Ở
giai đoạn đầu, khi Ngài khoác áo Sa môn đi khất thực, sống cuộc đời vô
cùng thanh đạm mà những người xung quanh thấy Ngài sống cực khổ, vất
vả, nhưng thật sự cuộc sống phạm hạnh cao quý đó đã cho Ngài niềm an
lạc vô biên. Ngài nhận ra được tâm an lạc chính là Tịnh độ.
Tinh
thần này về sau được Thiền tông triển khai thành học thuyết Tịnh độ ở
tâm. Người tu theo lý này cũng có đời sống phạm hạnh như Đức Phật, tưng
bước chân chậm rãi hành Thiền, họ bước vào Tịnh độ và tâm họ cũng theo
đó an trú ở Tịnh độ. Như vậy, cả thân tâm thanh tịnh thì thế giới hiện
hữu là Tịnh độ; nói cách khác, Tịnh độ được hình thành trong tâm, thế
giới nôi tâm trong sáng, thuần khiết là Tịnh độ.
Tuy nhiên, pháp môn Tịnh độ đi xa hơn một bước nữa. Bắt
đầu tâm ở trong Tịnh độ rồi, nhưng hành giả không thể đem thân tứ đại
vào Tịnh độ được, mà phải đem thân phước đức và trí tuệ mới có thể đi
theo tâm thanh tịnh để thâm nhập Tịnh độ, từ đó hình thành cõi Tịnh độ
thứ hai gọi là Thật báo trang nghiêm Tịnh độ, một thế giới do phước
đức, trí tuệ và tâm thanh tịnh tạo nên.
Như vậy, qua loại hình thế
giới thứ hai hiện thành Tịnh độ chư Phật mười phương; vì chư Phật đã có
đầy đủ ba yếu tố cần thiết tạo thành Tịnh độ, đó là tâm chư Phật thanh
tịnh, phước đức chư Phật viên mãn và trí tuệ chư Phật tuyệt đỉnh. Trang
nghiêm bằng ba Thánh tài như vậy, chư Phật mới xây dựng được thế giới
vật chất thanh tịnh thực và với phước đức trí tuệ hoàn mỹ, các Ngài tập
họp được chúng Hiền thánh một cách đơn giản. Thực tế cho thấy nơi nào
có phước đức và trí sáng, nơi đó dễ dàng quy tụ được người tốt, người
giỏi. Tịnh độ Thật báo được kết hợp như vậy.
Đức Phật Thích Ca cho
biết Đức Phật Di Đà trải qua vô lượng kiếp tu hành để kết thành thọ
mạng viên mãn của Báo thân, nghĩa là từ khi phát tâm tu hành cho đến
thành tựu đạo quả, Ngài đã hành Bồ tát đạo không mệt mỏi, phát huy được
trí tuệ vô thượng và phước đức vô cùng, mới kiến tạo thành thế giới Cực
lạc ở phương Tây.
Riêng pháp môn Tịnh độ chịu ảnh hưởng tinh thần
Tịnh độ của Đức Phật Di Đà mà Đức Phật Thích Ca đã nói rằng chúng sinh
ở Ta bà có duyên với Đức Phật Di Đà và Tịnh độ tông đã được triển khai
từ Tịnh độ tam kinh, Tịnh độ ngũ kinh. Tịnh độ tam kinh đặt nền tảng
trên ba bộ kinh là kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng Thọ và kinh Di
Đà. Kinh Vô Lượng Thọ nói về hành trạng của Đức Phật Di Đà khi tu hành
Bồ tát đạo. Kinh Quán Vô Lượng Thọ chỉ phương cách cho chúng ta đưa tâm
về Tịnh độ Tây phương của Phật Di Đà. Và kinh Di Đà rút gọn lại nhân
hạnh quả đức của Phật Di Đà để chúng ta lấy đó làm hành trang thực tập
pháp môn Tịnh độ.
Pháp môn Tịnh độ ở Việt Nam cũng hình thành trên
tinh thần Tịnh độ tam kinh, nhưng vì đất nước chúng ta có truyền thống
tu Thiền từ lâu đời, nên pháp tu Thiền và Tịnh thường được hòa nhập lẫn
lộn. Vì vậy, có người tu niệm Phật nhưng thực tập Thiền quán, hoặc có
người tu Thiền nhưng niệm Phật để cầu chứng Niệm Phật tam muội, hay cầu
sự gia bị của Đức Phật Di Đà để được vãng sinh Tây phương Cực lạc.
Pháp môn Tịnh độ phát triển mạnh ở Việt Nam trong thời
kỳ chấn hưng Phật giáo. Các Hòa thượng nghĩ rằng Phật pháp đang suy
đồi, người ta không có điều kiện nâng cao trình độ kiến thức học Phật
để biết rộng tất cả các pháp môn của Phật dạy cũng như khó thực tập các
pháp môn khác, nên quý Ngài cho rằng pháp niệm Phật đơn giản, ai cũng
thực hành được. Từ đó, pháp môn niệm Phật được đề cao và đứng đầu là
Hòa thượng Trí Tịnh, Ngài đã thành lập Tịnh độ Liên hữu quy tụ những
người tu Tịnh độ chuyên niệm Phật Di Đà. Và tiếp nối pháp môn niệm Phật
của Hòa thượng Trí Tịnh là cố Hòa thượng Thiền Tâm đã thành lập đạo
tràng tu Tịnh độ ở Đại Ninh. Từ đó đến nay, pháp môn Tịnh độ được phổ
cập trong cả nước, tập trung nhiều Phật tử hành trì được lợi lạc.
Cầu
mong rằng tất cả đệ tử Phật thực hiện đúng đắn giáo pháp Phật dạy để
xây dựng cho mình cõi Tịnh độ tâm ngay trên nhân gian này và khi cánh
cửa ở thế giới Ta bà khép lại, chúng ta bước vào Tịnh độ chư Phật trong
mười phương.