Phần đông Phật tử Việt Nam tu dưỡng theo pháp môn Tịnh độ Di đà nên thường nhất tâm niệm Phật cầu sinh về Tây phương Cực lạc. Tín ngưỡng phổ thông này tuy không xuất phát từ kinh điển căn bản song thích hợp với những người hằng cầu mong một đời sống an lành ở kiếp sau.
Tuy nhiên, nếu Phật tử chỉ lo cho được sinh về thế giới Cực Lạc sau khi chết mà lãng quên hay chán ngán thế giới mình đang sống vì cho là ô uế, đau khổ, không đáng quan tâm thì đó là quan niệm không hợp với Phật lý.
Thế giới này quả thật là ô uế và đau khổ; điều ấy không ai có thể phủ nhận. Nhưng câu hỏi mà bất cứ người nào có ý thức xã hội cũng đặt ra là tại sao Phật tử không áp dụng Phật lý để cải tạo, thanh tịnh hóa, và biến nó thành thế giới thanh tịnh an lành? Đây cũng là vấn đề mà nhiều nhà Phật học đã đề cập: Tịnh độ là nhân gian mà đại biểu là Tịnh độ Di Lặc.
Trong khi văn chương Tịnh độ Di Đà Dược Sư ca ngợi những thế giới an lành xa xôi ngoài trái đất thì văn chương Tịnh Độ Di Lặc khuyến khích xây dựng thế giới an lành trong môi trường là loài người đang sinh sống.
Theo kinh điển trong tương lai. Bồ Tát Di Lặc ( Maitreya ) sẽ xuất hiện trên trái đất này tu thành Phật và cộng tác với Chuyển Luân Vương (Cakravartin) để cải tạo thế giới này thành Tịnh độ về phương diện vật chất cũng như tinh thần thì đất sẽ sạch gai góc và cỏ mềm như nhung trải khắp nơi, cây cối xanh tươi, hoa quả thạnh mậu, đường sá phẳng phiu, bóng lộn, phố đường đông đúc, nhà cửa thành quách được xây dựng bằng nhiều loại đá quý, âm nhạc hòa vang khắp nơi; về tinh thần thì dân chúng sống lâu, hài hòa, an lành, không có chiến tranh, áo cơm đầy đủ, của cải dư dả, nhà cửa khang trang, nơi đại tiểu tiện thanh khiết, mọi người thông hiểu nhau bằng một thứ ngôn ngữ, thương yêu nhau như anh em, đời sống đạo đức rất cao, không có giết chóc, trộm cướp nên không có tù tội và nhà lao v.v..( Xem: Tăng nhất A-hàm 44, Taisho, II, 787, kinh Di Lặc Hạ Sinh , Diệu KHông dịch; Trường Bộ Kinh, III, 74-76, Minh Châu dịch ).
Qua những mô tả về cảnh sống lý tưởng trên, chúng ta liên tưởng đến phần nào tiến bộ vật chất nhờ khoa học, kỹ thuật mang lại của thế giới hiện đại. Nhưng về phương diện tinh thần thì có lẽ phải đợi một thời gian lâu nữa, thế giới này, nếu có thay đổi về phương diện văn hóa, đạo đức, mới mong có thể theo kịp Tịnh độ Di Lặc.
Điều cần lưu ý là Tịnh độ Di Lặc này được ghi chép trong kinh điển Tịnh độ nguyên thủy và có vẻ chất phác hơn những tư tưởng Tịnh độ khác được phát triển về sau như Tịnh độ Di Đà, Tịnh Độ Dược Sư. Cũng vì vậy, mà có vẻ thực tế, chất phác, gần gũi với thế giới mà chúng ta đang sống. Do đó, cũng thân thiết với những người có lý tưởng muốn cải tạo và xây dựng xã hội ngày nay, nhất là về phương diện văn hóa, đạo đức.
Có một điều làm chúng ta thắc mắc là về thời gian: bao lâu nữa thì Tịnh Độ Di Lặc mới xuất hiện? Theo kinh điển là còn lâu, có thể cả triệu năm nữa. Con số thời gian đây được hiểu như là con số tượng trưng mà chúng ta thường thấy trong kinh điển được ghi chép ở Ấn Độ. Vì thế không nên câu nệ vào con số mà nên nắm lấy ý nghĩa: cảnh sống lý tưởng sẽ xuất hiện trong tương lai khi mọi người trên trái đất này đều giác ngộ chân lý, có tinh thần lợi tha và nhất là quyết tâm cùng nhau thực hiện cuộc sống đáng yêu đáng sống của loài người.
Điểm mâu thuẩn cũng cần được giải quyết là làm sao chúng ta có thể chờ đợi một cảnh sống lý tưởng trong khi mục đích của đạo Phật là giải thoát sinh tử . Theo thiển ý: Đối với người có đại nguyện muốn kiến tạo Tịnh Độ nhân gian thì số thời gian sống chết, lăn lộn để thực hành đạo Bồ tát- trên cầu giác ngộ, dưới phục vụ chúng sinh- chẳng có gì là quan trọng. Bởi chúng ta không thể xa lìa chúng sinh mà độ được chúng sinh. Và dầu có chứng Niết bàn rồi cũng phải trở lại chúng sinh trong luân hồi. Hơn nữa, vì nguyện mà ở trong luân hồi thì không bao giờ khổ ( Khổ chăng là vì nghiệp mà luân hồi), lý Niết Bàn: Luân hồi giúp chúng ta nhẫn nhục, hoan hỷ, tự tại trong công cuộc kiến tạo Tịnh Độ nhân gian. Đạo lý này giúp chúng ta phá bỏ những tư tưởng sợ sệt chán ghét, và bi quan với cuộc đời.
Nói đến Tịnh độ nhân gian này hay Tịnh độ Di Lặc là nói đến niềm hy vọng lớn về sự xuất hiện một mùa Xuân an lành mà mỗi chúng ta sẽ là một Di lặc kiến tạo cảnh sống lý tưởng bằng cách liên tục, tích cực tham gia các công tác kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa v.v… để thực hiện một mơ ước mơ cộng đồng cao đẹp của loài người: Biến thế giới ô uế khổ đau này thành thế giới thanh tịnh an lành.■
( Tạp Chí Văn Hóa Phật Giáo số 51)