Ấn Quang đại sư đưa Phổ Hiền hạnh nguyện vào pháp tu
niệm Phật vì theo ngài, không tu hạnh Phổ Hiền thì không làm được công đức và
sẽ không có điều kiện vãng sanh. Ngài chủ trương có ba điều kiện vãng sanh. Một
là hành giả tin Đức Phật Di Đà qua lời dạy của Phật Thích Ca và tin có thế giới
Tịnh độ của Đức Di Đà. Nếu không tin như vậy, không thể nào sanh về Tịnh độ, vì
niềm tin sẽ dẫn hành giả đi đến nơi mình hết lòng tin tưởng. Điều thứ hai rất
quan trọng là quyết tâm làm theo Phật dạy để vãng sanh Tịnh độ; đó là hạnh, tức
việc làm của hành giả. Không thể thiếu hạnh, nhưng hạnh chủ yếu là niệm Phật.
Tuy nhiên, đa số người lầm tưởng kêu tên Phật là niệm Phật. Niệm Phật hoàn toàn
khác với kêu tên Phật.
Suốt ngày chúng ta đọc Nam-mô A Di Đà
Phật là kêu tên Phật để vãng sanh thì không thể nào vãng sanh được. Niệm Phật
mới vãng sanh được. Chữ niệm viết theo chữ Hán gồm chữ kim và chữ tâm, nghĩa là
chúng ta đặt tâm vào hiện tại, nghĩ đến Phật Di Đà. Quan trọng của niệm Phật là
nghĩ đến Phật Di Đà, nghĩ đến công hạnh và thế giới của Ngài. Nghĩ đến Phật Di
Đà là nghĩ đến đấng giáo chủ ở cõi Cực lạc, nghĩ đến quá trình hành Bồ-tát đạo
của Ngài, nghĩ đến thế giới của Ngài. Không nghĩ như vậy mà chỉ kêu tên Phật là
sai lầm. Sở dĩ Ngài được làm giáo chủ thế giới Cực lạc là vì có quá trình hành
Bồ-tát đạo. Theo tinh thần này, chúng ta kết hợp Bồ-tát đạo của kinh Pháp
hoa và kinh Hoa nghiêm vào pháp tu Tịnh độ.
Chúng ta thấy quá trình hành Bồ-tát đạo
của Ngài trong các bộ kinh Đại thừa, theo đó từ thuở quá khứ xa xưa, Ngài làm
Chuyển luân thánh vương, tức vua không có thủ đoạn. Đức Di Đà làm vua không hứa
hẹn hão huyền, Ngài nói ít nhưng làm nhiều, lóng nghe yêu cầu của người để đáp
ứng lợi ích cho họ. Nghĩ đến Phật Di Đà, chúng ta phải học tấm gương của Ngài
để sửa đổi mình. Niệm Phật Di Đà, tôi thấy Ngài như vậy mới thành Phật, thì
mình cũng phải như vậy. Có suy nghĩ dẫn đến hành động là từ tín chuyển sang
hạnh. Phật Di Đà lóng nghe sự phê phán của người về Ngài như thế nào theo đó mà
sửa đổi, nên trở thành người thánh thiện là Thánh vương. Ngài không tranh cãi,
không có ý niệm hơn thua, mê hoặc người, chỉ lo phục vụ cho người. Trước khi
làm Phật, Ngài làm vua thấy trách nhiệm nhiều hơn quyền lợi, nên được gọi là
vua Vô Tránh Niệm. Ngài tự hoàn thiện bản thân đến mức được mọi người quý kính
thì Ngài đi tu. Người đời thi rớt, làm ăn thất bại, già yếu mới đi tu, tức xã
hội không dung, họ mới tấp vào nương bóng Phật. Người tu như vua Vô Tránh Niệm
hay vua Trần Nhân Tông coi sự nghiệp thế gian như không, thấy điều đáng quý của
đạo mới đi tu. Mẫu người như vậy xuất gia nên được mọi người tin tưởng, kính
trọng.
Niệm Phật Di Đà, chúng ta phải nghĩ đến
công hạnh của Ngài. Ngài không màng phú quý lợi danh, từ bỏ nó dễ dàng thì niệm
hồng danh Ngài, chúng ta cũng tập từ bỏ giống như Ngài. Niệm Phật là phải niệm
vậy. Qua quá trình tu hành, Ngài đổi danh hiệu là Pháp Tạng Tỳ-kheo, tức là kho
pháp của Phật. Trong trí của Di Đà lúc
ấy là kho tàng trí tuệ Như Lai. Niệm Phật Di Đà là niệm ý này, không phải niệm
Di Đà mà không hiểu nghĩa, không học theo hạnh Ngài.
Niệm Di Đà thấy rõ hiểu biết sáng ngời
vô cùng của Ngài, thì tôi đọc tụng kinh điển không biết mệt mỏi, mong sao có
được trí tuệ sáng suốt như Ngài. Chúng ta coi nhẹ quyền lợi vật chất thế gian,
nhưng bỏ sự nghiệp vật chất, chúng ta phải được sự nghiệp tinh thần cao hơn.
Đừng bỏ vật chất, kêu tên Phật mà không được gì là mê tín. Bỏ sự nghiệp vật
chất để nuôi lớn tinh thần, vì vật chất chỉ tạm thời, sự nghiệp tinh thần mới
vĩnh viễn, đạo đức và hiểu biết của chúng ta mới hằng hữu muôn đời. Từ bỏ cái
giả tạm đổi được sự nghiệp cao quý thì sao lại không đổi. Niệm Phật Di Đà để từ
bỏ vật chất, phát huy tinh thần. Phật Di Đà xưa cũng từ bỏ vương vị để được Vô
thượng Bồ-đề. Chúng ta đừng nghe xúi dại, bỏ của cải vật chất rồi trắng tay.
Như vậy, niệm Phật rõ ràng khác với kêu
tên Phật. Ta dồn công sức khi niệm Phật làm hai việc: Đọc tụng kinh điển không
mệt mỏi, chán nản và gia công tu thiền quán như Bồ-tát Đại Thế Chí đạt được
niệm Phật viên thông Tam muội, dùng trí tuệ quán chiếu biết được việc người
thường không biết. Phật Di Đà biết tất cả, nhưng phải dùng sự hiểu biết để cứu
đời mới trọn vẹn. Thể hiện tinh thần này, Ấn Quang đại sư mới kết hợp, đưa Phổ
Hiền hạnh nguyện vào pháp tu Tịnh độ. Học để đó không lợi ích, nhưng sử dụng sự
hiểu biết làm lợi ích xã hội, nên Phật Di Đà đổi tên thành Pháp Tạng Bồ-tát. Vì
vậy, việc thứ ba chúng ta niệm Phật Di Đà thấy rõ là học để làm việc. Đây là
giai đoạn thứ ba kết hợp mười đại hạnh Phổ Hiền với pháp tu Tịnh độ. Bắt gặp ý
này, tôi nhận thức sâu sắc rằng mình chỉ cần hai việc là được học và được làm
việc. Học và làm việc chính là giá trị thực tiễn của con người. Học nhiều thì
làm được nhiều, học và làm luôn kết hợp với nhau. Quan Âm ngàn mắt ngàn tay là
hình ảnh đặc biệt của đạo Phật Việt Nam thể hiện ý nghĩa biết để làm và
làm theo hiểu biết. Làm có trí tuệ chỉ đạo mới tốt, làm không biết thì nguy
hiểm.
Không học thì khó làm đúng, học mà
không sử dụng được thì lãng phí. Phật Di Đà thành công do học và làm việc. Ngài
bỏ ngôi vua đi tu để học được nhiều hơn và học xong, thành Phật, Ngài có điều
kiện làm nhiều vô cùng, làm đến muôn đời. Làm vua giỏi lắm chỉ mấy đời được
nhắc nhở, thờ phụng. Niệm Phật Di Đà, chúng ta niệm tinh ba này, nên sửa soạn
xây dựng cho mình cuộc sống có ý nghĩa.
Xa hơn nữa, chúng ta niệm Phật Di Đà hình dung thế giới Cực lạc, nghĩ
xem thế giới Cực lạc của Ngài phối trí ra sao. Khi hành Bồ-tát đạo, đi vân
thủy, Pháp Tạng Bồ-tát thấy được cảnh trí xây dựng của tất cả thế giới Phật.
Thực tế như chúng ta đi du lịch các nước Trung Hoa, Mỹ, Nhật, Âu châu, v.v…
biết được văn minh của họ. Phật Di Đà tổng hợp tất cả văn minh của các thế giới
Phật để xây dựng Cực lạc của Ngài thì nhất định thế giới Ngài phải tốt đẹp
nhất. Vì thế, Phật Thích Ca nói rằng Cực lạc mới thành lập mười kiếp nên đẹp
hơn các thế giới khác.
Ngày nay, chúng ta thấy điều lạ là thế
giới Cực lạc có trồng cây, nhưng tại sao có bảy hàng cây. Từ bước ban đầu là An
dưỡng quốc, Ngài mở rộng thành Cực lạc thế giới càng đẹp thêm mà không chướng
ngại nhau. Kinh diễn tả có bảy hàng cây báu, bảy màng lưới giăng, ao sen bảy
báu. Số bảy là con số biến. Ngày nay, chúng ta hiểu rõ rằng cây có tác động rất
tốt cho cuộc sống con người. Cả thế giới loài người đều nghĩ đến phát triển cây
xanh càng nhiều càng tốt, vì cây xanh là màng lọc cho bầu không khí của trái
đất này được trong sạch. Đức Phật Di Đà đã biết trồng cây để tạo môi trường
trong lành cho thế giới Cực lạc của Ngài từ lâu rồi. Và Cực lạc cũng có bảy
màng lưới giăng để làm gì, chúng ta cũng chưa phát hiện được. Ngài gắn vô đó vô
số hạt châu để tỏa ánh sáng và kết hợp ánh sáng với âm thanh để tác động cho
người nghe phát tâm niệm Phật, Pháp, Tăng. Chúng ta thấy ánh sáng và âm thanh
đóng vai trò quan trọng trong các thế giới văn minh hiện đại.
Ấn Quang đại sư dạy rằng niệm Phật là
niệm tỉnh giác, tức đem tâm cột vô niệm hiện tiền. Chúng ta nghĩ đủ thứ là mê
tình hay thức biến, nên phạm sai lầm, dẫn đến khổ đau, sa đọa. Niệm pháp là
niệm chánh. Chúng ta phải nhìn chính xác mọi việc diễn biến trên cuộc đời, luôn
cân nhắc xem chúng ta có nói đúng, nghĩ đúng và làm đúng hay chưa. Lời nói, suy
nghĩ và việc làm đúng thì được người thương quý, sai thì chuốc họa. Niệm Phật
phải luôn tỉnh giác, cân nhắc xem chúng ta có đúng hay không, không phải chỉ
đọc tên Phật; nếu chưa đúng thì điều chỉnh lại cho đến chính xác hoàn toàn là
thành Phật. Tăng là thanh tịnh, nên ví tâm người tu như nước trong. Niệm Tăng,
chúng ta quán sát xem tâm mình thanh tịnh, yên lặng, trong sạch hay chưa. Cố
giữ tâm, không cho sóng tình gợn lên. Và khi tâm đứng yên, trong suốt thì mặt
trời Phật rọi vô, huệ chúng ta phát sanh. Người lúc nào cũng tỉnh giác, làm
đúng và tâm không khởi động là tu Tịnh độ để vãng sanh, để thành Phật.
Đức Phật Di Đà thiết đặt Cực lạc từ âm
thanh, ánh sáng tạo nên huyền vũ cho người vào đây luôn tự điều chỉnh họ. Ngài
không thuyết pháp, nhưng người tự thanh tịnh theo cảnh trí của Ngài xếp đặt, nên
gọi là Tịnh độ. Thấy cảnh giới Di Đà như vậy, niệm cảnh giới Di Đà như vậy, thì
thực tế từ tín đã bước sang hạnh.
HT.Thích Trí Quảng (GNO).