A. Kết cấu toàn thể của giáo nghĩa Chân Tông: Giáo, Hành, Tín, Chứng:
Tịnh Độ Chân Tông vốn là Tịnh Độ giáo
đối ứng với “Các giáo thuộc Thánh đạo”, thật ra là chỉ cho Tịnh Độ Tông
của ngài Nguyên Không (1133-1212). Về sau nó được dùng chỉ riêng cho
tông phái Tịnh Độ do ngài Thân Loan sáng lập. Tịnh Độ Chân Tông Nhật Bản
thường được gọi tắt là Chân Tông, nhân vì đề xướng “Chỉ nhất hướng
chuyên niệm Phật Vô Lượng Thọ”, trên lịch sử cũng đã từng được gọi là
Nhất Hướng Tông. Do vì ngài Thân Loan gọi tín đồ là “Ngự môn đồ chúng”
nên cũng gọi là Môn Đồ Tông. Đến thời cận đại (1872) mới chính thức gọi
là Tịnh Độ Chân Tông.
Trong tác phẩm “Giáo Hành Tín Chứng”,
ngài Thân Loan từ bốn phương diện Giáo, Hành, Tín, Chứng đã kiến lập hệ
thống giáo nghĩa của Tịnh Độ Chân Tông.
- Giáo tức là giáo pháp, thực ra là chỉ
kinh điển chủ yếu dùng để y cứ, cho rằng chỉ có Kinh Vô Lượng Thọ (gọi
tắt là Đại Kinh) mới là giáo chân thật của Phật, nghĩa là: “Đức Phật
Thích-ca xuất hiện ở thế gian tuyên dương giáo pháp cứu vớt quần sanh,
là tông thú của kinh, tức là lấy danh hiệu Phật làm tông chỉ của kinh”
(quyển 1). “Bản nguyện Như Lai” nói ở đây tức là nguyện thứ 18 trong 48
lời nguyện của Phật A-di-đà trước khi thành Phật. Nguyện thứ 18: “Nếu
tôi thành Phật, chúng sanh ở khắp mười phương chí tâm tin ưa muốn sanh
về nước tôi, thậm chí mười niệm, nếu chẳng được sanh thì tôi không
thành Chánh giác”. Nguyện này được gọi tắt là “Nguyện niệm Phật vãng
sanh”. Trong tác phẩm TUYỂN TRẠCH BẢN NGUYỆN NIỆM PHẬT TẬP, ngài Nguyên
Không luận chứng nguyện này là “Vãng sanh bản nguyện”. Nói “Niệm Phật”
tức là niệm danh hiệu “Nam mô A-di-đà Phật”. Ngài Thân Loan cho đây là
tông chỉ của kinh này.
Ngài Không Nguyên lấy “ba kinh, một
luận”(1) làm kinh điển y cứ chính. Ngài Thân Loan tuy kế thừa quan điểm
“Niệm Phật vãng sanh bản nguyện” của ngài Nguyên Không đối với Di-đà,
nhưng chỉ lấy Kinh Vô Lượng Thọ làm kinh điển y cứ chính, ở dưới tên
kinh này đặc biệt ghi chú “Giáo pháp chân thật, Tịnh Độ Chân Tông”.
- Hành tức là tu hành, thực ra là chỉ
cho nội dung tu hành, tức xưng niệm danh hiệu “Nam mô A-di-đà Phật”.
Ngài Thân Loan nói: “Xưng danh hiệu Vô Ngại Quang Như Lai (tức A-di-đà
Phật). Hạnh này nhiếp hết thảy các thiện pháp, đủ các cội gốc công đức,
rất mau viên mãn công đức nhất thật chân như quý báu mênh mông như
biển cả, nên gọi là đại hạnh” (quyển 2). Xưng danh niệm Phật là căn cứ
vào điều nguyện thứ 17 trong Kinh Vô Lượng Thọ: “Lúc tôi thành Phật, vô
lượng chư Phật ở thế giới khắp mười phương nếu chẳng ngợi khen danh
hiệu của tôi thì tôi không ở ngôi Chánh giác”. Ngài Thân Loan gọi
nguyện này là “nguyện chư Phật xưng dương”, “nguyện chư Phật ngợi
khen”, “nguyện tuyển trạch xưng danh”.
Chúng sanh niệm danh hiệu Phật có thể
đoạn trừ tất cả vô minh và sanh tử phiền não, thỏa mãn tất cả nguyện
vọng. “Xưng danh là chánh nghiệp tối thắng tối diệu. Chánh nghiệp đó là
niệm Phật”, “Một niệm tức là một tiếng, một tiếng tức là một niệm, một
niệm tức là một hạnh, một hạnh tức là chánh hạnh, chánh hạnh tức là
chánh nghiệp, chánh nghiệp tức là chánh niệm, chánh niệm tức là niệm
Phật, là Nam mô A-di-đà Phật” (quyển 2). Đây là lấy miệng xưng cùng tâm
niệm đồng thời khởi, dù chỉ trong tâm tưởng đến danh hiệu Di-đà cũng
kể là niệm Phật.
Trong TỊNH ĐỘ VĂN LOẠI TỤ SAO giảng
càng rõ hơn: “Một tiếng tức là xưng niệm, xưng niệm tức là ức niệm, ức
niệm tức là chánh niệm, chánh niệm tức là chánh nghiệp”. Do Phật A-di-đà
có bản nguyện nhiếp thủ tất cả chúng sanh niệm Phật vãng sanh Tịnh độ
Cực Lạc, cho nên “Thánh nhân lớn nhỏ, người ác nặng nhẹ” đều có thể nhờ
“sức bản nguyện” của Phật mà thông qua niệm Phật vãng sanh Tịnh độ,
“niệm Phật thành Phật”. Ngài nói: “Tha lực là nguyện lực của Như Lai”
(quyển 2).
Tự giải tự ngộ, tự tu công đức đều là
“tự lực”, Ngài cho rằng thời đại mạt pháp phải nhờ vào tha lực của Phật
Di-đà mới có thể vãng sanh giải thoát. Điều này tuy là chủ trương nhất
quán của Tịnh Độ giáo, nhưng ngài Thân Loan càng nhấn mạnh đến tín tâm
tuyệt đối vào tha lực của bản nguyện A-di-đà. Trên cơ sở đầy đủ tín tâm
này lại tu chánh niệm, chánh hạnh niệm Phật thì nhất định được vãng
sanh, thành Phật, đó là “chóng đến cõi nước quang minh vô lượng, chứng
đại bát niết-bàn” (quyển 2).
- Tín là chỉ cho tín tâm tuyệt đối với
điều nguyện thứ 18 (Vãng sanh bản nguyện) của Phật A-di-đà trong Kinh
Vô Lượng Thọ. Điều nguyện này của Phật A-di-đà là “Tuyển trạch bản
nguyện”, cũng gọi là “nguyện chí tâm tín nhạo”, “nguyện vãng tướng tín
tâm”, đây là một điều nguyện quan trọng nhất trong 48 lời nguyện của
Phật A-di-đà. Tin Phật một cách chí thành vô hạn, vui mừng phát nguyện
sanh về Tịnh độ Cực Lạc ở Tây Phương, tín tâm này tương thông với bản
nguyện của Phật A-di-đà, nhờ đó có thể nhờ vào tha lực của Phật mà vãng
sanh Tịnh độ, chứng đại niết-bàn. Vì thế, gọi tín tâm này là “đại tín
tâm”, là “phương thuốc trường sinh bất lão”, là “nghệ thuật xảo diệu
hân tịnh yếm uế”, là “trực tâm tuyển trạch hồi hướng”, là “tín nhạo lợi
tha sâu rộng”, là “chân tâm kim cương bất hoại”, là “tịnh tín dễ vãng
sanh mà không có người tu”…, là “con đường tắt thế gian khó tin”, là
“nhân chân chánh chứng đại bát niết-bàn” (quyển 3).
Về quan hệ Tín và Hành, Ngài nói: “Tín
tâm chân thật ắt có đủ danh hiệu, danh hiệu chưa chắc có đủ tín tâm vào
nguyện lực” (quyển 3), ý nói có tín tâm đối với Tịnh độ và nguyện lực
của Phật A-di-đà thì cũng là có đủ hạnh xưng niệm danh hiệu A-di-đà.
Nhưng chỉ niệm danh hiệu, không nhất định là có tín tâm này. Vả lại, tu
hạnh xưng danh niệm Phật chỉ là một cách sinh ra tín tâm, thông qua
xưng niệm danh hiệu có thể sanh ra tín tâm tuyệt đối đối với nguyện lực
của Phật A-di-đà.
Ngài Thân Loan dẫn Kinh Vô Lượng Thọ:
“Các chúng sanh nghe danh hiệu Phật A-di-đà tín tâm hoan hỷ”. Giải
thích: “Chúng sanh nghe bản nguyện của Phật sanh khởi lòng tin trước sau
không nghi, ấy gọi là nghe. Tín tâm nghĩa là tín tâm hồi hướng bản
nguyện lực” (quyển 3). Đây là do nghe nói đến nguyên nhân Phật A-di-đà
phát nguyện thì sẽ tin sâu chẳng nghi đối với “bản nguyện lực” của Phật
A-di-đà, nhờ đó mà có đủ tín tâm đối với tha lực Di-đà. Ngài cho rằng
cái nhân vãng sanh Tịnh độ không phải là hạnh xưng niệm danh hiệu Phật
mà chính là tín tâm, là tín cho nên nói: “Tín tâm là không hai tâm, nên
nói là nhất niệm, cũng gọi là nhất tâm, nhất tâm là nhân chân thật của
báo độ thanh tịnh”.
Một niệm vãng sanh tức là chuyên tâm.
Chuyên tâm tức là thâm tâm. Thâm tâm tức là thâm tín. Thâm tín tức là
kiên cố thâm tín. Kiên cố thâm tín tức là quyết định tâm. Quyết định tâm
tức là vô thượng tâm. Vô thượng tâm tức là chân tâm. Chân tâm tức là
tương tục tâm. Tương tục tâm tức là thuần tâm. Thuần tâm tức là ức
niệm. Ức niệm tức là chân thật nhất tâm. Chân thật nhất tâm tức là đại
khánh hỷ tâm. Đại khánh hỷ tâm tức là chân thật tín tâm. Chân thật tín
tâm tức là kim cương tâm. Kim cương tâm tức là tâm nguyện làm Phật. Tâm
nguyện làm Phật tức là tâm độ chúng sanh. Tâm độ chúng sanh tức là tâm
nhiếp thủ chúng sanh sanh về Tịnh độ An Lạc. Tâm này tức tâm đại
Bồ-đề. Tâm này là tâm đại từ bi. Tâm này do trí huệ quang minh vô lượng
sanh, cho nên nguyện hải bình đẳng. Nguyện hải bình đẳng nên phát tâm
bình đẳng. Phát tâm bình đẳng nên đạo bình đẳng. Đạo bình đẳng nên đại
từ bi bình đẳng. Đại từ bi bình đẳng là chánh nhân thành Phật” (quyển
3).
Một niệm muốn vãng sanh Tịnh độ Di-đà
chính là “chân thật tín tâm” của sự vãng sanh, chính là “tâm nguyện làm
Phật”…, là “chánh nhân thành Phật”. Một niệm có tính quyết định tức là
“nhất niệm tịnh tín”, là nguyên nhân căn bản của sự vãng sanh và thành
Phật. Về sau, trong nội bộ Chân Tông gọi đó là “tín tâm là gốc”.
Ngài Thân Loan còn chủ trương, sau khi
một người đã xây dựng được tín tâm đối với nguyện lực Di-đà vẫn phải
xưng niệm danh hiệu Di-đà. Sự xưng niệm này tuy chẳng phải là chánh nhân
đưa đến vãng sanh Tịnh Độ, nhưng là biểu thị sự báo đáp ân Phật, nên
Ngài nói: “Cần phải thường xuyên xưng niệm danh hiệu Như Lai để báo
đáp ân từ bi hoằng thệ của Phật A-di-đà” (quyển 2).
- Chứng tức là kết quả tu hành, là cảnh
giới đạt đến. Ngài nói, bất cứ người nào “không phân biệt sang hèn,
tăng tục, nam nữ, già trẻ, không luận tạo tội nhiều ít, tu hành bao lâu”
(quyển 3), chỉ cần có đủ tín tâm tuyệt đối với Tịnh độ và nguyện lực
của Phật A-di-đà, sau khi chết liền được “nhập vào hàng ngũ Đại thừa
chánh định tụ (tức là đạt đến địa vị Bất thoái chuyển của Bồ-tát). Vì
trụ chánh định tụ ắt đến diệt độ. Ắt đến diệt độ tức là thường lạc.
Thường lạc tức là tất cánh tịch diệt. Tịch diệt tức vô thượng niết-bàn.
Vô thượng niết-bàn tức pháp thân vô vi (quyển 4). Tịnh độ An Lạc là
“Vô lượng quang minh độ”, “chân báo Phật độ” (quyển 5). Vãng sanh Tịnh
Độ tức là đạt đến triệt để giải thoát thành Phật. Ngài Thân Loan minh
xác chủ trương vãng sanh tức là thành Phật.
Ngài Thân Loan cho rằng Kinh Quán Vô
Lượng Thọ (Quán Kinh, Ngài gọi là “Yếu môn”) và Kinh A-di-đà (Tiểu
Kinh, Ngài gọi là “Chân môn”) đều là Tịnh Độ giáo thuộc “phương tiện”,
“tự lực giả môn”. Chỉ có Kinh Vô Lượng Thọ mới là giáo chân thật tuyên
thuyết bản nguyện tha lực Di-đà. Nhưng Ngài lại nói: “Ba kinh đều do
Đức Phật Thích-ca tự thuyết”, “đều lấy kim cương tâm, chân tâm làm
trọng yếu. Chân tâm tức là đại tín tâm”, “đại cương của ba kinh này tuy
có nghĩa hiển bày và nghĩa ẩn mật, nhưng cũng đều nói tín tâm là động
cơ thể nhập” (quyển 6). Ba kinh đều nhất trí khuyên chúng sanh niệm
Phật và đều dạy dùng tín tâm để vãng sanh Tịnh độ. Vì thế dù đối với
Quán Kinh hay Tiểu Kinh cũng cần phải thấu qua văn tự mà nhận thức chân ý
ẩn tàng trong đó để kiến lập tín tâm tuyệt đối với nguyện lực Di-đà.
Năm 1255, ngài Thân Loan, sau khi trở
về kinh đô, trứ tác Ngu Ngốc Sao 2 quyển, Trong tác phẩm này, Ngài đề
xuất lý luận phán giáo của mình, tức là phân loại bình luận toàn bộ Phật
pháp. Ngài đem Phật pháp chia thành hai giáo: Đại thừa và Tiểu thừa.
Lại chia Đại thừa làm Nan hành đạo (tức là tự lực Thánh đạo môn) và Dị
hành đạo (tức là tha lực Tịnh độ môn). Tự lực Thánh đạo môn được chia
làm Tiệm giáo và Đốn giáo, Ngài lại dùng các từ vựng “Thụ”, “Hoành”,
“Thụ xuất”, Thụ siêu”, “Hoành xuất”, “Hoành siêu” để tiến hành bình
luận về toàn bộ Phật pháp.
- Thụ là chỉ cho trình tự tu hành trước sau cạn sâu.
- Hoành là không có trình tự thứ lớp.
- Xuất là xuất ly tam giới đạt đến giải thoát.
- Siêu là đạt ngay đến cảnh giới giác ngộ tối cao.
Ngài Thân Loan dùng “Thụ” đại biểu cho Thánh đạo môn, dùng “Hoành” đại biểu cho Tịnh Độ môn.
“Thụ xuất” là chỉ cho tiệm giáo trong
Thánh đạo môn như Pháp Tướng tông … chủ trương “quyền giáo” phải trải
qua nhiều kiếp tu hành.
“Thụ siêu” là chỉ cho đốn giáo trong
Thánh đạo môn như Hoa Nghiêm tông, Thiên Thai tông, Thiền tông … chủ
trương “thật giáo” ngay nơi thân này là Phật, ngay thân này thành Phật.
“Hoành xuất” là “tự lực phương tiện giả
môn” trong tha lực Tịnh Độ môn, chỉ cho giáo pháp nói phải tu thiện
công đức và chín phẩm vãng sanh trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ.
“Hoành siêu” là giáo pháp chân thật của
“tuyển trạch bản nguyện” trong tha lực Tịnh Độ môn, tức là giáo pháp
nói về vãng sanh báo độ trong Kinh Vô Lượng Thọ.
“Hoành xuất” là tiệm giáo trong Tịnh Độ
môn. “Hoành siêu” là đốn giáo trong Tịnh Độ môn. Sự phán giáo này đề
cao địa vị Kinh Vô Lượng Thọ và luận thuyết của Ngài Thân Loan về tín
tâm tuyệt đối đối với tha lực Di-đà là giáo thuyết căn bản của việc
vãng sanh thành Phật.
B. Tín tâm là gốc và vãng sanh thành Phật siêu việt thiện ác:
Lý luận thiện ác báo ứng rất phổ biến
trong truyền thống Phật giáo, cũng như giáo nghĩa có ảnh hưởng rất lớn
trong dân gian. Theo lý luận này, người hành thiện tích đức đời sau sẽ
được báo ứng tốt đẹp (sanh lên trời hoặc sanh vào nhà giàu sang ở nhân
gian), kẻ làm ác tạo tội bị báo ứng xấu (sanh làm súc sanh hoặc đọa địa
ngục…). Trong điều kiện lịch sử đương thời, lý luận này kết hợp với
luân lý của xã hội đưa đến tác dụng thưởng thiện phạt ác. Tại nội bộ
Phật giáo, lý luận thiện ác báo ứng là giáo nghĩa thuộc tầng bậc thấp
hướng đến số đông tín đồ bình dân. Ngoài ra, mỗi tông phái Tiểu thừa
hoặc Đại thừa còn có một hệ thống giáo nghĩa tu hành giải thoát mang
tính triết học tư biện ở tầng bậc sâu hơn. Tịnh Độ tông đem các giáo
phái và giáo nghĩa của Phật giáo trước đó gọi chung là Thánh đạo môn “tự
lực”, “nan hành”, đề cao vai trò của “chuyên tu niệm Phật” vãng sanh
Tịnh độ (giải thoát). Điều này tuy phủ định đối với các luận điểm sự tu
hành giải thoát của Phật giáo trước kia và thiện ác báo ứng, nhưng vẫn
chủ trương niệm Phật tiêu tội như đã nói: “Xưng niệm một tiếng Phật
liền trừ năm trăm vạn kiếp tội”. Tịnh Độ Chân Tông lại tiến thêm một
bước cho rằng vãng sanh (tức thành Phật) không có quan hệ gì đến hành
vi thiện ác, mà do tín tâm đối với nguyện lực Di-đà quyết định, nên cho
rằng niệm Phật tiêu tội thuộc về “tự lực” và phủ định nó.
Tư tưởng của Thân Loan cho rằng tín tâm
tuyệt đối đối với bản nguyện Di-đà là “nội nhân”, là “chân nhân”, là
“chánh nhân” vãng sanh thành Phật. Vãng sanh thành Phật đã do tín tâm
quyết định vậy thì không quan hệ gì đến thiện ác của cá nhân.
Ngài Thân Loan nói: “Bản nguyện Di-đà
không phân biệt người già, trẻ, kẻ thiện, ác. Phải biết tín tâm là cội
gốc. Mục đích của bản nguyện Di-đà là cứu vớt chúng sanh tội ác sâu
nặng, phiền não lẫy lừng. Nếu như tin bản nguyện Phật thì không cần
thiện hạnh khác. Không có thiện hạnh nào hơn niệm Phật. Chẳng cần sợ ác
hạnh, vì nó không ngăn ngại được bản nguyện Di-đà, làm trở ngại chúng
sanh ác hạnh vãng sanh” (THÁN DỊ SAO). “Người phát được nhất niệm hỷ ái
tâm (tức là tâm niệm nguyện vãng sanh Tịnh độ) chẳng đoạn phiền não mà
đắc niết-bàn”. (GIÁO HÀNH TÍN CHỨNG, quyển 2). “Bất luận người chết dù
thiện hay ác, hễ có tín tâm quyết định thì người ấy ắt trụ chánh định
tụ” (nghĩa là trụ Bất thoái chuyển, ngài Thân Loan giải là “tương đương
với Phật vị”) (MẠT ĐĂNG SAO).
Ngài Thân Loan chủ trương tín tâm vãng
sanh, nói cho cùng cũng là do Di-đà ban cho, vì tương thông với bản
nguyện Di-đà nên có sức bất tư nghì. Người có đủ tín tâm này, sau khi
chết thần thức có thể “hoành siêu ngũ thú, bát nạn”, “tức thì nhập vào
hàng ngũ Đại thừa chánh định tụ”, tức là vãng sanh thành Phật. Tín tâm
này cũng một loại với bản nguyện Di-đà đã siêu việt thiện ác, chính tà
của xã hội thế gian. Niệm Phật được xây dựng trên cơ sở tín tâm này là
“phi thiện, phi ác, phi đốn, phi tiệm, phi định, phi tán, phi chánh
quán, phi tà quán, phi hữu niệm, phi vô niệm, phi bình thường, phi lâm
chung, phi đa niệm, phi nhất niệm, chỉ là niềm tin chẳng thể nghĩ bàn,
chẳng thể lường, chẳng thể nói”. (GIÁO HÀNH TÍN CHỨNG, quyển 3). “Niệm
Phật lấy vô nghĩa làm nghĩa, chẳng thể lường, chẳng thể nói, chẳng thể
nghĩ bàn” (THÁN DỊ SAO).
Ngài Thân Loan có lúc gọi pháp Niệm
Phật vãng sanh tin tuyệt đối vào tha lực này là “tự nhiên pháp nhĩ”
(MẠT ĐĂNG SAO). Mục đích của giáo thuyết này là để củng cố vững vàng
lòng tin của chúng ta đối với Phật A-di-đà cùng bản nguyện Tịnh độ của
Ngài, mà không cần phải lo nghĩ đến dĩ vãng của mình và các hành vi
thiện ác từ nay về sau. Ngài Thân Loan thậm chí còn nói: “Hành giả có
đủ tín tâm thì thiên thần địa kỳ kính phục, ma giới ngoại đạo chẳng thể
chướng ngại, tuy có tội ác cũng chẳng thể thọ nghiệp báo”, “dẫu giết
vạn người cũng có thể vãng sanh” (THÁN DỊ SAO). Cho rằng hành vi thiện
ác là do nghiệp đời trước quyết định, làm thiện không trợ giúp cho việc
vãng sanh, làm ác cũng không chướng ngại vãng sanh. Theo các tài liệu
để lại ([1]) có một số tín đồ căn cứ vào lời nói này rồi “chuyên ỷ lại
bản nguyện”, tuyên truyền “tạo ác vô ngại”. Ngài Thân Loan phản đối bọn
người này, và Ngài nói, làm ác sẽ làm chướng ngại người khác niệm
Phật, sẽ bị luật pháp của Nhà Nước trừng trị và người đời phản đối, còn
đối với Chân Tông thì “như trùng trên thân sư tử trở lại ăn thịt sư
tử”.
Ngài Thân Loan chú trọng vào tín ngưỡng
tuyệt đối với tha lực bản nguyện Di-đà, nên xếp pháp tu “niệm Phật
tiêu tội” vào loại tu hành “tự lực”, cũng là biểu thị sự phản đối của
Thân Loan đối với quan điểm “niệm một tiếng Phật tiêu tán mười ức kiếp
tội nặng”. Ngài cho rằng quan điểm này không làm cho chúng ta kiến lập
được tín tâm vãng sanh, nên vẫn thuộc về tin “tâm của tự lực”, chứ
“chẳng phải tín tâm của tha lực”. Ngài nói nếu như tin ở bản nguyện
“nhiếp thủ chẳng bỏ” của Di-đà, thì dù cho “phạm nhiều tội nghiệp lúc
lâm chung không niệm Phật cũng có thể cấp tốc vãng sanh”. Ngài còn
nói, người đã có tín tâm đối với bản nguyện Di-đà “một đời niệm Phật
chỉ vì báo ân Như Lai, cảm tạ ân đức Như Lai”. Từ quan điểm này, chúng
ta có thể thấy sự khác biệt của Chân Tông và Tịnh Độ Tông của ngài
Nguyên Không chủ trương “niệm Phật càng nhiều càng tốt”.
C. Kẻ ác là đối tượng chánh của pháp môn này:
Không luận là Tịnh Độ tông Trung Quốc
hay Nhật Bản đều nhấn mạnh “kẻ ác” có thể thông qua niệm Phật mà sau
khi chết vãng sanh Tịnh độ. Trong giáo thuyết của Phật giáo có thập
thiện tương đương với các nguyên tắc luân lý thế gian, đó là “chẳng sát
sanh, chẳng tà dâm, chẳng trộm cắp, chẳng nói dối, chẳng nói lời chia
rẽ, chẳng nói lời thô ác chửi rủa, chẳng nói lời ngọt ngào dụ dỗ người
khác, chẳng tham dục, chẳng giận hờn, chẳng tà kiến” (không tin nhân
quả và các lời Phật dạy khác), trái ngược với mười điều vừa kể trên là
thập ác. Người nào làm thập thiện được gọi là “người thiện”, kẻ nào vi
phạm bị gọi là “kẻ ác”. Mức độ vi phạm thập thiện bất đồng nên mức độ
làm ác của kẻ ác cũng khác, tội ác nặng nhất là kẻ ác phạm tội “ngũ
nghịch”, tức là giết cha, giết mẹ, giết A-la-hán, hại Phật, phá hoại
Tăng đoàn. Kẻ mà Tịnh Độ tông gọi là “phàm phu tội ác sinh tử”, “nhất
thiết phàm phu tạo tội” là chỉ chung cho kẻ phạm tội thập ác, ngũ
nghịch, cũng gọi là “kẻ ác”. Cũng có lúc gọi riêng kẻ phạm tội ngũ
nghịch là “người mang tội nặng ngũ nghịch”, “kẻ cực ác thấp hèn nhất”.
Tịnh Độ tông chủ trương tất cả kẻ ác
phạm tội nặng nhẹ đều có thể thông qua niệm Phật mà diệt tội vãng sanh
Tịnh độ (Xem TUYỂN TRẠCH BẢN NGUYỆN NIỆM PHẬT TẬP). Tịnh Độ tông nói
“kẻ ác”, “phàm phu tội ác” thực tế là chỉ cho những hạng người trong các
tầng lớp xã hội như nông dân, ngư dân, thợ săn, võ sĩ cho đến cả giai
cấp thống trị. Những hạng người này là đối tượng của Tịnh Độ tông.
So với Tịnh Độ tông, Tịnh Độ Chân Tông
càng xem trọng truyền giáo trong quảng đại quần chúng ở hạ tầng, lấy
tất cả “phàm phu”, “kẻ ác” làm đối tượng tranh thủ. Về phương diện này,
thuyết “ác nhân chánh cơ” của Thân Loan rất đặc sắc. Trong THÁN DỊ SAO,
ngài Thân Loan nói: “Người thiện còn có thể vãng sanh hà huống kẻ ác!”
Nhưng người đời thường nói: Kẻ ác còn có thể vãng sanh hà huống người
thiện. Lời nói này tuy thấy dường như hữu lý, nhưng ý thì trái với tha
lực bản nguyện. Bởi vì người tự lực làm thiện, không có tâm nương nhờ
vào tha lực, chẳng phải được nguyện lực Di-đà nhiếp thủ, nhưng nếu như
đột nhiên người ấy hiểu ra và bỏ tâm tự lực mà nương nhờ vào tha lực
bản nguyện Di-đà thì chắc chắn vãng sanh về báo độ chân thật. Chúng ta
có đủ thứ phiền não, tu hành cỡ nào cũng đều chẳng thể thoát ly sanh
tử. Di-đà xót thương, bản ý phát nguyện rộng lớn của Ngài chính vì
khiến kẻ ác thành Phật. Như vậy, kẻ ác tin tưởng dựa vào tha lực vốn là
chánh nhân vãng sanh, cho nên nói “người thiện còn có thể vãng sanh hà
huống kẻ ác”.
Trong KHẨU TRUYỀN SAO quyển hạ của Giáo
Như (1270-1351) có dẫn lời của Như Tín (1239-1300) giải thích câu:
“người thiện còn có thể vãng sanh hà huống kẻ ác” như sau:
“Phàm phu ác là chánh, phàm phu thiện
là phụ. Phàm phu thiện thuộc đối tượng phụ còn có thể vãng sanh thì
phàm phu ác thuộc đối tượng chánh há chẳng thể vãng sanh ư? Cho nên nói:
Người thiện còn có thể vãng sanh hà huống kẻ ác”.
Những điều trích dẫn trên có mấy tầng ý nghĩa như sau:
1. Chân Tông chủ trương “tín tâm là
gốc”, hễ có tín tâm đối với tha lực bản nguyện Di-đà tất nhiên có thể
vãng sanh thành Phật, bất luận là người có tín tâm ấy là người thiện
hay kẻ ác.
2. Người thiện do vì tự ỷ lại hành
thiện, chứa nhóm công đức, cho rằng có thể dựa vào chính mình tu hành
đạt đến giải thoát mà chẳng tin vào bản nguyện tha lực Di-đà (không có
tâm nương nhờ tha lực), nên chẳng phải là đối tượng của Phật Di-đà phát
nguyện cứu độ. Nếu như người ấy thay đổi, trở lại tin tha lực bản
nguyện Di-đà thì cũng có thể vãng sanh thành Phật.
3. Kẻ ác không thể dựa vào tự lực tu
hành đạt đến giải thoát, duy có lòng tin chân thật và nương nhờ vào
tha lực bản nguyện Di-đà, kẻ ấy mới có thể giải thoát, vì thế nên kẻ ác
mới là đối tượng mà Phật Di-đà phát nguyện cần phải cứu độ.
4. Do vì kẻ ác là đối tượng chính
của việc vãng sanh, còn người thiện là đối tượng phụ, vì là người phụ
thuộc, nên người thiện nếu có thể vãng sanh thì kẻ ác càng có thể vãng
sanh.
Ý nghĩa của quan điểm lấy kẻ ác làm đối
tượng chính vãng sanh là: Tịnh Độ Chân Tông lấy quần chúng bình dân
trong xã hội bao quát nông dân, ngư dân, thợ săn, cho đến lái buôn, võ
sĩ làm đối tượng, những người này trong hoạt động sản xuất nuôi, trồng,
săn bắn, không thể không làm tổn thương hoặc giết hại sinh linh, vả lại
đại đa số những người nghèo khổ, không có văn hóa, không có điều kiện
bố thí tiền của, cất chùa, dựng tháp …, hoặc không có năng lực, không
có thời gian hành thiện tu hành, theo quan điểm của truyền thống Phật
giáo thì phần đông họ là “kẻ ác”. Ngài Thân Loan đặt mình vào hàng ngũ
“kẻ ác”, Ngài thường tự xưng “ngu ngốc”, “cấu chướng phàm ngu”, “người
mang đủ thứ phiền não”, “tội nhân” … Đây là cách Ngài tiếp cận dân
chúng, cũng làm cho giáo thuyết của Ngài dễ dàng được dân chúng tiếp
nhận. Ngài cũng đã từng nói với các đệ tử: Các nghề nghiệp người đời
làm “ở sông biển thì giăng lưới thả câu, ở núi rừng thì săn bắn chim
thú để tự nuôi sống hoặc buôn bán, làm ruộng để sinh nhai” đều là do
nghiệp nhân đời trước quyết định. Các hành vi thiện ác của chúng ta đều
do túc nghiệp (nghiệp nhân đời trước) quyết định, nhưng vãng sanh Tịnh
độ thành Phật là do tín tâm đối với nguyện lực Di-đà quyết định. Có
tín tâm này thì có thể “Chẳng đoạn phiền não mà thành Phật”.
Ngài phê bình người truyền pháp chủ
trương chỉ có người thiện mới có thể niệm Phật vãng sanh, ở tại đạo
tràng dán thông cáo không cho một số người làm nghề nghiệp nào đó được
vào, Ngài cho đây là “ngoài hiện tướng tinh tấn hiền thiện mà bên trong
giả dối” (THÁN DỊ SAO). Giáo thuyết của ngài Thân Loan đem lại hy vọng
vãng sanh và thành Phật cho số đông dân chúng ở tầng lớp thấp kém
trong xã hội. Phương pháp tu hành lại giản đơn dễ thực hành, cho nên
mau chóng có được rất đông tín đồ trong dân chúng tầng lớp dưới như
nông dân, ngư dân … quy y. Tịnh Độ tông Trung Quốc và Nhật Bản trước
kia, tuy cũng có nói đến kẻ ác có thể vãng sanh giải thoát, nhưng do
chịu sự chế ước của nguyên văn kinh điển Tịnh Độ tông và quan niệm luân
lý truyền thống của xã hội, ảnh hưởng của giáo nghĩa Phật giáo vốn sẵn
có, nên vẫn cho rằng người thiện vãng sanh là đối tượng chánh. Trong
QUÁN NIỆM PHÁP MÔN, ngài Thiện Đạo (613-681) nói: “Tất cả phàm phu tội
ác còn nhờ tội diệt mà được vãng sanh, hà huống Thánh nhân (chỉ cho
người tu hành đắc đạo hoặc người thiện) nguyện sanh mà không được vãng
sanh ư?”
Ngài Nguyên Không (1133-1212) cũng nói
tương tự như thế, HẮC CỐC THƯỢNG NHÂN NGŨ ĐĂNG LỤC quyển 14 ghi: “Kẻ
phạm tội thập ác ngũ nghịch có tín tâm còn được vãng sanh, thì người
phạm tội nhẹ do đây suy ra mà biết. Kẻ tội ác còn có thể vãng sanh hà
huống người thiện!”
Các Ngài lấy “Thánh nhân”, “người
thiện” là đối tượng chánh, làm chủ thể việc vãng sanh, kẻ ác là đối
tượng phụ, là phụ thuộc. Do vì trọng điểm truyền giáo của ngài Thân Loan
là quảng đại quần chúng ở hạ tầng xã hội, nên Ngài cải biến quan điểm
của các ngài Thiện Đạo, Nguyên Không, đề xuất thuyết “Kẻ ác là đối
tượng chính của việc vãng sanh”. Ngoài ra, dùng giáo nghĩa này để
truyền giáo cũng tự nhiên có tác dụng hấp dẫn giai cấp võ sĩ lấy chinh
chiến sát phạt làm sự nghiệp.
Tịnh Độ Chân Tông sau khi sáng lập liền
phát triển nhanh chóng, từ thế kỷ 15 về sau trở thành một tông phái
lớn mạnh có nhiều tín đồ nông dân. Do đó, trong các sách viết về lịch sử
Phật giáo đều xem Tịnh Độ Chân Tông là một tông phái Phật giáo độc
lập.
(Trích dịch từ NHẬT BẢN PHẬT GIÁO SỬ của Dương Tăng Văn)
Cs.Định Huệ (dịch)
Trích: Tập san Suối Nguồn 10
____________
(1) * Ba kinh: Vô Lượng Thọ Kinh, Quán Vô Lượng Thọ Kinh, A-di-đà Kinh.
* Một luận: Vãng Sanh Luận của ngài Thế Thân.
(1) Xem thư đáp Từ Tín Phòng (trong THÂN LOAN THÁNH NHÂN NGỰ TIÊU TỨC TẬP).