Tất cả chư Phật Như Lai, không vị
nào không khuyên người cầu sinh Tịnh Độ. Các vị đều không chút lòng
riêng tư, không chút tâm thiên lệch mong muốn chúng ta mau chóng thành
Phật. Phương pháp thù thắng nhất chính là cầu sinh Tây Phương tịnh độ,
nhanh hơn so với bất cứ pháp môn nào, thù thắng ngay trong thù thắng.
Thế nhưng, thực tế có một số người nghiệp chướng sâu nặng nên không tin
tưởng. Phật Bồ Tát cũng từ bi, tùy hỷ dạy pháp môn khác mà chúng ta
thường gọi “tám vạn bốn ngàn”. Vậy “tám vạn bốn ngàn”
là gì? Là do không tin tưởng pháp môn này, không tình nguyện học tập,
không muốn cầu sinh Tây Phương Cực Lạc, chư Phật liền mở ra tám vạn bốn
ngàn pháp môn. Phật mở ra vô lượng pháp môn vì những người nghiệp chướng
sâu nặng.
Tường tận thông suốt đạo lý này chúng ta
mới cảm nhận sự may mắn khi gặp được pháp môn của Phật, nhất định sẽ
không xả bỏ, không nghi hoặc, mà một môn thâm nhập, tuyệt đối không động
tâm. Với pháp môn khác, chúng ta có thể tán thán nhưng không cùng học.
Thiện Tài Đồng tử có năm mươi ba lần tham học, pháp môn nào ngài cũng
tham quan, cũng đều lướt qua. Thế nhưng ngài không học theo mà chân
thành niệm Phật cầu sinh Tịnh Độ. Cuối cùng ngài cũng về được thế giới
Tây Phương Cực Lạc.
“Thọ dụng cụ túc đệ thập cửu”
Phẩm kinh này giới thiệu với chúng ta từ
dung mạo đoan chính trang nghiêm, phước đức vô lượng, trí tuệ thông
suốt, thần thông tự tại, tuổi thọ dài lâu, cho đến hoàn cảnh sinh hoạt
thường ngày của người ở thế giới Tây phương Cực lạc. Đó là đích đến mà
tất cả chúng sinh trên thế gian ngày đêm đang mong cầu. Nếu cầu phước,
cầu trí tuệ, tự tại, thọ mạng, thì thế giới cực lạc mới được viên mãn.
Chúng ta không thể cầu được ở thế giới này. Trong tám khổ có “cầu
bất đắc khổ”, sau khi đã cầu chúng ta vẫn khổ. Người thế giới Tây
Phương cực lạc không hề có ý niệm như vậy, tất cả đều tự nhiên, đều lưu
xuất từ tánh đức, cho nên thân tâm của chánh báo thanh tịnh quang minh, y
báo phước đức thù thắng, như trên đã nói “siêu thế hy hữu”.
Trong kinh, Thế Tôn nói pháp phương tiện khéo léo, tuy nói nhưng “ứng
niệm hiện tiền, vô bất cụ túc”. Người thế gian thường hay nói “tâm
nghĩ sự thành”, nếu không chú tâm, chăm chỉ nỗ lực, sự việc không
thể thành. Thế giới Tây Phương cực lạc cũng vậy, vừa nghĩ đến thì liền
thành tựu.
“Phục thứ cực lạc thế giới, sở
hữu chúng sanh”
Cái “sở hữu” này ý nghĩa rất
dài, phía sau kinh văn có câu “hoặc dĩ sanh, hoặc hiện sanh, hoặc
đương sanh”. “Dĩ sanh” là đã sanh đến thế giới Tây Phương
cực lạc của Phật A Di Đà, thành Phật đã mười kiếp. “Hiện sanh”
là hiện tại sanh đến thế giới Tây Phương cực lạc. “Đương sanh”
chính là chúng ta, hiện tại chưa đi nhưng chắc chắn sẽ đi. “Đương
sanh” là sự khẳng định đương nhiên. Khi chính mình hạ quyết tâm,
không chút nghi ngờ cũng không lo nghĩ đã tạo nghiệp gì trong đời quá
khứ, hiện tại thì chỗ “đương sanh” này, chúng ta sẽ có phần.
Sau khi gặp được pháp môn, chỉ nghĩ đến Phật A Di Đà, không nên nghĩ
những thứ khác. Trong kinh Đại thừa, đức Phật thường nói “niệm một
câu Nam mô A di đà Phật tiêu hết tám mươi ức kiếp sinh tử trọng tội”.
Chúng ta niệm có thể tiêu được hay không? Không thể! Khi chúng ta niệm “đau
mồm rát họng chỉ uổng công”. Vậy phải như thế nào khi niệm mới có
sức mạnh lớn như vậy? Chính là người không có chút lòng nghi hoặc, trong
tâm ngoài Phật hiệu không có bất cứ một tạp niệm nào. Niệm được như vậy
sẽ tiêu hết tám mươi ức kiếp sinh tử trọng tội. Không nên khởi vọng
tưởng, thậm chí thế gian pháp, chúng ta cũng không nghĩ đến, không nghĩ
quá khứ không nghĩ hiện tại cũng không nghĩ tương lai mà chỉ nghĩ “A
Di Đà Phật”, chỉ nghĩ kinh Vô Lượng Thọ, như vậy mới tiêu được tám
mươi ức kiếp sinh tử trọng tội. Chỉ cần khởi một vọng niệm, công phu
của chúng ta hoàn toàn bị phá hỏng. Do đó phải triệt để buông bỏ, vạn
duyên buông bỏ, đương sanh ngay trong một đời này nhất định thành tựu,
nhất định vãng sanh.
“Giai đắc như thị, chư diệu sắc
thân, hình mạo đoan nghiêm, phước đức vô lượng, trí tuệ minh liễu, thần
thông tự tại”
Câu “giai đắc như thị, chư diệu sắc
thân” là tổng thuyết. Diệu sắc thân chính là “hình mạo đoan
nghiêm”. Chúng ta đã đọc phần trước bài kinh, sinh đến thế giới Tây
Phương cực lạc, thế giới đó là hóa thân, không phải là thai sinh nên
rất khó tưởng tượng. Người thế gian luôn từ nhỏ lớn dần tuổi tác theo
thời gian, mỗi năm đều thay đổi. Trong khi đó, thế giới Tây Phương không
như vậy. Thân người ở thế giới Tây Phương hoàn toàn giống đức Phật A Di
Đà, giống từ tướng mạo thân thể đến phước đức vô lượng. Tuổi thọ ở ngay
trong phước đức, tuổi thọ là phước đức đệ nhất, là vô lượng thọ, trí
tuệ thông suốt, viên mãn.
Quá khứ, hiện tại, vị lai, quá khứ vô
cùng, tương lai vô tận, cõi này phương khác, tất cả các pháp không gì là
khó thông đạt. Kinh Hoa Nghiêm và kinh Lăng Nghiêm cũng đã nói qua vấn
đề này. Trước đây chúng tôi cũng thường hay giảng “chư pháp sở sanh”,
chư pháp là tất cả pháp thế xuất thế gian, sanh là sanh khởi. Tất cả
pháp từ đâu mà ra?, đức Phật nói “do tâm hiện ra”, tâm đó là tự
tánh, là chân tâm của chúng ta. Chúng ta “minh tâm kiến tánh”
thì làm sao không biết được tác dụng của tâm tánh. Hư không, vũ trụ, vô
lượng vô biên tinh cầu, và tất cả chúng sanh từ đâu mà ra?, từ trong tự
tánh của chúng ta biến hiện ra. Khi minh tâm kiến tánh rồi, đương nhiên
thứ gì cũng thông suốt tường tận, không cần phải học.
Đức Phật nói “sở tri chướng”,
cái sở tri chướng này đã chướng ngại chúng ta, vốn dĩ chúng ta phải biết
nhưng hiện tại lại không biết. Cho nên ý nghĩa của “sở tri chướng”
và “phiền não chướng” không giống nhau. Bản thân phiền não là
chướng ngại, còn sở tri thì không chướng ngại. Có loại chướng ngại chúng
ta nhận biết, nhưng không phiền não. Tất cả chúng sinh đều có “trí
tuệ đức tướng Như Lai”, nhưng vì sao hiện tại chúng ta không có trí
tuệ thông suốt này? Kinh Phật thường nói, các tổ sư đại đức cũng thường
nói: “sở tri chướng” là do khởi tâm động niệm. Kinh Lăng
Nghiêm, tôn giả Phú Lâu Na hỏi rất hay: “tất cả chúng sinh có vô
minh, vô minh bất giác sinh ba cõi, vậy vô minh này có từ lúc nào, do
nguyên nhân gì mà ra?”. Đức Phật đáp cũng rất diệu: “vô minh
chính là sở tri chướng”, “tri kiến lập tri là vô minh bổn”. Tri
kiến chính là trí tuệ thông suốt. Sai sót chính ở chúng ta muốn lập tri.
Lập tri là phân biệt, khởi tâm động niệm, liền chướng ngại trí tuệ
thông suốt.
Chư Phật Như Lai thường ở trong định,
không phải ngồi xếp bằng tĩnh tọa như người thường vẫn nghĩ. Trong định
chính là tâm định, không kể đến thân, “đi đứng nằm ngồi” đều
trong định, đó mới gọi là thiền định. Định là không khởi tâm, không động
niệm, không phân biệt, không chấp trước. Định sinh huệ, tác dụng của
định chính là trí tuệ thông suốt. Chúng ta không có trí tuệ bởi vì tâm
động. Cho nên, nếu muốn cầu trí tuệ, không khó, chúng ta chỉ cần tận lực
giữ gìn tâm, không để cho cảnh giới bên ngoài xoay chuyển, phiền não
dao động. Chúng tôi thường khích lệ các vị đồng tu bằng mười sáu chữ cần
buông bỏ “tự tư tự lợi, danh vọng lợi dưỡng, năm dục sáu trần, tham
sân si mạn”. Sau khi buông bỏ, chúng ta liền ở ngay trong định.
Tuy định này không sâu nhưng có thể sinh trí tuệ. Có công phu thì khi mở
bất cứ kinh điển gì, chúng ta sẽ không có chướng ngại, mà trên tinh
thần “nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa” như kệ khai kinh đã
nói, mặc dù dĩ nhiên sự hiểu của chúng ta vẫn chưa đủ sâu, chưa đủ viên
mãn. Tuy nhiên, sự hiểu đó lại chính xác, không sai, vì khi đó, chúng ta
đã có sức định.
Nếu không buông bỏ mười sáu chữ vừa nêu,
một chút định cũng không có, thì không những đức Phật giảng chúng ta sẽ
không hiểu, mà chú giải của tổ sư chúng ta xem cũng không hiểu. Sở tri
chướng ở ngay đó. Tâm càng thanh tịnh, trí tuệ càng lớn. Lời nói của cổ
đức rất có đạo lý: tu hành Phật pháp chính là một chữ “buông”.
Buông bỏ, từ sơ phát tâm đến quả vị Như Lai không hề khác biệt. Buông bỏ
một phần, chúng ta liền có thể nhìn thấu một phần, nhìn thấu là trí tuệ
thông suốt. Chúng ta liền có thể được một phần tự tại, thần thông tự
tại, đều có thể có được người của thế giới Tây Phương cực lạc, vi diệu
không thể nói hết.
Chữ “đương sanh” rất vi diệu.
Ngày nay, chúng ta hạ quyết tâm tu Tịnh Độ, một lòng một dạ, đó chính là
đương sanh, ngay đời này nhất định sẽ không còn luân hồi, nhất định
được sinh Tịnh Độ. Bản thân tràn đầy tín tâm, sinh đến thế giới Tây
Phương cực lạc những thứ này thảy đều có được, thậm chí còn viên mãn. Bồ
Tát Thất Địa tiếp cận viên mãn, lên trên Bát Địa, Cửu Địa, Thập Địa
Đẳng Giác đều viên mãn. Ngôi thứ năm chính là quả vị Như Lai cứu cánh.
Lý do của việc lựa chọn pháp môn
niệm Phật
Vừa rồi đến Trung Quốc, chúng tôi gặp
rất nhiều vị đồng tu Phật giáo trách móc rằng tại sao chúng tôi chỉ
tuyên dương pháp môn Tịnh Độ mà không nói đến các pháp môn khác. Họ lo
lắng chẳng lẽ tương lai chỉ có Tịnh Độ, còn các tông phái khác đều không
có.
Kỳ thật họ không hiểu cách thức giảng
kinh. Giảng bộ kinh nào, nhất định phải tán thán bộ kinh đó. Chúng tôi
giảng Tịnh Độ mà lại tán thán Thiền chẳng phải làm trò cười hay sao? Đây
là một nguyên tắc cơ bản. Bất cứ tông phái nào, khi giảng giải, chúng
ta phải tán thán để người nghe mới có thể sinh tín tâm, có thể thọ dụng,
y giáo phụng hành, chân thật được lợi ích.
Trước đây, một nữ tu của Thiên Chúa Giáo
cho biết cô rất thích nghe chúng tôi giảng Mai Quế Kinh ở trường. Chúng
tôi cũng đã hứa sẽ tìm thời gian thích hợp, cố gắng giảng qua một lượt
trong phòng thu rồi tặng các vị phổ biến bên Thiên Chúa Giáo. Khi giảng
Mai Quế Kinh, chúng tôi cũng tán thán Thiên Chúa Giáo, tán thán GiêSu,
không thể so sánh họ không bằng đức Phật A Di Đà. Cho nên chúng ta cần
hiểu, đây là qui củ của giáo học. Không luận giảng bộ kinh điển nào,
không luận giảng pháp môn gì, nhất định phải tán thán. Chúng ta gặp đệ
tử Phật môn tu học pháp môn tông phái khác, đều tán thán, không nên hủy
báng, xem thường.
Trong “Du Già Bồ Tát giới bổn”,
có một điều trọng giới, “khen mình chê người”, dường như xếp ở
điều thứ nhất. Trọng giới thứ nhất là tán thán chính mình, hủy báng các
tông phái khác. Tất cả pháp môn có trong nhà Phật không luận Đại thừa,
Tiểu thừa, tông môn giáo hạ, hiển giáo mật giáo, kinh điển mà chúng ta y
theo đều là Thích Ca Mâu Ni Phật nói. Nếu hủy báng kinh điển là báng
Phật báng pháp. Có không ít người y theo pháp môn này tu hành thành tựu,
chẳng phải như vậy là báng cả tăng sao? Cho nên có thể tán thán chính
mình nhưng không được hủy báng Tam Bảo, vì hủy báng Tam Bảo, quả báo địa
ngục A Tỳ, không thể vãng sinh.
Người tu Tịnh Độ chúng ta đối với bất kỳ
tông phái nào cũng đều tán thán. Chúng ta cung kính Tam Bảo, không
những tán thán Tam Bảo, mà cần tán thán cả các tôn giáo khác. Mặc dù tôn
giáo không giống nhau, nhưng họ đều “do tâm hiện ra, do thức hiện
bày”. Chúng ta và họ đồng một gốc, đồng một nguồn cội, đồng một tự
tánh, vì vậy không nên xem thường, hủy báng. Không tường tận đạo lý này,
thì việc học Phật chỉ là học suông, Phật hiệu cũng là niệm suông, làm
sao có thể thành tựu. Thích Ca Mâu Ni Phật năm xưa còn ở đời, đối với
rất nhiều tôn giáo khác của Ấn Độ, Thế Tôn không hề hủy báng, không hề
xem thường. Chúng ta cũng nên theo đó mà học. Căn tính tuy không giống
nhau, không luận thuộc tôn giáo nào cũng đều khuyên người làm thiện,
lánh ác.
Thời đại này là loạn thế, tai nạn triền
miên, chúng ta trải qua ngày tháng rất khổ đau. Mọi người trên toàn thế
giới bất luận tôn giáo, chủng tộc, quốc gia đều một mong cầu khẩn thiết “xã
hội an định, thế giới hòa bình”. Do đó, những năm gần đây, chúng
tôi ở Singapore, Úc Châu vẫn đang tiếp tục làm công tác đa nguyên văn
hóa, đoàn kết tôn giáo, chủng tộc, hóa giải hiểu lầm, xung đột, hy vọng
mọi người toàn tâm toàn lực cống hiến vì an định xã hội, thế giới hòa
bình.
Chúng tôi có đưa ra tổng cương lĩnh gói
gọn trong tám chữ “đối đãi bình đẳng, hòa thuận cùng sống”.
Không nên phân tôn giáo, không phân chủng tộc, không phân quốc gia,
không phân văn hóa, cũng không phân giàu nghèo sang hèn, chúng ta đều
mong cầu đối đãi bình đẳng với nhau, hòa thuận cùng sống. Ngoài ra chúng
tôi còn có năm cụm từ mười chữ “bao dung, tôn trọng, kính yêu, quan
tâm, chăm sóc”. Sau cùng tổng kết lại, chúng ta “hợp tác lẫn
nhau”. Chỉ với mấy câu như vậy, chúng tôi đi khắp nơi trên thế
giới, đến đâu cũng khuyên mọi người thực tiễn triệt để, bản thân quyết
làm được, sau đó tiến thêm một bước yêu cầu người trong đạo tràng làm
được, dần dần yêu cầu người trong thị trấn nhỏ thảy đều làm được
Chúng tôi ở Úc châu trong một trấn nhỏ
chỉ có tám ngàn người đều làm thành công, vì mỗi cá nhân đều có lòng tự
trọng, đều hy vọng trấn nhỏ này trở thành trấn mô phạm bình đẳng, đối
đãi hòa thuận. Chúng tôi dự đoán khoảng vài năm nữa, trấn nhỏ này sẽ trở
nên nhất nhì thế giới về hòa bình an định. Người dân xem người già như
cha mẹ mình, xem người trẻ như con em ruột thịt mà tôn trọng, kính yêu,
quan tâm, chăm sóc lẫn nhau.
Xây dựng thế giới hòa bình là việc không
dễ dàng. Hội nghị hòa bình của Liên Hiệp Quốc tổ chức ở Thái Lan vừa
qua, sau khi tham gia, chúng tôi cảm thấy không thực tiễn. Từ đó mới
thấy, thật may mắn khi ở Toowoomba hình thành một mô phạm hòa bình, mà
người Trung Quốc gọi là kiểu mẫu. Đó chính là mở rộng của thôn Di Đà,
trấn nhỏ này đầy đủ điều kiện thiên nhiên, cư dân bao gồm hai loại
người: trí thức, đa số có trình độ văn hóa rất cao, chiếm một phần tư
nhân khẩu; ba phần tư còn lại phần lớn đã về hưu, và người về hưu ở các
nơi đến đây dưỡng lão. Do điều kiện thiên nhiên ưu đãi nên nơi này còn
gọi là trấn về hưu dưỡng lão. Cứ cuối tuần, chúng tôi thường tổ chức
buổi tiệc ấm cúng dành cho khách thập phương tề tựu. Số lượng khách ngày
càng tăng là điều đáng mừng. Mục đích buổi tiệc nhằm giáo dục, dẫn dắt
nhân dân thực tiễn đối đãi bình đẳng, hòa thuận, cùng thực hiện bao
dung, tôn trọng, kính yêu, quan tâm, chăm sóc, hợp tác lẫn nhau. Hy vọng
lãnh đạo các tôn giáo trong trấn nhỏ này, từ dẫn đầu đến thúc đẩy để
trở thành trấn nhỏ hòa bình nhất thế giới.
“Hình mạo đoan nghiêm, phước đức vô
lượng, trí huệ minh liễu, thần thông tự tại”, đều là đức năng tự
tánh vốn đủ. Chúng ta có trí tuệ, có sức định sẽ khai mở được trí năng
này vô tận vô lượng vô biên. Mọi người đều có thể khai mở.
“Thọ dụng chủng chủng, nhất
thiết phong túc”
Tám chữ này chứa đựng muôn hình vạn vẻ.
Ngày nay chúng ta có đời sống tinh thần, đời sống vật chất không những
đủ mà còn rất đầy đủ, rất phong phú, không hề kém khuyết. Kinh nêu ra
một vài ví dụ các thứ thọ dụng.
Thứ nhất là nơi ở, “cung điện”.
Cung điện không có nghĩa là nơi ở của đế vương thời xưa mà đó chính là
nhà ở cá nhân cùng nơi họat động đoàn thể.
Thứ hai, “phục sức” là điều
kiện ăn mặc sung túc. Người thế gian ưa thích trang sức. Chư Phật Bồ tát
cũng thường đeo anh lạc, gọi là “chúng bảo trang nghiêm”.
Những thứ này đều tự nhiên, không do con người thiết kế chế tạo. Thế
giới Tây Phương vốn mọi thứ đều tự nhiên, do nghĩ mà sinh ra.
Thứ ba, “hương hoa”, mười
phương pháp giới tất cả chúng sinh không ai không thích hương hoa. Người
ta rất chú trọng đến vườn tược. Người giàu sang Trung quốc thời xưa đặc
biệt chú trọng đến hoàn cảnh nơi ở. Đến tham quan Trung quốc, chúng ta
sẽ thấy còn lưu giữ lại rất nhiều khu vườn với những kiến trúc đẹp mắt ở
Tô Châu, Dương Châu, Bắc Kinh. Không cần chờ đến thế giới Tây Phương
Cực Lạc, “do nghĩ mà sinh”, chỉ cần chúng ta quán tưởng, thế
giới Tây phương liền hiện tiền trong cuộc sống của chúng ta.
“Phan cái trang nghiêm chi cụ,
tùy ý sở tu, tất giai như niệm”
Câu nói này đã bao gồm hết tất cả vật
chất đồ dùng trong cuộc sống thường ngày của chúng ta, không thiếu thứ
nào. Khi nào cần dùng, nó tự nhiên hiện ra; khi không cần nữa, nó liền
biến mất. Cho nên, đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, vào nhà của mỗi
người đều thấy sạch sẽ, bóng láng không chút bụi trần, đồ dùng của họ
cũng không cần phải cất chứa, vô cùng vi diệu. Bởi vì tất cả chúng sinh
thế giới Tây Phương Cực Lạc đều có năng lực chuyển đổi năng lượng vật
chất, có thể đem năng lượng biến thành vật chất, khi cần dùng thì thảy
đều đầy đủ, khi không cần dùng thì chuyển biến vật chất này quay trở về
thành năng lượng nên không cần phải cất chứa.
Trong kinh điển nhà Phật đã giới thiệu
rất nhiều cảnh giới không thể nghĩ bàn, được khoa học gia hiện tại chứng
thực. Thế nhưng hiện tại họ không biết dùng phương pháp gì để làm cho
năng lượng và vật chất tùy tâm mà chuyển biến. Người thế giới Tây Phương
Cực Lạc sớm đã biết được. Những năm đầu khi giảng bộ kinh này, chúng
tôi đã khuyên các khoa học gia nên đến thế giới Cực Lạc “du học”.
Nếu không, kiến thức họ học được sẽ rất có hạn. A Di Đà Phật là nhà
khoa học vĩ đại nhất giữa vũ trụ này, cho nên học khoa học thì cần đi
đến thế giới Cực Lạc.
“Tùy ý sở tu tất giai như niệm”,
tất cả đều do tâm nghĩ sự thành, không như thế gian đời sống gian nan
khổ sở. Thích Ca Mâu Ni Phật nói, sáu cõi của chúng ta là biển khổ. Có
ba loại khổ lớn, “khổ khổ, hoại khổ, hành khổ”. Kinh Hoa Nghiêm
nói “ba cõi đều khổ”, dục giới ba loại khổ này thảy đều đầy
đủ, không ai có thể tránh khỏi được. Người cõi trời sắc giới công phu
thiền định sâu, không có “khổ khổ”, nhưng họ có “hoại khổ”,
“hành khổ”, vẫn không được coi là tự tại. Đến được cõi vô sắc,
ngay đến thân thể này cũng không cần, không có “hoại khổ”,
nhưng họ vẫn có “hành khổ”. Hành khổ vì cảnh giới này của họ
không thể giữ được mãi. Họ có hạn chế của thọ mạng. Cõi trời Vô Sắc giới
cao nhất, trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, tuổi thọ tám vạn đại kiếp.
Người thông thường không ấn tượng sâu về con số tám vạn đại kiếp, nhưng
đối với người con Phật thì tương đối dễ hiểu hơn. Trong kinh luận đức
Phật dạy, thế giới này, một lần “thành, trụ, hoại, không” là
một đại kiếp. Tám vạn đại kiếp là “thành, trụ, hoại, không” tám
vạn lần. Thế nhưng rốt cuộc, nó vẫn là số lượng, cùng với thời không vô
tận mà so sánh, vẫn rất ngắn ngủi. Tám vạn đại kiếp cũng qua nhanh, khi
mất định lực vẫn bị đọa xuống sáu cõi luân hồi, không được cứu cánh. “Ba
cõi đều khổ”, không hề có những ngày tháng tốt đẹp, muốn trải qua
ngày tháng tốt đẹp, chúng ta hãy hướng đến, xem thế giới Tây Phương Cực
Lạc kỳ diệu dường nào.
(Trích lục Kinh Vô Lượng Thọ, Phẩm 19)
Giảng tại cư sĩ Lâm Phật giáo Singapore, tháng 10- 2003
HT Tịnh Không (Theo Biên dịch: Vọng
Tây Cư Sĩ) |