25.- CÚNG DƯỜNG NIỆM PHẬT
Phàm gặp giai tiết (tiết đoan ngũ,
tiết trung thu v.v...) hoặc ngày vía Phật, Bồ Tát thì nên hương đăng hoa
quả tùy phận cúng dường, nhưng đó chỉ là tài cúng, chưa phải pháp cúng.
Pháp cúng thuộc về tâm, quý hơn tất cả tài cúng.
Gần đây, vì tà giáo thạnh hành,
bày đặt các pháp cúng kiến, la liệt quả phẩm, tam sanh, heo, dê, gà, vịt
có ích gì cho sự tu hành? Thậm chí, còn bày bố trận đồ, chiêu hồn dẫn quỉ,
tà mị, dị đoan, càng làm cho hao tài tổn mạng, dối dá bậy bạ, phỉnh gạt
người đời.
Chỉ pháp môn niệm Phật thì vạn
bịnh tiêu trừ không tốn không hao, lại ít người chịu biết đến. Kính mong
những trang thức giả đừng để bị lầm.
Lời phụ giải: Giết mạng sống của
kẻ khác để cúng cầu cho mạng mình được sống, thật là hết sức ích kỷ và vô
nhân đạo!
Câu: “Thiên địa vô tư, thần minh
ám sát, bất dĩ tế hưởng nhi giáng phước, bất dĩ thất lễ nhi giáng họa” sao
không suy xét cho kỹ càng. Thần thánh đâu vì của cũng như tham quan ăn hối
lộ sao? Trời đất không có lòng tư vị ai, hễ làm lành thì hưởng quả tốt,
làm dữ mắc báo xấu thế thôi. Các bậc thần minh thầm xét nghiệm những tâm
niệm, hành vi thiện, ác của mình tùy thời răn phạt, nào phải vì ta cúng tế
mà các Ngài bỏ qua những điều tội lỗi của ta đâu?
Hơn nữa, tâm mình ngay, thân mình
chánh, có sợ gì mà phải bận tâm lo nghĩ?
Khi niệm Phật, Phật hiệu đã ngự
trong tâm ta, lòng ta xứng hợp với lòng Phật, cùng xứng hợp một điển lực
thanh tịnh, thì tà ma nào dám nhập? Nghe theo tà mị, dị đoan chỉ càng làm
cho hàng thức giả chê cười, mà cũng lại chuốc lấy họa hại không ít do một
số kẻ lợi dụng lòng tin tưởng và sợ sệt của ta.
Vậy hãy suy nghiệm cho thật chín
chắn.
26.- NIỆM PHẬT ÐỂ BÁO ÂN CHA MẸ
Ân của cha mẹ là cái ân to lớn
nhứt phải làm sao báo đáp? Cung phụng tất cả những thức uống ăn, lập công
danh để hiễn đạt phụ mẫu, chỉ là phép báo đáp của thế gian; mặc dầu không
phải là bất thiện, song xét cho tột thì đây chưa phải trọn vẹn (vì dù sao
cũng vẫn còn trong vòng khổ lụy của kiếp người). Chỉ có cách là ta niệm
Phật và khuyên cha mẹ niệm Phật, đem công đức ấy hồi hướng Tây phương, đó
là gieo một hột giống kim cương, về sau ta và cha mẹ cùng tự được giải
thoát. Huống chi một câu niệm Phật lại có thể tiêu được vô biên tội
chướng. Những ai muốn báo thâm ân cha mẹ, không thể không biết pháp này.
Lời phụ giải: Cung phụng cha mẹ về
mặt vật chất, nào quạt nồng, ấp lạnh, món ngon vật lạ, áo ấm cơm no, đó
mới chỉ là cái hiếu thế gian mà thôi. Nếu không lo tu nhơn xuất thế, tất
phải đọa lạc tam đồ, quanh đi quẩn lại sanh tử không cùng, sao gọi là báo
hiếu trọn vẹn được?
Thế tất phải tìm cách nào cho rốt
ráo? Chỉ có Pháp môn Tịnh độ Niệm Phật, cầu sau khi xả báo thân này, nương
nhờ nguyện lực của Phật A Di Ðà mà được cùng vãng sanh Cực Lạc. Nhờ chiếc
thuyền nguyện lực của Phật, bao nhiêu tội chướng của chúng ta dù nặng như
đá cũng nương đó mà qua sông dễ dàng. Thế thì công ít mà quả to, ta còn
chần chờ gì nữa?
27.- BỐ THÍ BẰNG CÁCH NIỆM PHẬT
Phàm thấy người khổ não, trước
phải giúp cho họ an thân (cho cơm, cho áo) rồi sau mới an ủi khuyên họ
niệm Phật. Bởi vì cứu cái khổ trong nhứt thời, bố thí là gấp, mà cứu cái
khổ nhiều kiếp, phương pháp niệm Phật lại gấp hơn. Hoặc thấy người hay vật
bị nạn, sức mình không cứu rỗi được phải gấp niệm Phật cầu an cho hồn thức
ấy. Hoặc đêm thanh tụng niệm cầu nguyện cho mọi loài thoát khỏi tai ương.
Gặp lúc đao binh, tật dịch, năm canh trì niệm Phật danh, cầu cho chúng
sanh được tiêu trừ mọi oan khổ.
Nên quán tưởng: Một câu A Di Ðà
Phật của ta đây, trên tột trời Hửu đảnh
[14]
dưới suốt đáy phong luân
[15]
mọi loài chúng sanh một thời đều được lợi ích. Cách bố thí đó thật không
thể nghĩ bàn vậy.
Lời phụ giải: Trước cho ăn no, mặc
ấm để đỡ khổ phần xác, sau khuyên bảo niệm Phật để cứu rỗi linh hồn. Gặp
nhiều trường hợp mà sức ta vô khả nại hà, chỉ nên nhứt tâm niệm Phật, vận
dùng tất cả điển lành của mình chí hướng về kẻ ấy, cầu nguyện cho họ thoát
khỏi khổ lụy của kiếp sống triền miên, giải thoát an nhàn nơi thiện cảnh.
Một câu niệm Phật diệt oan khiên.
28.- TỰ TÂM NIỆM, TỰ TÂM NGHE
Tâm tưởng, rồi mới động đến lưỡi,
lưỡi khua động thành tiếng lại trở vào tự tâm, là pháp: Tâm niệm tâm nghe
vậy.
Mà hễ tâm niệm tâm nghe thời mắt
không thể thấy bậy, mũi không thể ngửi bậy, thân không thể động bậy, vị
chủ nhơn ông (tự tâm) đã bị bốn chữ A Di Ðà Phật bắt cóc mất rồi.
Lời phụ giải: Niệm tức là niệm tự
tâm Phật, tai nghe tiếng niệm là nghe tiếng của tự tâm, tiếng ấy từ tự tâm
mà ra, rồi lại chạy ngược vào tự tâm, xây vòng như vậy, thời một mảy vọng
tưởng cũng không còn, tất cả vọng trần, vọng cảnh cũng từ đấy mà diệt.
Niệm Phật niệm tâm,
tâm niệm Phật
Tham thiền tham tánh,
tánh tham thiền.
29.- NIỆM PHẬT TRONG TIẾNG NIỆM
Tiếng niệm Phật đã thuần thục rồi,
thời trong sáu trần chỉ còn một thinh trần. Tất cả sáu căn hoàn toàn gởi
nơi nhĩ căn (lổ tai). Thân cũng không còn cảm biết tới lui, lưỡi cũng
không còn biết khua động, ý cũng không còn cảm biết phân biệt, mũi cũng
không còn cảm biết hít thở, mắt cũng không còn cảm thấy mở nhắm. Hai thứ
viên thông của hai ngài Quán Âm và Thế Chí cũng tức là một, không chi là
chẳng viên và chẳng chi là không thông cả. Vì căn tức là trần, trần tức là
căn, căn và trần tức là thức. Mười tám giới
[16]
đều dung hợp thành một giới. Trước chưa được thuần, lâu sau sẽ dần dần
thâm nhập.
Phàm trong khi niệm Phật, phải lựa
một chỗ vắng, yên, sạch sẽ, khoảng 4,5 thước vuông, đi nhiễu một vòng theo
phía tay mặt, rồi sau từ từ cất tiếng niệm Phật, tiếng cao lên dần dần,
niệm như vậy độ 3 vòng trở lên sẽ tự cảm thấy tâm, tiếng to bay vòng quanh
khắp thái hư, bao bọc cả 10 phương, trùm đầy toàn pháp giới. Ðó là cách an
trụ thân tâm, thế giới vào trong tiếng niệm Phật, và đó là đem thân, tâm
của mình an trụ trong tiếng niệm Phật mà niệm Phật. Ðây là cảnh thù thắng
để tiêu diệt tâm địa phiền não nhơ trược, hành giải cần phải gắng tập cho
kỳ được.
(Bài này chỉ vẽ rõ ràng, không cần phụ giải)
30.- NIỆM PHẬT TRONG
ÁNH SÁNG CỦA TỰ TÂM
Phàm tiếng là tiếng của tự tâm,
thì ánh sáng cũng là ánh sáng của tự tâm. Hễ tiếng của tự tâm quanh lộn ở
chỗ nào thì ánh sáng của tự tâm phóng ra ở chỗ ấy; nếu ta an trụ trong
tiếng của tự tâm mà niệm Phật, tức là an trụ trong ánh sáng của tự tâm mà
niệm Phật vậy. Ðây cũng là cảnh thù thắng diệt được lòng tham phiền não
nhơ bẩn, hành giả nên gắng siêng tu tập.
31.- NIỆM PHẬT TRONG THỂ CỦA
TỰ TÂM
Tiếng nói của tự tâm vòng quây và
ánh sáng tự tâm chiếu phát, tự nhiên tâm thể phơi bày. Một chơn tâm này
như tấm gương tròn lớn (Ðại viên cảnh) rỗng thông sáng suốt, không gì ngăn
ngại, mười phương, ba đời, ta, Phật, và chúng sanh, vòng khổ của đời
trược, đài sen nơi cảnh tịnh đều là bóng trong gương cả. Cho nên niệm Phật
trong tiếng tức trong ánh sáng, trong ánh sáng tức trong gương không phải
một, khác. Ðây cũng là cảnh thù thắng tột cùng, diệt hẳn được tâm nhơ, cần
phải gia công hết lòng tu tập.
Lời phụ giải: Tâm thể vốn luôn
luôn thanh tịnh (tịch), nhưng hằng phát khởi diệu dụng sai thù (chiếu).
Khi chúng ta nhận được toàn thể đại dụng không ngoài tánh thể thường như,
thì bấy giờ, tâm, Phật và chúng sanh vốn chỉ là một, rỗng thông, sáng
suốt, không gì ngăn ngại. Thật hành pháp niệm Phật mà đạt được như đây,
thật quả là bậc đại căn tánh vậy! Muôn pháp đều chỉ là bóng hình trong
gương, vốn dĩ hư huyễn, tự sanh, tự diệt, đâu can phạm gì đến tánh thể tự
cổ thường như, bất sanh bất diệt của chơn tâm. Thấu triệt được lý này ắt
đã thoát được ngoài dòng cương tỏa của không gian và thời gian rồi vậy.
32.-
KHÔNG DỨT
Buổi sáng niệm, buổi tối cũng
niệm; vô sự niệm, hữu sự cũng niệm; chỗ sạch niệm, chỗ nhơ vẫn niệm, không
một niệm nào mà không phải là niệm Phật. Giả sử hàng ngày có sự thù tiếp
bạn bè, đãi đằng khách khứa, có lúc gián đoạn, nhưng chỉ gián đoạn thinh
niệm, chớ không thể gián đoạn được tâm niệm. Niệm Phật mà công phu đến
thế, thì dễ thành Tam muội lắm.
33.-
KHÔNG TẠP
Không xen tạp niệm tức là Chỉ, Chỉ
là nhơn của Ðịnh, dừng được tạp niệm, thì chánh niệm (định) tự nhiên phát
hiện.
Tạp niệm có 3: Thiện, ác, và vô
ký, trừ hết ba thứ mới là không tạp. Tâm cần vắng lặng, vắng lặng thời các
niệm thiện, ác không sanh. Tâm cần sáng suốt, sáng suốt thời vô ký niệm
không có.
Ngoài Phật không có niệm nên tường
vắng lặng, trong niệm có Phật nên thường sáng suốt rõ ràng.
34.-
KHÔNG DỪNG
không dừng tức là Quán, Quán là
nhơn của Huệ. Câu (niệm Phật) trước đã qua, câu sau chưa đến, câu hiện tại
cũng không dừng. Cứ thế mà quán sát, rõ ràng nhưng không thể được (không
câu chấp), không thể được nhưng lại rõ ràng. Ðuổi như vậy mãi sẽ thấu đạt
lẽ vạn pháp duy tâm, tức Phật tức tâm, tức tâm tức Phật.
Lời phụ giải: (cho cả ba pháp
trên) Niệm Phật tức niệm tự tâm Phật, cho nên không ngại gì chỗ nhơ sạch.
Lại chúng sanh vốn đồng một thể tánh chơn tâm với Phật, vì vọng động bất
giác nên để tánh Phật vốn sẵn sáng suốt phải bị phiền não vô minh che lấp,
làm cho mê tối đảo điên, càng ngày càng chạy theo vọng trần vọng cảnh, xa
lần thật thể, nhận giả làm chân; bấy giờ nhất niệm giác ngộ quay về ánh
sáng của tâm, thì dễ gì trong một ít thời gian mà có thể bôi xóa đi được
những phiền não đen tối vốn nhuộm đậm từ lâu. Thế nên, chúng ta cần phải
luôn luôn liên tục theo dõi câu niệm Phật (niệm Phật tức niệm tự tâm Phật)
Phật niệm liên tục mãi mãi thì chúng sanh niệm không còn, thế nên dù có
bận rộn gì cũng chỉ gián đoạn được thinh niệm mà thôi, chớ làm sao ràng
buộc được tâm niệm bên trong của chúng ta? Khi mà tâm chúng ta thuần một
Phật niệm thì tạp niệm đâu còn? Tạp niệm bặt dứt (gió dừng) tâm không còn
bị gì làm chao động nữa, bấy giờ tự tâm an nhiên tại định (nước lặng) thì
muôn tượng hiện bày, không thiếu sót một mảy may, bấy giờ vạn pháp đương
nhiên hiển lộ, tự tâm quán chiếu một cách thần diệu phi thường (huệ). Hành
giả thật hành pháp môn niệm Phật được như đây quả đã đạt đến viên mãn cứu
cánh rồi vậy.
35.- TỨC THIỀN TỨC PHẬT
Hoặc khởi từ một câu thoại đầu gọi
là tham thiền, hoặc ngồi mà dứt niệm gọi là tọa thiền. Tham hay tọa đều là
Thiền cả, Thiền hay Phật đều là tâm cả. Thiền tức là Thiền của Phật. Phật
tức là Phật của Thiền. Pháp môn niệm Phật đâu có gì ngại với pháp tham
thiền, tọa thiền? Vả lại, người tham thiền có thể dùng bốn chữ A Di Ðà
Phật làm một câu thoại đầu, niệm đến, niệm lui, niệm xuôi, niệm ngược, trở
lại, xây qua không rời đương niệm, mặc dù không nói tham thiền, mà thiền ở
trong đó rồi. Người tọa thiền cần phải đến giaI đoạn một niệm tương ưng,
hoát nhiên như vinh vào hỗ hư không, mới là Ðắc thủ
[17].
Niệm Phật đến lúc nhứt tâm bất loạn, không phải là tương ưng là gì?
Niệm đến lúc tâm không, không phải
vĩnh viễn tương ưng sao? Trong lúc niệm Phật, không hôn trầm, không tán
loạn, chỉ, quán, định, huệ mỗi niệm viên thành; nếu muốn tìm thiền, thiền
ở đâu nữa?
Lời phụ giải: Thiền tức Tịnh vì
Thiền hay Tịnh đều cầu đạt mục đích nhứt tâm bất loạn, phương tiện tuy
hai, nhưng kết quả vẫn một, mà Thiền thì khó thập bội!
Trong Quy ngươn trực chỉ có đoạn
thí dụ người tu các pháp môn khác, như thiền v.v... mà đi đến mục đích,
khác nào như con kiến bò lên núi cao, như con mọt đục từng mắt tre mà lên,
từ gốc cho đến tận ngọn. Pháp môn Tịnh độ niệm Phật thẳng tắt nhờ tha lực,
như thuyền thuận buồm, xuôi nước, như con mọt đục ngang cây tre mà ra, còn
gì nhanh chóng hơn!
36.- TỨC GIỚI TỨC PHẬT
Trì giới luật của Phật để trị
thân, trì danh hiệu của Phật để trị tâm. Trì lâu thì thân thuần, niệm lâu
được tâm không. Tánh của niệm hay tánh của giới không hai; luôn luôn trì
giới thì tội lỗi không hiện, luôn luôn niệm Phật, thời lúc lâm chung đánh
tan được quỷ môn quan, vượt khỏi ba cõi. Nếu giữ giới đã có công phu, liền
đem công đức này hồi hướng Tây phương, chắc được về trung phẩm. Còn như
chưa có thể giữ trọn cả hai, thời nên phải siêng niệm Phật, như cứu lửa
cháy đầu.
Lời phụ giải: Trì giới cốt làm cho
tự tâm thanh tịnh, vì không gây tội lỗi, không có hối hận. Niệm Phật cũng
cốt cho thanh tịnh tự tâm. Vậy nên trì giới tức là niệm Phật. Nhưng niệm
Phật là phương tiện thiết yếu hơn khi người chưa giữ giới được trọn vẹn.
Thế nên ta hãy cấp tốc niệm Phật, để cho tâm tịnh rồi thì tự nhiên giới
được thanh tịnh.
37.- TỨC GIÁO TỨC PHẬT
Một Ðại tạng kinh đều từ tâm khởi,
tâm nếu không Phật thì giáo lý cũng luống mà thôi. Nhưng có tâm ai mà
không Phật? Chỉ vì tự mình không niệm vậy. Người có học giáo lý, ắt có coi
kinh Lăng Nghiêm, mà cói coi kinh Lăng Nghiêm ắt có kẻ chê đức Thế Chí mà
trọng đức Quán Âm, một chút chấp trước đó cũng đủ kết thành nguồn gốc sanh
tử, dù học hay, thấy xa, hiểu rộng, chẳng qua chỉ giúp cho cái mầm khổ
thêm tuổi mà thôi, không giúp ích được gì trong việc thoát ly sanh tử. Xin
hãy mau bỏ đi, bỏ tất cả, để tâm niệm Phật cầu vãng sanh Tây phương, gần
gũi đức Di Ðà. Còn nếu không buông bỏ được thì hãy đem công đức học kinh,
giảng thuyết này hồi hướng Tây phương, phát bốn điều thệ nguyện rộng lớn,
cũng được kết quả không luống. Thoảng hoặc hoằng dương được pháp môn Tịnh
Ðộ, nói cho người ta hiểu công đức niệm Phật, thời nháy mắt, động niệm đều
là trang nghiêm Tịnh Ðộ, thế thì được vãng sanh thượng phẩm đâu còn nghi
gì?
Lời phụ giải: Trong kinh Lăng
Nghiêm, đức Thế Chí tu niệm Phật tam muội đắc nhập viên thông, còn đức
Quán Thế Âm tu nhĩ căn mà được chứng viên thông, hai vị đồng chứng viên
thông như nhau. Nhưng vì theo căn tánh tương hợp của chúng sanh Ta Bà mà
khi vâng lời Phật tuyển trạch viên căn, đức Văn Thù phải chọn nhĩ căn của
đức Quán Âm là đệ nhứt, nếu không hiểu hoặc chấp giáo, cho là đức Quán Âm
hơn đức Thế Chí, tất sái với tinh thần giáo điển. Thế là vì chấp giáo lý
mà có sanh phân biệt hơn kém do cái ngã kiến sẵn có tự hồi nào đến giờ,
làm cho ta mê mờ dễ sanh dị kiến, dễ tạo điều khổ ngay trong tự tâm và cái
khổ vẫn gắn bó mãi mãi đến vô tận. Thật nguy hiểm thay!
Học, hiểu, giảng hay, nói giỏi mà
cứ bị gò bó trong sự học, hiểu, đầu óc phải bị chi ly, phiền toái trong
văn tự, ngôn ngữ, có khác gì con tằm mắc trong cái kén, rồi cũng đến chết
ở trong đó mà thôi!
Chi bằng đem hết thân mạng để
trang nghiêm Tịnh Ðộ, hay dùng cách lão thật niệm Phật để cầu sanh Cực Lạc
còn hơn, cứ nói thánh nói tướng, bàn ra tán vào, luận dọc luận ngang đều
làm rối đạo niệm, không ích gì cho việc thoát ly sanh tử cả!
Thoảng hoặc tận dụng sở học, sở
hiểu cùng tất cả sở năng ra xiển dương pháp môn Tịnh Ðộ, hay rộng tán thán
công đức niệm Phật, phương tiện diễn dụ khắp ba căn đồng tu hành niệm Phật
tam muội, thời thật ngày vãng sanh về Cực lạc không xa mấy đâu!
38.- KHÔNG TRÌ MÀ TRÌ
Khi vừa làm xong một việc gì, hay
lúc nói dứt một lời nào, còn chưa kịp đá động đến câu niệm Phật, nhưng bốn
chữ Hồng danh của Phật đã nổi hiện lên ngay. Ðây là trạng thái dễ thành
tam muội (chánh định).
39.- TRÌ MÀ KHÔNG TRÌ
Trì danh niệm Phật không mỏi chán,
khoan khoái lại càng khoan khoái hơn.
Trong lúc niệm Phật, trì niệm bốn
chữ thật rõ ràng, niệm đầu không lay động, bốn chữ bỗng nhiên tạm dừng.
Cũng không phải có cái niệm tức bốn chữ, cũng không có cái niệm ngoài bốn
chữ, như thế có thể tạm gọi là được thắng cảnh, chớ chưa phải thật tâm
không. Nhưng siêng năng niệm Phật, cảnh này thường hiện, thời dần dần được
tâm không. Nếu nhơn một niệm tâm không liền bị hôn trầm thì gọi là
không có Huệ.
Phải biết rằng: tâm càng không
thời niệm càng linh, tâm càng không thời niệm càng tịnh, đem cái ta trong
tâm Phật mà niệm Phật ở trong tâm ta, không và bất không (có) đâu còn xứ
sở? Ví như mặt trời, mặt trăng rực rỡ nơi bửu cung, vòng quanh núi Tu Di,
châu lưu chiếu thiên hạ.
Ôi! Còn gì bằng Diệu giác được
viên minh!
Lời phụ giải: (cho cả hai pháp
trên) Niệm Phật khi đã đến mức vô công dụng thì tự tại vô ngại, không cần
dụng công, không cần tác ý, không niệm mà vẫn không lìa niệm, có niệm cũng
không lìa thể vô niệm của tự tâm.
Như khi chúng ta mới tập đi xe
đạp, thì cả đầu, mình, hai tay, hai chân đều như vận dụng tất cả, thế mà
xe vẫn nghiêng ngả, lủi đây, lủi kia, quanh qua lộn lại, thế mà khi ta đã
thuần thục, tay không cần cầm, thân không cần uốn, chân đạp tự nhiên,
không dụng công gì mà chiếc xe chạy ngay đi thẳng, không khó khăn như khi
ta mới tập.
“Thế thường vô nan sự, đô lai tâm
bất chuyên,” ở trên đời không có gì là khó, là không làm được, chỉ sợ ta
không làm và có làm lại không bền chí, thì chung qui việc gì cũng chẳng ra
việc gì cả. Thế mới đáng ân hận!
40.- CÔ THÂN NIỆM PHẬT
Tỳ kheo tu hành không cần bạn lữ.
Cảnh niệm Phật càng cô tịch càng hay! Cao thấp tùy hợp, hưởn gấp tùy phần,
cốt mong cầu được thành một khối (nhứt tâm). Chính lúc bấy giờ nên biết:
thân côi nhưng tâm không côi, vì tâm của chư Phật và đức Di Ðà chưa từng
tạm rời ta. Móng lòng là Phật biết, khởi niệm thì Phật hay, lo gì cô tịch?
Nếu Pháp môn Tịnh độ còn điều gì chưa thiệt hiểu rõ, nên tìm kinh sách
Tịnh độ mà coi. Như kinh A Di Ðà, kinh Quán Vô Lượng Thọ, Thiên Thai Trí
Giả Ðại Sư Thập Nghi Luận, Thiên Như Hòa Thượng Tịnh Ðộ Hoặc Vấn, Ðại Hựu
Thiền Sư Tịnh Ðộ Chỉ Quy, Long Thơ Tịnh Ðộ Văn, Tịnh Ðộ Thần Chung, Tây
Phương Công Cứ, Tây Phương Xác Chỉ, Di Ðà Sớ Sao v.v... Ðây chỉ dẫn một ít
điều rõ ràng dễ hiểu, ngoài ra, còn nhiều thứ hay ho hơn, không kể xiết.
Nên tìm học hỏi nơi các bậc cao minh thông hiểu Tịnh độ.
Lời phụ giải: Người tu hành cần
nơi vắng vẻ để cho tâm niệm được chuyên, nhứt là tu Tịnh độ. Vì không nhứt
tâm tức không thể sanh Tịnh độ, mà muốn nhứt tâm, đầu tiên phải tìm chỗ
yên lặng để lắng tâm tư. Như mặt nước có đứng lặng thì muôn sao mới hiện,
mà muốn mặt nước lặng không gì hơn là đừng có gió. Khi đã nhập vào thể
tịch của tự tâm tức đã nhập vào pháp giới thân của chư Phật, bấy giờ không
chỉ một ngọn đèn huệ của ta độc hiện, mà ta đã hòa đồng cùng vô lượng vô
biên huệ đăng của mười phương chư Phật, ai bảo là cô tịch? Chỉ sợ ta dại
dột không hiểu, mà lo đua chen chốn trần tục lao xao, đến khi bỏ xác thân
này, lại một mình một bóng lui thui vào chốn địa ngục A Tỳ, đây mới thiệt
là cô tịch.
41.- KẾT KỲ NIỆM PHẬT
Kết kỳ là kết thất (7 ngày làm một
kỳ), nếu kết kỳ một mình, thì nên sắm bốn thứ để ăn: cơm khô, trái cây,
gừng sống, dầu mè; tám thứ để dùng: lư hương, đèn dầu, bồ đoàn (đồ để ngồi
thiền), ghế dựa, áo bông (đồ ấm), khăn hay mũ, thùng vệ sinh, giấy vệ sinh
(giấy sút). Ngoài 12 thứ đó, không để một thứ gì cả. Có thể trong suốt một
tuần, không cho ai lai vãng, để rảnh rang niệm Phật.
Nếu có 5,6 người đồng phát tâm kết
kỳ niệm Phật, thời cần phải thỉnh một vị hộ thất, lập qui điều cho nghiêm
chỉnh dán ở trước cửa.
Tất cả mọi cử động, uống ăn, hương
hoa đăng quả, đều do vị hộ thất cung cấp đầy đủ, thời những người đồng
thất cũng có thể suốt trong bảy ngày chí tâm niệm Phật. Nếu còn hạn cuộc
trong tình chấp buộc ràng, chưa biết những điều lợi hại của việc tu hành,
thì đừng nên sớm khinh suất mà làm việc này.
Lời phụ giải: Sợ không vào thất
kết kỳ, thì bao nhiêu công chuyện ngoài đời, hoặc khách khứa bạn bè, không
sao được yên tịnh mà niệm Phật. Thế nên cần phải kết kỳ, tức là lập thế
trốn khách, trốn việc vậy. Những thứ cần dùng phải sắm đủ, để khỏi phải
bận tâm, không nghĩ móng, hoặc nhờ hỏi người ngoài, hầu yên tâm niệm Phật.
Ðây chỉ nói đến bảy ngày, nhưng nếu người nhiều phương tiện, hoặc rảnh
rang, có thể kết hai hoặc ba thất v.v... không hạn cuộc. Khi đã quyết
định, thì đừng để ngoại sự chi phối, rồi nửa chừng dở thất, nếu chưa hết
kỳ mà vội mở cửa, thì thật là chua! Nên biết rằng: người tu, càng tu nhiều
ma càng khảo nhiều, nên không thể lơ mơ được, bởi thế nên phải hiểu và
phải nhận định kỹ trước khi làm, không thể thua cuộc mà hỏng việc, lại để
cười cho kẻ bàng quan.
42.- TỤ HỘI NIỆM PHẬT(^)
4,5 người hẹn nhau hội họp tu pháp
niệm Phật. Trước hết phải đặt điều ước, trật tự, sau mới bắt đầu niệm. Lúc
đầu niệm thì một tiếng mỏ một tiếng niệm, một người xướng bao nhiêu người
niệm theo, đều đều không nên so le, lộn xộn mà làm loạn động tâm người
đồng niệm.
(Pháp này không kết thất như pháp trên, mà tùy phương tiện tu tập thế
thôi, bao nhiêu người cũng được, bao nhiêu ngày cũng không hạn cuộc.)
43.- NIỆM PHẬT ÐỂ THÀNH
TỰU CHO NGƯỜI
Hoặc ở yên một chỗ niệm Phật mà
cầu nguyện cho người, hoặc đồng với người khác kết kỳ niệm Phật. Hoặc đem
pháp môn niệm Phật chỉ dạy cho người biết, hoặc cho người mượn sách Tịnh
Ðộ mà xem, hoặc phá những mối nghi lầm của người khác trong pháp môn này,
hoặc khuyên người bền chí niệm Phật, những việc ấy đều tốt và đều có công
đức cả.
Nhưng nếu người trong lúc lâm
chung mà có mình đến hộ niệm, khiến cho người bịnh luôn luôn nhớ câu niệm
Phật, vừa nhớ vừa niệm, làm cho người ấy sau khi tắt hơi rồi được vãng
sanh về cõi Tây phương, đó là thành tựu pháp thân huệ mạng cho người, công
đức này còn thù thắng hơn.
(Pháp này không có gì là khó hiểu cả.)
44.- KHI CÓ TAI NẠN NÊN NIỆM
PHẬT
Phàm lúc xảy ra tai nạn, mà nhớ
phát tâm niệm Phật, tất có kỳ ứng (ứng nghiệm lạ thường). Tuy rằng một
nước bị can qua hay một làng bị dịch lệ, mà niệm Phật để cầu, thì một
người niệm một người an, trăm người niệm trăm người an. Không phải Phật có
lòng riêng, lúc nào cũng trong ánh sáng bình đẳng, vô tâm mà ứng hiện. Vì
sao? Vì động niệm thành tiếng tự mình rõ biết hào quang sáng của đức Phật
A Di Ðà trụ trên đỉnh đầu ta, thời tự nhiên mỗi niệm đầy đủ, mỗi niệm bền
chắc, mỗi niệm dài lâu, thời hào quang của Phật chiếu đến gia hộ các vị
thiện thần độ trì, tự mình có thể lìa khỏi nạn tai, xin đừng chuyển niệm.
Lời phụ giải: Có người bảo: niệm
Phật làm sao dứt được nạn này, nạn khác? Ðó là tại vì mình không tha
thiết, hay niệm mà lòng vẫn nghi ngờ, thì bao nhiêu đó cũng chứng tỏ không
đem kết quả tốt đến cho mình rồi. Nên hiểu rằng: Tâm mình lúc bấy giờ chỉ
nghĩ có một chuyện niệm Phật ngoài ra không nghĩ gì khác, một niệm quên
thân, một niệm an tâm ấy càng kéo dài, thì khổ nào đày ải ta được? Câu
“Linh tại ngã bất linh tại ngã” có ý vị lắm thay! Một người rồi nhiều
người bắt đầu niệm Phật tức là chuyển ác niệm thành thiện niệm, thiện niệm
ấy càng kéo dài thì tai nạn nào mà không khỏi, tội khổ gì mà chẳng an?
Ngoài ra trong kinh ghi 10 điều
lợi ích của sự niệm Phật, tôi xin kính ghi chép ra đây để quý vị tin mà cố
gắng:
- Thường
được chư Phật ngày đêm hộ niệm, đức Phật A Di Ðà phóng quang nhiếp thọ.
- Thường
được 25 vị Ðại Bồ Tát như đức Quán Thế Âm thủ hộ.
- Ngày
đêm thường được chư thiên cùng đại lực thần tướng ẩn hình ủng hộ.
- Tất cả
dạ xoa, ác quỉ, rắn độc, thuốc độc đều không thể làm hại.
- Không
bị những tai nạn: nước, lửa, đao, tên, gông, xiềng, lao ngục, giặc cướp,
oan gia cùng các thứ chết dữ.
- Những
tội đã làm thảy đều tiêu diệt, những kẻ chết oan vì mình đều được giải
thoát, không còn kết oán ràng buộc.
- Ban đêm
nằm ngủ thường thấy điềm lành, hoặc thấy sắc thân thắng diệu của Phật A
Di Ðà.
- Tâm
thường vui vẻ, sắc thường tươi nhuận, khí lực đầy đủ, việc làm có kết
quả tốt đẹp lợi ích.
- Mọi
người trông thấy đều vui mừng, cung kính hoặc lễ bái cũng như kỉnh Phật.
- Khi
mạng chung tâm không sợ hãi, chánh niệm hiện ra, được Tây Phương Tam
Thánh tiếp dẫn sanh về Tịnh độ hưởng sự an vui không cùng!”
45.- NIỆM PHẬT TRONG LÚC
CHIÊM BAO
Nguyện lực bền chắc, công phu tinh
nhuần, ban ngày giữ niệm khăn khăn, ban đêm vẫn giữ niệm khư khư, thời
trong giấc chiêm bao tự mình có thể niệm Phật, đó là triệu chứng sắp vãng
sanh, vậy phải giữ điều hòa và phải cố gắng lên mãi, đừng lui đừng loạn.
Lời phụ giải: Niệm Phật đến giai
đoạn này, thật đã khá tinh nhuần. Có nhiều người niệm được ban đêm, ban
ngày không, lúc thức niệm lúc ngủ không. Như vậy tất còn gián đoạn, do
công phu chưa thuần. Phải tập thế nào: luôn luôn giữ niệm niệm Phật, dù
khi thức hay lúc chiêm bao. Muốn tập điều này thì trước khi đi ngủ hãy cố
niệm Phật cho đến khi nào ngủ mòm mới thôi, lại trước khi lên giường phải
đánh thức tâm niệm Phật bằng cách tự dặn dò: muốn thoát ly sanh tử không
gì hơn ngươi phải luôn nhớ niệm Phật, dù khi thức hay lúc ngủ. Mỗi hôm nhớ
dặn thế, sẽ quen dần dần, tự nhiên có kết quả. Quí vị muốn khuya thức dậy
đúng giờ nên tập theo cách này: trước khi đi ngủ phải dặn thành tiếng:
“Ðúng 5 giờ (hay 4 giờ tùy) phải thức dậy,” nói đôi ba lần như thế, sáng
ra sẽ dậy đúng giờ, nhưng nên nhớ một vài ngày đầu có khi bị xê dịch ít
nhiều, vì ý niệm chưa thuần, nhưng sau đó thi sẽ thức đúng dần dần, rồi
thì đúng hẳn, mười hôm như một. Ðiều này gọi là tập quen thành lệ chớ
không có gì lạ cả.
46.- NIỆM PHẬT TRONG LÚC BỊNH
Bịnh là cơ sắp chết, chết là mối
quan hệ của các thánh, phàm, tịnh, uế. Trong lúc bịnh (bịnh nặng) phải
khởi tưởng niệm là sẽ chết (để không sợ chết). Phải siêng niệm Phật, quyết
định chờ chết, ắt có hào quang của Phật đến tiếp dẫn, làm toại chí nguyện
vãng sanh của ta. Nếu trong lúc bịnh, dừng không niệm Phật thì tất cả sự
ái luyến sợ sệt, phiền não hiện lên rần rần, các thứ tạp niệm nhứt tề nổi
dậy. Thế thì con đường sanh tử lấy gì cứu vớt? Ngày xưa có một vị Tăng
bịnh nặng, rên thành tiếng “Ôi cha.” bỗng tự biết người tu lúc nghĩ nhớ
đến đạo mà lại rên như thế là sai, liền khởi niệm A Di Ðà Phật. Nhưng cơn
đau không chịu dứt, nên một tiếng rên “ôi cha” là một tiếng niệm Phật tiếp
theo, ngày đêm không dứt. Khi bịnh lành, thầy bảo mọi người: “Trong lúc
bịnh tôi rên thành tiếng “ôi cha” và chen một tiếng niệm A Di Ðà Phật, hôm
nay bịnh lành, tiếng A Di Ðà Phật hiện còn mà tiếng rên “ôi cha” chẳng
biết biến đâu.”
Hy hữu thay! Ðây là trường hợp
tinh tấn trong lúc bịnh vậy.
Lời phụ giải: Ở đời, có ai khỏi
chết, thế mà có kẻ sợ chết đến thành đốn hèn, hay tham sống đến quên chết,
thật khổ thay!
Sợ chết rồi cũng không thoát chết,
thì có sợ cũng bằng thừa. Ngày xưa có nhiều vị làm những chuyện có thể gọi
là đáng buồn cười, thế mà thật là ý vị: Sắm sẵn một cái hòm (quan tài),
đêm đêm vào ngủ trong ấy, thật là một việc mà người đời ai cũng sợ. Một
người thân, rất thân, vừa mới dứt hơi có kẻ đã không dám léo hánh đến gần,
đừng nói dở mặt để xem. Vào ngủ trong hòm, cho biết rằng vị ấy coi cái
chết như một giấc ngủ, không có gì đáng sợ, hơn nữa để thấy rằng: Cái chết
nó sẵn sàng đến với ta bất cứ lúc nào, để mà không sợ chết, chỉ có lo vun
quén cho mình một kiếp sống không bao giờ chết: con đường giải thoát. Vậy
chúng ta hãy cố mà niệm Phật, đừng sợ chết, vì cái chết của một xác thân
này chỉ là một sự cởi một cái lốt tạm của vô lượng thân vô thường biến
chuyển về sau, nếu ta chưa được giải thoát!
47.- PHÚT LÂM CHUNG NÊN NIỆM
PHẬT
Phút lâm chung nên cố gắng ghi nhớ
4 chữ A Di Ðà Phật đừng để sót quên. Nếu niệm lớn được thời niệm, còn
không niệm lớn được thì niệm nhỏ. Trường hợp lớn nhỏ đều không niệm được
(vì quá mệt) thì nên ghi khắc thầm tưởng 4 chữ trong thâm tâm, đừng cho
quên sót.
Những người hầu hạ chung quanh
phải thường nhắc nhở khuyến khích người bịnh nhớ Phật, niệm Phật.
Phải biết rằng: trong nhiều đời,
nhiều kiếp, vì ta bị loạn niệm trong lúc này (gần chết) mà phải luân hồi
mãi trong vòng ba cõi. Tại sao? Vì sanh tử, luân hồi đều do nhứt niệm làm
chủ. Nếu nhứt niệm chuyên chú niệm Phật, thì thân tuy chết nhưng tâm thần
không tán loạn, liền theo nhứt niệm ấy vãng sanh Tịnh độ.
Vậy nên hãy nhứt tâm ghi nhớ bốn
chữ A Di Ðà Phật đừng quên!
Lời phụ giải: Người tu Tịnh độ khi
gần mạng chung, nên phải dự tính rằng: Phút lâm chung là điều quan trọng
cuối cùng của đời người tu hành niệm Phật, nếu giữ gìn không kỹ, vận dụng
không khéo, thì chẳng những luống uổng công phu trong một đời là vẫn mang
cái khổ lụy luân hồi sanh tử, không sao tránh khỏi. Huống chi thân ta đây
do nơi nghiệp thức, nhờ chút tinh cha, huyết mẹ tạo nên, hễ có hình phải
có hoại, có sanh tất có tử, thật không vĩnh viễn tồn tại.
Còn cõi ta ở đây, đầy đủ uế trược,
ác hiểm, cũng từ nơi vọng nghiệp nhơ bẩn mà sanh, không phải là cảnh thanh
tịnh, an nhàn đáng cho ta quyến luyến. Ngày nay ta nhứt tâm niệm Phật cầu
khi bỏ thân này được vãng sanh Tây phương Cực Lạc, chẳng khác nào bỏ áo cũ
dơ, mặc áo mới sạch, thì còn mong gì hơn nữa.
Nếu suy nghĩ, dự tính được như
thế, thì đến khi sắp chết, trong lòng không còn tham luyến sắc thân, ngoài
không còn đắm mến cõi đời, nhứt tâm chánh niệm trực vãng Tây phương, dù
sức muôn trâu cũng không kéo lại được.
48.- PHÁT NGUYỆN SÁM HỐI NIỆM
PHẬT
Than ôi! Trong đời có thiếu gì kẻ
không biết niệm Phật, có người cho niệm Phật là dị đoan nên không chịu
niệm, người xuất gia cho niệm Phật là việc tất nhiên của mình phải làm,
chớ không biết tại sao phải niệm, kẻ cuồng huệ biết có Phật, nhưng lại
không khứng niệm, kẻ ngu si không biết Phật nên không niệm. Ðây là đem so
sánh, còn có những ngu phu, ngu phụ, nghe nói lý nhơn quả cũng biết niệm
Phật, nhưng lại mong cầu được phước báo đời sau, vẫn không thoát khỏi hột
giống luân hồi.
Tìm kẻ thật vì đường sanh tử mà
niệm Phật trong trăm người họa chăng chỉ có một hai! Nên biết rằng, người
đã niệm Phật, tức xứng hợp với lòng từ của Phật, phát thệ nguyện rộng lớn
tế độ chúng sanh. Tất cả tội cấu oan khiên thảy đều sám hối. Tất cả những
công đức dù nhỏ dù lớn đều đem hồi hướng Tây phương, như thế mới là CHÁNH
NHƠN NIỆM PHẬT.
Lời phụ giải: Làm một việc gì đều
phải có mục đích và tất nhiên phải có đạt đến kết quả của nó. Một việc
niệm Phật, siêu xuất luân hồi, vãng sanh Tịnh độ, với mục đích đã nhắm và
với kết quả sẽ đạt thật là cao siêu và thật tế, thời hành nhơn ắt phải rõ
thấu và tận dụng tri giác của mình, đâu phải những điều huyễn hoặc, vu vơ
hay thiển cận mà khinh hốt.
Nhận thức đúng đắn điểm này thời việc làm ắt không đến đỗi
luống. Thiệt lòng niệm Phật cầu thoát sanh tử thời cầu mong phước báo hữu
lậu ở thế gian làm gì? Vạn vật vô thường của cõi thế gian nào phải là chỗ
gởi thân vĩnh viễn của ta đâu? Nhưng đó chẳng qua vì hoặc nghiệp, phiền
não nhiều kiếp sâu dày, mặc dầu cũng có hiểu biết đấy, nhưng lại phải
chướng dày huệ mỏng, nên rồi phải tự cam với số phận hẩm hiu. Vậy khi đã
rõ thông và phát tâm niệm Phật thì phải hết lòng, hết sức sám hối nguyện
tiêu trừ tất cả chướng cấu trần lao để lòng thanh thoát, không còn bị
những ảo ảnh gạt lường, mới mong đạt thành sở nguyện.
[14] Trời
Hửu đảnh là cõi trời cao tột cảnh trời Sắc giới.
[15] Phong
luân: Sắc gió dưới đáy trái đất. Nhờ sức gió mạnh quay tít không
ngừng, gây một sức mạnh vô ngần để duy trì thế giới.
[16] 6
căn, 6 trần, 6 thức.
[17] Khi
hạ thủ công phu mà đạ được kết quả thì gọi là đắc thủ.