kẻ dưới quyền. Người và vật cũng đồng nghĩa là một chúng sinh, nhưng con vật mặc dầu có thú tính ăn nuốt lẫn nhau, nhưng chúng chỉ sát hại con mồi khi đói khát, lúc no đủ, chúng không quan tâm đến miếng mồi ngon nữa. Loài người là một chúng sinh cao cấp hơn các loài vật khác, nhờ biết suy nghĩ, nhận thức, tìm tòi, biết phân biệt đúng sai, phải quấy, tốt xấu, nếu biết vận dụng đi theo chiều hướng tốt đẹp thì xả bỏ sự tham lam, ích kỷ cá nhân, mà dấn thân phục vụ, đóng góp lợi ích thiết thực cho mọi người. Ngược lại, nếu tinh ranh, ma mãnh thì sẽ mưu mô, xảo quyệt, cướp của, lường gạt công khai, lại còn ngông nghênh ăn trên, ngồi trước, mà nói rằng “ta rất bình đẳng công bằng, liêm chính, chí công vô tư”.
Đó là bài học đau thương buồn tủi cho kiếp con người chúng ta, khi ai đó nhân danh một đấng thượng đế tối cao có quyền ban phước giáng họa. Đôi khi, chính ta cũng muốn như vậy. Khi bản ngã đã trương phình to ra, con người vì tham muốn quá đáng do si mê, chấp ngã, nên nhân danh đấng tối cao, tìm cách dùng đủ mọi hình thức để mưu cầu lợi ích cho riêng mình. Khi có quyền cao chức trọng, ta chẳng từ bỏ một mưu sâu, kế độc nào, miễn làm sao có lợi cho mình là được, mà chẳng cần quan tâm, đếm xỉa đến ai.
Trong khi đó, loài vật không gian hùng như vậy. Chúng vì quán tính tập nghiệp mà bất đắc dĩ phải sát hại lẫn nhau để bảo tồn mạng sống. Khi đã đầy đủ rồi chúng không màng đến miếng mồi ngon nữa. Con người vì thông minh hơn, nên khéo léo hại người không bằng gươm đao, mà tìm đủ mọi cách để hạ độc thủ một cách tinh vi. Do đó, một khi con người đã ác rồi thì cùng hung, cực ác. Nhất là các ông vua thời phong kiến man rợ, dã man đến tận cùng. Ngày xưa, con người cảm thấy bé nhỏ với bầu vũ trụ bao la này, nên đã chấp nhận phó thác cuộc đời cho một đấng tối cao, mà chịu sự ban phước, giáng họa của đấng ấy. Từ đó, các ông vua thời phong kiến lợi dụng quyền năng trên, chế tác ra luật pháp độc tôn, bắt buộc mọi người phải tin theo, phải noi theo, dưới danh nghĩa là một thiên tử, tức con trời, nên có quyền cai trị đất nước. Tất cả mọi người đều phải trung thành tuyệt đối theo sự sắp xếp của nhà vua. Vua muốn phong quan tiến chức cho ai thì phong, muốn giết ai thì giết, kẻ dưới không có quyền khiếu nại. Nếu vua bảo chết mà không chịu chết thì chịu tội bất trung. Với một quyền lực như vậy, ông vua được hưởng tất cả mọi nhu cầu cần thiết theo sự kính trọng tột cùng của mọi người.
Theo luật nhân quả, ai đã từng làm phước nhiều đời, giúp đỡ nhân loại được cơm no, áo ấm, thì ngày sau mới được phước làm vua. Luật pháp thời này mang tính cách độc tôn theo thể chế cha truyền con nối, nên dân gian có câu: “con vua thì được làm vua, con sãi ở chùa thì quét lá đa”. Nếu gặp ông vua hôn quân mê muội, thì dân chúng khổ sở, lầm than, cơ cực. Dưới thời phong kiến, ông vua được xem là con trời đại diện cho đấng thượng đế tối cao, nên đất nước và con người đều thuộc quyền sở hữu của nhà vua. Ở thời cổ đại xa xưa, con người rất tin tưởng vào đấng thần linh, thượng đế nên không dám chống lại, sợ thần linh giận dữ, trừng phạt.
Ngày nay, con người văn minh, tiến bộ vượt bực, nên thấy chế độ phong kiến quân chủ, độc tôn không còn phù hợp với thời khoa học hiện đại. Do đó, con người thay đổi cơ chế quyền lực thành dân chủ nhiều đảng, cùng cạnh tranh làm việc, phục vụ, đóng góp lợi ích cho xã hội, được dân tin tưởng bầu qua từng nhiệm kỳ một. Nếu vị lãnh đạo nào có khả năng làm lợi ích cho đất nước, cho xã hội nhiều, thì được bầu thêm một nhiệm kỳ mới. Nhưng tối đa chỉ hai nhiệm kỳ rồi cũng phải nhường chỗ lại cho người khác. Vì tre tàn, măng mọc, nên tình trạng tham nhũng, lạm phát, lãng phí của công rất ít khi xảy ra. Cơ chế dân chủ hay ở chỗ, nếu mình nắm ghế quyền lực mà không đủ khả năng làm lợi cho đất nước thì tự xin rút lui, từ chức, để nhường lại cho người khác. Nếu lạm dụng quyền hạn tham nhũng thì có ban hành pháp truy tố, đem lại sự công bằng cho xã hội.
Lần bước theo thời gian trên đà tiến bộ của nhân loại, thể chế phong kiến quân chủ theo hệ thống cha truyền con nối, dần dần nhường lại cho thể chế phong kiến cấp tiến. Một ông vua ngày xưa được mệnh danh là con trời, nên đã đặt ra những hình luật khắc nghiệt như chu di ba họ, bảy họ, chín họ, theo kiểu diệt cỏ phải diệt tận gốc, nhằm bảo vệ giòng dõi của mình. Gã sư tử kia là đại diện cho con người ích kỷ, độc tôn đó. Lúc nào cũng mồm mép ba hoa để chứng tỏ mình là một người có nhân cách đạo đức, nhưng thực tế thì hoàn toàn ngược lại. Thường thì con người có những cái thấy biết sai lầm do sự chấp ngã gây ra, nên lúc nào cũng muốn chiếm hữu của người khác bằng nhiều hình thức. Miệng thì tuyên truyền hô hào dân chủ, kêu gọi mọi người bình đẳng đóng góp ý kiến để xây dựng phát triển mở mang, nhưng hành động, xử sự thì hoàn toàn độc tài, cai trị.
Chúng sinh vì một niệm bất giác mà bị gió nghiệp cuốn trôi trong luân hồi sinh tử. Từ một bản tâm bình thường thanh tịnh, trong sáng, vô ngã, vị tha, chúng ta kết thành ngã si, ngã ái, ngã chấp, để rồi khoát lên mình quan niệm, lý tưởng sống, mà cố chấp bảo vệ, nhằm mục đích phục vụ cho cái tôi này. Chính vì vậy, con người trở nên tàn nhẫn, độc ác hơn các loài vật. Con người là một chúng sinh cao cấp hơn hẳn các loài khác nhờ biết suy nghĩ tìm tòi, quán chiếu soi sáng lại chính mình, nên có thể dời núi lấp sông, vá trời lấp biển. Con người có thể tạo nên các tiện nghi vật chất đầy đủ để mưu cầu hưởng thụ cho riêng mình, nên bằng mọi cách vơ vét, gôm thâu, bành trướng thiên hạ để nắm quyền cai trị, nhằm hưởng lộc tối cao.
Chính cái gã sư tử đó ra vẻ dân chủ, bình đẳng lắm, nhưng thực chất chỉ là hạng lừa đội lốt sư tử mà thôi. Nào là văn minh, dân chủ, công bằng, tự do, nào là… vì lợi ích của nhân loại, hứa hẹn đủ thứ, để rồi trở thành con ma nhà họ hứa. Ai biết cách tâng bốc, chạy lòn phía sau thì công danh sự nghiệp lên như diều gặp gió. Ai thành tâm nói lên sự thật thì lãnh án khổ sai, lưu đày biệt xứ. Cuộc đời lúc nào cũng bị phủ lên lớp áo màu xanh, hy vọng đổi mới, phát triển, mở mang, nhưng chỉ trên danh nghĩa suông, mang tính cách hình thức, chỉ lợi ích riêng cho một số người.
Chúng ta phải làm thế nào để trở thành một người có đức hạnh và đạo đức? Muốn trở thành người có đức hạnh không phải đơn giản và dễ dàng, nó đòi hỏi người ấy đối với bản thân, phải luôn biết xét nét, nhìn kỹ lại chính mình để thấy được những lỗi nhỏ nhặt nhất, mà tìm cách khắc phục, chuyển hóa chúng. Người có đức hạnh phải biết làm chủ bản thân qua các cảm thọ, xúc chạm, để thấy biết rõ ràng sự thật nơi thân này. Biết cảm thông, bao dung và độ lượng, tha thứ cho những ai đã từng làm cho mình đau khổ tột cùng, luôn sống vì lợi ích chung, lấy niềm vui thiên hạ làm niềm vui chính mình. Ai sống được như vậy là người đức hạnh, đạo đức và đang đi trên con đường giác ngộ. Chúng ta hãy nên học theo hạnh lắng nghe của Bồ tát Quán Thế Âm, sẵn sàng chia vui, sớt khổ vì lợi ích tha nhân, sẵn sàng chấp nhận khổ đau để mọi người được an vui hạnh phúc.
Thế gian này có năm loài cùng chung ở, trong sáu nẻo luân hồi, nhưng con người là một chúng sinh cao cấp nhờ có suy nghĩ, nhận thức, phân biệt đúng sai. Nếu biết vận dụng đi theo chiều tốt đẹp thì không ai bằng và ngược lại thì vô cùng cực ác. Lịch sử nhân loại đã chứng minh cho chúng ta thấy rõ điều đó. Chỉ có con người tâm linh mới có đủ khả năng, giúp nhân loại vượt qua rào cản của si mê, tội lỗi nhờ có hiểu biết và thương yêu trong tinh thần bình đẳng. Ai làm người cũng phải một lần biết thao thức, trăn trở, nên mở rộng tấm lòng để cùng nhau kết nối yêu thương, sẻ chia cuộc sống.
Đời sống con người luôn song hành hai phần thân và tâm, tức thể xác và tinh thần. Nhưng đa số chúng ta chỉ chú trọng về phần vật chất cung phụng cho thân nhiều, mà quên lãng đi yếu tố tình thần. Tuy sống trong giàu có, tiện nghi mà lại nghèo nàn tâm linh, nên thường thất vọng, đau khổ. Lại có hạng người tuy giàu có, dư dả, nhưng lại sống khổ sở hơn người nghèo, vì họ chẳng dám ăn, dám xài, nói chi đem ra giúp đỡ cho người khác. Họ sống trong tham lam, ích kỷ, lao tâm, nhọc sức để tích chứa cho riêng mình.
Muốn cho xã hội được phát triển vững mạnh, lâu dài, con người cần phải làm giàu tri thức và đạo đức. Tri thức giúp ta phát triển xã hội, đạo đức giúp cho con người sống có hiểu biết và yêu thương hơn. Tri thức và đạo đức như đôi cánh chim tung bay khắp cả bầu trời rộng lớn, bồi đắp cho nhân loại sống có tình người, biết yêu thương, nương tựa vào nhau. Thiếu tri thức thì ta không thể giúp ích gì được cho ai, ngược lại, có tri thức mà không có nhân cách đạo đức thì ta dễ dàng bị tha hóa, tiêu cực, bởi sự hấp dẫn của tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon, mặc đẹp mà làm thiệt hại cho nhau. Con người là chủ nhân của bao điều họa phúc, bất hạnh hay an vui đều do chính mình tạo lấy. Chúng ta hãy vì tình thương của nhân loại mà cùng nâng đỡ và chia sẻ cho nhau. Con người hơn hẳn loài khác là có hiểu biết, có tri giác, nên ta dễ dàng cùng nhau chia vui, sớt khổ, thiết lập tình yêu thương chân thật, theo nhịp cầu tương thân, tương ái trong cuộc sống.