Khi nói đến Pháp môn Tịnh
Độ người ta đều nghĩ đến các
kinh Di Đà, kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Quán Vô
Lượng Thọ, và Luận Vãng Sanh Tịnh Độ
của Bồ Tát Thế Thân hoặc kinh Niệm Phật Ba
La Mật là các bộ kinh tông yếu nói về Pháp môn
Tịnh Độ. Ít người biết rằng kinh Hoa
Nghiêm là bộ kinh nói về pháp nhất thừa viên giáo
cũng nói đến Tịnh Độ, dạy tu Tịnh
Độ, khuyên nguyện sanh về thế giới Cực
Lạc.
Điều này
cho thấy nguyện sanh Tịnh Độ không chỉ là
bổn nguyện của thường nhơn mà cũng chính
là bổn nguyện của bậc thượng căn
đại trí. Nhưng Hoa Nghiêm nói đến Tịnh
Độ như thế nào ? Người tu Tịnh Độ
theo Hoa Nghiêm có giống như người tu Tịnh
Độ thông thường hay không ? Có chống trái hay
tương đồng cùng một bản nguyện ?
Trước
hết, kinh Hoa Nghiêm cho ta biết tất cả quốc
độ đều tùy nghiệp lực sanh hay do công
đức nguyện lực của chư Phật thành
tựu. Hoa Nghiêm đứng trên Pháp Giới Nhất Chơn
nhìn thấy Thật tướng tất cả Pháp là Chân
Không Diệu Hữu, tâm và cảnh tương quan như
nhất. Tâm thanh tịnh thì cảnh thanh tịnh, tâm
nhiễm ô thì dù cảnh trang nghiêm cũng biến thành
uế trược xấu xa.
Đặc
biệt Hoa Nghiêm nhấn mạnh đến tầm quan
trọng của chư Phật và Bồ Tát. Các Ngài
đến cõi nào, nơi đó biến thành thanh tịnh. Khi
các Ngài nhập diệt hay ra đi thì cõi đó hết trang
nghiêm. Như vậy, kinh Hoa Nghiêm chỉ rõ sự hình thành
các thế giới nhiễm tịnh cho ta thấy.
Đặc biệt về cõi nước Tịnh Độ
thì thế giới Hoa tạng gồm có vô lượng
thế giới cũng hình thành.
Ta Bà hay Cực
Lạc cũng chỉ là một trong vô số cõi
nước trong Hoa Tạng thế giới. Trong thế
giới đó, có vô lượng cảnh Phật trang nghiêm
thanh tịnh, chứ không phải chỉ có một thế
giới Cực Lạc.
Thế nhưng,
chúng sanh cõi Ta Bà phần đông chỉ khế hợp
với Cực Lạc nên Phật nói rõ về cảnh
Cực Lạc cho chúng sanh tiến tu.
Kinh Di Đà
chỉ tán thán cõi Tịnh Độ trang nghiêm để cho
người phát khởi niềm tin, phát nguyện tu hành,
cầu sanh Tịnh Độ qua hạnh nhất tâm
niệm Phật. Kinh Vô Lượng Thọ chỉ rõ
tiền thân Phật A Di Đà phát ra 48 lời nguyện
kiến tạo Cực Lạc rước người vãng
sanh, và cảnh giới Cực Lạc trang nghiêm thanh
tịnh, phân định rõ chín phẩm vãng sanh cho
người học Phật.
Kinh Quán Vô
Lượng Thọ chỉ 16 pháp quán cho Vi Đề Hy cùng
500 thị nữ rõ ràng tường tận để quán
sát nguyện về Cực Lạc.
Kinh Niệm
Phật Ba La Mật chỉ cặn kẽ pháp tu cho
người được Chánh định niệm
Phật, thành tựu thật tướng niệm Phật.
Kinh Hoa Nghiêm
cũng dạy người tu tin chắc vào Phật, Pháp,
Tăng nhưng đi sâu hơn khi dạy ta tu niệm
Phật, tin Phật với Bồ Đề tâm, khuyên phát
tâm hành Đại thừa cúng dường chư Phật
nhất tâm niệm Phật bất động để
thấy vô lượng chư Phật, thấu suốt Pháp
thân bất động của Như Lai, nguyện hành
hạnh Phật cầu chứng Phật đạo.
Cầu về Tịnh Độ là để thân cận
cúng dường thỉnh chuyển Pháp luân, học theo
hạnh Phật, để viên thành Phật quả, chứ
không phải đới nghiệp vãng sanh.
Niệm Phật
cũng là pháp thiết yếu đầu tiên mà hành giả
muốn nhập Pháp giới phải tu. Thiện Tài
Đồng Tử sau khi được Văn Thù Bồ Tát
khai thị bổn tâm, chỉ rõ Chơn tâm khuyên hành Bồ
Tát đạo, tu Bồ Tát hạnh đi tham học với
53 vị Thiện tri thức. Vị thầy đầu tiên
Ngài đến cầu học là Đức Vân Tỳ Kheo
đã dạy Ngài Thiện Tài Pháp môn “Ức niệm nhứt
thiết cảnh giới chư Phật trí huệ quang minh
phổ kiến”, tức dùng tâm thanh tịnh nhớ nghĩ
tất cả cảnh giới Phật như kệ nói
kệ.
Cảnh giới
Như Lai nếu muốn tầm,
Nên tịnh ý mình
như hư không,
Xa lìa vọng
tưởng và chấp trước,
Hướng tâm
đến chỗ chẳng ngại ngăn.
Khi tâm thanh
tịnh nhất như thì 10 phương cõi Phật
hiện tiền, rõ biết tâm Phật không hai, ngoài tâm không
có Phật, đây chính là chỗ kinh Quán Vô Lượng
Thọ nói : “Tâm nầy là Phật, tâm nầy làm Phật”.
Khi rõ suốt lý này thì đạt được thật
tướng niệm Phật biết mình và Phật
đồng một thể. Thế nhưng, Thiện Tài
Đồng Tử nhờ niệm Phật được
Pháp định không vội nguyện sanh về Cực
Lạc mà lại phát tâm cầu hành Phật pháp, hành Bồ
Tát đạo, làm lợi ích chúng sanh.
Mãi đến
vị Thiện tri thức thứ năm mươi ba là
Phổ Hiền mới dạy Thiện Tài Đồng
Tử mười hạnh nguyện của mình, phải
thường thân cận chư Phật cúng dường,
nghe pháp, thỉnh chuyển Pháp luân. Khi Phật sắp
Niết Bàn mời trụ thế làm an lạc chúng sanh. Khi
Phật sắp Niết Bàn đến hầu hạ
phụng sự.
Hành trí huệ và
hạnh đức để đủ đạo Phổ
Hiền. Lúc mạng sắp lâm chung nguyện sanh Cực
Lạc thế giới của Phật Di Đà, sen nở
thấy Phật liền được thọ ký đạo
Bồ Đề, đầy đủ trí huệ,
phương tiện nguyện lực, làm lợi ích
khắp chúng sanh giới.
Như vậy,
Kinh Hoa Nghiêm cũng hướng người tu hạnh
Bồ Tát sanh về Cực Lạc nhưng khác biệt
với các Kinh khác. Người tu Tịnh Độ chỉ
cần tín sâu vào Phật, tin chắc nguyện Phật, phát
tâm niệm Phật, cầu sanh Tây Phương là như
nguyện. Do không có công đức trí huệ nguyện
lực sâu dày nên có khi mang nghiệp vãng sanh, sanh về Tây
Phương mới chứng quả vô sanh. Trải vô
lượng kiếp mới thành Phật đạo. Có
thể nói người bình thường tu niệm Phật,
sanh vào Phàm Thánh Đồng Cư để chứng quả
vô sanh, phát tâm Bồ Đề tiến tu Phật
đạo.
Hành giả tu theo
kinh Hoa Nghiêm rõ suốt nguồn tâm cầu hành Đại
thừa có phát nguyện liền được vãng sanh.
Quả tu hành chắc chắn vào Thượng phẩm,
trước mặt Phật liền được thọ
ký đạo Bồ Đề, cảnh giới an trụ là
Thật Báo Trang Nghiêm Độ. Người tu Tịnh
Độ chán cảnh Ta Bà uế trược nguyện sanh
Tịnh Độ an lành, nương Phật lực
tiến tu, trước chứng vô sanh, sau phát Bồ
Đề tâm, tu Bồ Tát hạnh. Tu theo Hoa Nghiêm
trước cầu Diệu Pháp, trải thân hành đạo,
nguyện sanh Tịnh Độ thân cận cúng dường
… để viên thành Bồ Tát đạo, thân hành tự
tại, nhập uế độ để trang nghiêm
cứu tế chúng sanh về Tịnh Độ thân cận
cúng dường hầu cận Phật chứng viên thành
hạnh quả.
Nhìn theo một
khía cạnh khác, tu theo Hoa Nghiêm là con đường của
Bồ Tát, hành theo Tịnh Độ là việc của Thanh
Văn hồi hướng bồ đề vô thượng.
Tuy lược nhìn như thế nhưng nếu hành
được Thật tướng niệm Phật,
ngộ được thật lý đại thừa hành trì
nào có sai biệt. Kinh Pháp Hoa nói : Pháp pháp bình đẳng không
có sai biệt, tu tất cả thiện pháp thì viên thành
Phật đạo. Sở dĩ có sai khác là do tâm hạnh
nguyện lực chẳng đồng nhau.
Do đó không
thể nói tu theo Hoa Nghiêm cao, tu theo Tịnh Độ
thấp. Như thế, chắc chắn là Hoa Nghiêm là con
đường viên đốn để thân chứng
Phật thừa. Hành giả tu theo Hoa Nghiêm phải
đầy đủ trí huệ, hạnh đức,
đủ hạnh Phổ Hiền để khi đến
nơi nào thì quốc độ đó trang nghiêm thanh
tịnh.
Người tu
niệm Phật tam muội viên thành như Bồ Tát
Đại Thế Chí đến nơi nào thì cõi
nước cũng trang nghiêm, sáu điệu vang
động, rải hoa báu lớn. Như vậy, nếu
thấu lý mầu, Hoa Nghiêm, Tịnh Độ nào khác
biệt. Do căn cơ chủng tánh hành sai biệt khác nhau
nên có ngàn sai muôn khác, cao thấp chẳng đồng.
Tóm lại!
kinh Hoa Nghiêm cũng nói về Tịnh Độ nhưng
chỉ rõ cho ta thấy nguyên nhơn có uế tịnh và
cội nguồn hình thành thế giới. Nếu Tịnh
Độ là pháp phổ thông cho quần chúng thì Hoa Nghiêm dành
cho bậc thượng căn thượng trí.
Người tu Hoa Nghiêm phải tu trí huệ hạnh
đức, lấy nước từ bi nuôi lớn tâm
Bồ Đề, hành Bồ Tát đạo để viên
thành Phật đạo. Người tu Tịnh Độ
rõ Phật tức tâm niệm Phật, nhớ Phật
được gặp chư Phật, thân cận nghe pháp
cúng dường thì cũng lần lần thành Phật không
sai. Phương tiện tuy khác, nhưng lý tánh thì
đồng đẳng.
Đặc
biệt ta thấy khi viên mãn hạnh Phổ Hiền vẫn
cầu sanh Tịnh Độ, gặp Di Đà. Đứng
trên lý Di Đà là thể tánh, hành dụng đã mãn nhưng
Pháp thân phải biến nhập mới phổ tế chúng
sanh, viên thành Phật đạo. Niệm Phật cũng
trở về tự tánh. Bao công đức thánh hạnh
đều viên thành, đạt được Pháp thân
như chư Phật không sai khác. Đường hành có
thiên sai vạn biệt, nhưng tất cả đều
nhằm viên thành Phật đạo. Kinh Hoa Nghiêm đã làm
cho Diệu pháp Tịnh Độ được rõ ràng sáng
lý. Tướng cảnh dung thông, đều không lìa Pháp
giới nhất chơn. Nguyện tất cả
người tu Phật rõ suốt Hoa Nghiêm và Tịnh
Độ dung thông không chống trái để cùng chứng
nhập Nhất thừa Phật đạo.