Tôi chỉ thực sự có ấn tượng sâu đậm với Tịnh Độ tông khi đọc cuốn Chu Dịch thiền giải
của Trí Húc đại sư, đến lời chú giải hào thượng lục của quẻ Tùy: "Hào
thượng lục âm nhu đắc chính, song cũng không có huệ lực, chỉ chuyên tu
tập thiền duyệt để tự vui, nên đạo ắt phải khốn cùng vậy. Chỉ có dốc hết
lòng tin tưởng hồi hướng Tây phương thì mới ‘vạn tu vạn nhân khứ’ được"(1).
"Vạn tu vạn nhân khứ " là pháp môn tu tập để vãng sinh Tịnh độ bằng
cách niệm Hồng danh Phật A Di Đà. Vạn người tu tập thì cả vạn người đều
được vãng sinh, điều đó nói lên sự nhiệm mầu của pháp môn này.
Ảnh minh họa - Ảnh: Bảo Toàn
Chu Dịch thiền giải là tác phẩm của một bậc cao tăng thuộc
hàng long tượng thuộc Thiên Thai tông thời Minh mạt, trong đó Trí Húc
đại sư muốn dùng Thiền để xiển dương Dịch, và dùng Dịch để hiển bày
Thiền, bằng rất nhiều kiến giải của Thiên Thai tông. Vậy mà Đại sư lại
nhấn mạnh đến sự mầu nhiệm của pháp môn Tịnh độ thì đó là điều rất đáng
lưu tâm. Quái từ của quẻ Tùy nói: "Tùy: Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh. Vô
cửu" (Tùy - có nghĩa là đi theo - tượng trưng cho sự khởi đầu to lớn, sự
hanh thông, thuận lợi và trinh bền. Không lỗi). "Nguyên hanh" cũng có
thể hiểu "cực kỳ hanh thông". Ý nghĩa của lời quẻ thật tốt đẹp, nên Trí
Húc đại sư dùng pháp môn vãng sinh để chú giải cho ý nghĩa của quẻ Tùy
quả là diệu bút. Vì Tùy là đi theo, mà đi theo ở đây có nghĩa là đi theo
chư Phật về Tịnh độ.
Thông thường pháp môn tu học trong Phật giáo được chia
ra làm hai loại: dễ và khó. Có những tông phái thuộc loại "khó" như
Trung Quán, Thiên Thai, Hoa Nghiêm… vì đòi hỏi hành giả phải có một kiến
thức nhất định thì mới hiểu được những thuật ngữ phức tạp của nó, hay
Thiền, vì bên cạnh cơ duyên, nó còn đòi hỏi hành giả phải có ý chí kiên
định và thiên tư thông tuệ để có thể cảm nhận được loại ngôn ngữ "bất
lập văn tự" của các thiền sư. Tịnh Độ tông được xem là pháp môn "dễ", vì
chỉ cần chuyên tâm niệm Hồng danh của Đức Phật A Di Đà là có thể vãng
sinh Tịnh độ.
Đối với những Phật tử ham đọc kinh điển, thích tìm tòi,
nghĩa là thiên về lý trí - và do đó, lý luận - thì việc niệm Hồng danh
của chư Phật để tìm được giải thoát thoạt nhìn tưởng chừng như là một
pháp môn tiêu cực, không hấp dẫn bằng kiến trúc vũ trụ vĩ đại trong tư
tưởng Hoa Nghiêm, hay thế giới siêu việt nhị biên trong hệ thống kinh Bát nhã;
nhất là không thể sánh với những bộ ngữ lục Thiền tông đầy những cuộc
vấn đáp siêu lý, cùng những hành trạng ngoại lý của các thiền sư. Mọi
vấn đề nan giải về tôn giáo hay nhân sinh, vốn làm các triết gia tốn hao
biết bao tâm trí và giấy mực, đều được các thiền sư giải quyết một cách
dứt khoát, và chớp nhoáng. Con mèo đứt đoạn dưới lưỡi đao của Nam
Tuyền, những cái tát tai nảy lửa của Lâm Tế, những đòn gậy như trời
giáng của Đức Sơn. Đó là đáp án cho mọi vấn đề triết học hay tôn giáo.
Tông phong "Phùng Phật sát Phật, phùng Tổ sát Tổ" của Thiền tông nghe ra
có vẻ giúp con người trở nên uy mãnh hơn, tự tại hơn, theo tinh thần
"Trượng phu tự hữu xung thiên chí, Mạc hướng Như Lai hành xứ hành" của
các bậc cổ đức. Con đường của Đức Như Lai đã đi, kẻ trượng phu mang chí
xung thiên còn không thèm đi qua, huống gì là niệm Hồng danh của chư
Phật để mong cầu giải thoát?
Ấy vậy mà tín ngưỡng Di Đà vẫn được coi là Tối thượng
thừa trong tất cả các "thừa" đưa con người đến giải thoát. Cỗ xe Thiền
với pháp môn "Trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật" thường được coi
là cỗ xe tối thượng - Tối thượng thừa thiền; vậy mà pháp môn niệm Phật
vẫn được coi là Tối thượng thừa, thì điều đó có nghĩa là Tịnh Độ tông
vẫn mang một ý nghĩa rất đỗi đặc thù. Thông thường, những người sơ cơ
như chúng ta tiếp cận với thế giới "sự sự vô ngại" của Hoa Nghiêm tông,
"bách giới thiên như" của Thiên Thai tông, "tứ trùng nhị đế" của Trung
Quán tông hoặc cảnh giới "Niết bàn sinh tử bình đẳng" của Thiền tông chỉ
bằng khái niệm. Trí giải thường mắc vào những sai lầm cực kỳ vi tế, mà
chỉ có những bậc chân nhân đạt ngộ mới chỉ ra cho chúng ta thấy. Đôi khi
chúng ta rơi vào trường hợp "kiến thắng vô huệ tự cứu" (kiến giải vượt
trội mà không có trí huệ để tự cứu" (Kinh Lăng Nghiêm, q.9), thì
dễ mắc vào đại ngã mạn. Huống gì nếu tu tập Thiền mà chỉ vui với thiền
lạc thì lại sa vào chỗ mà Trí Húc đại sư gọi là "chỉ chuyên tu tập thiền
duyệt để tự vui, nên đạo ắt phải khốn cùng vậy".
Mục đích khởi đầu của phép niệm Hồng danh Phật A Di Đà
chính là chế ngự tâm. Mọi cái học tâm truyền phương Đông luôn bắt đầu
bằng cách điều tâm. Có thể xem toàn bộ kinh Kim Cương chỉ là lời
giải đáp cho câu "Vân hà ưng trụ? Vân hà hàng phục kỳ tâm?" của Đại
trưởng lão Tu Bồ Đề. Mạnh Tử cho rằng "Học vấn chi đạo vô tha, cầu kỳ
phóng tâm nhi dĩ hỷ!" (Cái đạo học vấn không có chi khác, đó chỉ là tìm
lại cái tâm đã buông sổng của mình mà thôi - Cáo Tử thượng). Nhìn dưới
quan điểm Tịnh Độ tông, ta cũng có thể nói: "Niệm Phật chi đạo vô tha,
cầu kỳ phóng tâm nhi dĩ hỷ"! Niệm Phật đến mức "nhất tâm bất loạn" thì
đó là trạng thái định của Thiền, là chỉ trong phép tu chỉ quán. Phép
niệm này có thể thực hiện có hoặc không có tranh tượng Phật A Di Đà.
Hành giả có thể thực hiện các phép quán trong Vô Lượng Thọ kinh,
bằng cách quán tưởng linh ảnh hiện tiền của Phật A Di Đà và thế giới Cực
lạc. Nhưng cực đỉnh của Tịnh Độ tông này là xem mình chính là Phật A Di
Đà, nghĩa là thể tính của ta và chư Phật không khác.
Khi ta đảnh lễ trước tượng Phật thì thực chất là ta đảnh
lễ cái tâm ta, đảnh lễ cái Phật tính trong ta. Đức Phật đã dạy: "Phàm
sở hữu tướng giai thị hư vọng; Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến
Như Lai" (Tất cả những gì mang hình tướng đều là hư vọng; nếu thấy được
các hình tướng đều không có hình tướng tức là thấy được Như Lai). Tượng
Phật xét cho cùng cũng chỉ là ngẫu tượng. Đó là một biểu tượng của
Bi-Trí-Dũng mà thôi(2). Khi ta chí tâm đảnh lễ trước
tượng Phật mà ta cảm nhận được sự uy nghiêm, thì sự uy nghiêm ấy được
huân tập từ tâm ta mà sinh khởi. Chí tâm đảnh lễ hoặc chí tâm niệm Phật
đều là phương tiện để làm sáng Phật tính nơi ta. Mục đích rốt ráo của
việc niệm Hồng danh Phật A Di Đà là để liễu ngộ rằng ta chính là Ngài,
song khác ở một điểm là ta chỉ là một biểu hiện ở cấp độ thấp, một bản
sao còn mờ nhạt của Ngài. Niệm Phật, do đó, cũng là phương tiện để hợp
nhất ta với Đức Phật A Di Đà. Chỉ khi nào ta cảm nhận được Đức Phật A Di
Đà ở trong ta thì ta mới cảm nhận được Tịnh độ.
Khi đã tin tưởng tuyệt đối vào sự cứu rỗi của pháp môn
Niệm Phật, nghĩa là phó thác toàn bộ sinh mệnh ta cho bản nguyện của Đức
Phật A Di Đà một cách ung dung tự tại thì xem như ta đã đạt cảnh giới
vô ngã rồi. Trong niềm tin tuyệt đối đó hoàn toàn không còn một dấu vết
nào của bản ngã, nên từ pháp môn tu tưởng chừng như hoàn toàn thụ động,
vô hình trung ta tiến đến cảnh giới tuyệt đối tích cực, khi xóa bỏ hoàn
toàn cái Tôi nhỏ bé của mình để hòa vào Ánh sáng vô lượng trong Đại Ý
chí của Phật A Di Đà, giống như từ cảnh giới Chân không bước sang Diệu
hữu. Liệu pháp môn này có thể xem là "dễ" được như ta thường nghĩ chăng?
Kinh Na Tiên Tỳ-kheo thuật lại thắc mắc của của
vua Milinda cho rằng, làm sao những kẻ trọn đời làm ác nhưng đến khi lâm
chung biết tưởng nghĩ đến Phật lại được sinh lên các cõi trời. Na Tiên
trả lời rằng nếu ta nói thả một hòn sỏi xuống dòng sông, hòn sỏi sẽ
chìm; nhưng nếu thả một tảng đá to xuống nước mà có bè đỡ thì tảng đá sẽ
nổi. Đó có lẽ là câu trả lời hay nhất trong kinh điển về đức tin. Dòng
sông là cõi sinh tử luân hồi, hòn sỏi hay tảng đá là nghiệp lực của ta.
Còn bè đỡ chính là đức tin vào Đại Ý chí của Phật A Di Đà. Nếu ta đặt
trọn vẹn niềm tin vào Phật A Di Đà thì niềm tin đó sẽ giúp chúng ta vượt
qua được dòng sông luân hồi sinh tử, để có thể vãng sinh về Tịnh độ.
Trong tác phẩm "Cốt tủy của đạo Phật"(3),
Đại sư Suzuki thuật lại hành trạng của Shôma, người được xem là một tín
đồ Tịnh Độ tông thuần khiết nhất. Có lần Shôma viếng một ngôi chùa quê.
Vừa vào chánh điện, anh thõng chân nằm dài trước tượng A Di Đà. Một
người trách anh thất kính, anh trả lời: "Tôi vào đây là trở về nhà cha
mẹ tôi, còn anh bắt bẻ tôi như vậy chẳng qua anh chỉ là con rể trong nhà
này thôi".
Có lần Shôma cùng các bạn đi trên một chiếc thuyền buồm,
gặp lúc gió lớn sóng to, mọi người quên hết việc niệm Phật mà chỉ biết
van vái thần biển thần sông. Trong khi ấy, Shôma nằm ngủ khò cho đến lúc
người ta đập anh dậy, hỏi anh ta làm sao có thể ngủ ngon giữa một tình
cảnh như vậy, Shôma dụi mắt hỏi: "Ta còn trong thế giới Ta bà này
không?".
Có lần anh làm việc ngoài đồng, mệt bèn về nhà nghỉ. Gió
mát khiến anh nhớ đến Phật A Di Đà. Anh liền mang tượng ra đặt bên cạnh
nói: "Ông hóng mát chơi vậy nhé!".
Một hôm giữa đường mắc bệnh, bạn bè mướn người võng anh
về nhà, rồi dặn dò: "Nay anh đã về quê rồi, hãy nghỉ yên đi, và tạ ơn A
Di Đà", Shôma đáp: "Cám ơn, nhưng tôi bệnh ở đâu thì chỗ đó là Tịnh độ,
sát ngay bên cạnh tôi".
Khi có người hỏi làm sao giữ tròn được cuộc sống sau khi
chết, Shôma đáp: "Để A Di Đà lo liệu, đó không phải là phần việc của
ta".
Quả là tuyệt diệu! Thế giới của Shôma chính là cảnh giới
vô sai biệt tuyệt đối của một người đã phó thác toàn bộ sinh mệnh vào
Đại Ý chí của Phật A Di Đà. Khi đã sống trong trạng thái hòa nhập cùng
Đại Ý chí của Phật A Di Đà thành một thể Nhất như, như Shôma, thì ta sẽ
hiểu rằng Sinh tử là Niết bàn, Ta bà là Tịnh độ, Luân hồi là Vãng sinh.
Lúc đó Thiền tức là Tịnh mà Tịnh cũng chính là Thiền.
Huỳnh Ngọc Chiến (GNO)
Ghi chú:
(1) Thượng lục âm nhu đắc chính, diệc vô huệ lực, chuyên tu thiền duyệt
dĩ tự ngu; nãi tất cùng chi đạo dã. Duy dĩ thử đốc tín chi lực, hồi
hướng Tây phương, tắc vạn tu vạn nhân khứ nhĩ
(2) Theo nhà sử học Will Durant thì do ảnh hưởng của nghệ thuật Hy Lạp,
tượng Phật Thích Ca mang dáng vẻ của tượng thần Apollon: "Dưới sự giám
hộ của các ông thầy Hy Lạp, nghệ thuật điêu khắc Ấn Độ có một thời mang
gương mặt mịn màng kiểu của Hy Lạp, Đức Phật biến thành tượng mang dáng
vẻ của thần Apollon, và có vẻ như khao khát leo lên đỉnh Olympus nữa"
(Under the tutelage of Greek instructors Hindu sculptures took on for a
time a smooth Hellenistic face; Buddha was transformed into the likeness
of Apollon and became an aspirant to Olympus. W. Durant, Our Oriental
Heritage, Nxb Simon and Schuster, 1954, t.594). Đỉnh Olympus là nơi ngự
trị của chư thần trong thần thoại Hy Lạp.
(3) Suzuki, Cốt tủy của đạo Phật, Trúc Thiên dịch, Nxb.An Tiêm, Sài Gòn,
1968, tr 138-141.