I. Dẫn nhập:
Kinh Ðại Bổn Di Ðà nói:
Một hôm Ðức Phật Thích Ca dung nhan khác lạ, ngài A Nan mới hỏi có nhân duyên
gì mà Ðức Thế Tôn hoan hỷ như vậy? Ðức Phật nói có pháp môn niệm Phật Di Ðà rất
thích hợp với chúng sanh, đặc biệt vào thời mạt pháp khi căn cơ chúng sanh bị
giới hạn đi nhiều và bất cứ ai cũng có thể trì niệm được. Ðây là nguyên do đầu
tiên.
Bà Vaidehy cùng vua
Bimbisara có sanh một vị hoàng tử tên là A Xà Thế, người con này vô cùng ngỗ
nghịch, không bao giờ nghe lời chỉ dạy của phụ vương cũng như mẫu hậu. Ông nghe
lời Ðề Bà Ðạt Ða (y nói rằng trong Ðạo có Phật Thích Ca là lớn nhất, ngoài đời
có vua Tần Bà Sa La là uy quyền hơn cả) về nhà bắt giam vua cha vô cớ. Hay tin
này, bà Vaidehy rất đau khổ mới xin những người gác ngục vào thăm vua. Ðể có
thể mang đồ ăn thức uống vào cho vua đang bị giam, bà lấy trái Ampala lớn như
trái ổi (loại trái cây này chỉ có bên Ấn Ðộ) giả như mang một xâu chuổi, trong
đó hoàng hậu để các đồ cần dùng no lòng. Cứ thế nhiều ngày trôi qua, tuy nhiên,
sự việc này cuối cùng bị A Xà Thế phát giác và điều tra, sau đó bắt và hạ ngục
luôn bà mẹ của mình.
Trong ngục tối của thành
Vương Xá dưới chân núi Linh Thứu, mỗi đêm bà đều hướng lên Linh Sơn để cầu
nguyện với Ðức Phật: «Làm sao Thế Tôn cho con sống trong một thế giới nào
không có những đứa con ngỗ nghịch!» . Ðức Phật ở trên núi Linh Thứu
mới phóng quang cho bà thấy cả 10 phương thế giới. Từ đó bà mới chọn cảnh Tây
Phương Cực Lạc Thế Giới, có Phật Di Ðà đáng kính đáng về (đây là theo nhân
duyên cảm nhận, thực sự 10 phương Phật, phương nào cũng là cực lạc, cõi Phật
nào cũng đều nên về cả). Bà phát nguyện khi xã báo thân này là sẽ về cõi Phật A
Di Ðà. Ðây là nguyên do thứ hai.
Trong kinh nói rằng, Ðức Phật Di Ðà luôn luôn chờ đợi
để tiếp đón chúng sanh lên 9 phẩm sen vàng, phần còn lại là ở nơi chúng sanh có
muốn về cõi Phật hay là không.
II. Ðịnh nghĩa, đại nguyện,
và cảnh giới:
Namo Amitàbha Buddha hay Nam Mô A Di Ðà Phật nghĩa là
Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Quang, Vô Lượng Công Ðức.
Namo nghĩa là quy mạng, nương về ở đây dịch âm từ
tiếng Bắc Phạn, Tàu dịch là Nam Vô, người Việt đọc là Nam Mô; Amitàbha là Vô
Lượng Thọ (mạng sống lâu không thể lường), Vô Lượng Quang (sáng suốt vô cùng
tận), Vô Lượng Công Ðức (ngài tu hành không biết bao nhiêu kiếp nên công đức
không thể nào lường được); Buddha là Phật hay Phật Ðà (là tự giác, giác tha,
giác hạnh viên mãn, người nào có đủ ba hạnh đều gọi là phật cả). Trong mỗi
chúng ta có sẵn những đức tánh vừa nêu trên, nhưng từ nhiều đời nhiều kiếp trở
lại đây nó đã bị bụi trần vô minh che lấp, nên không thấy được. Ðức Phật dạy ta
pháp môn niệm Phật Di Ðà nhằm hướng dẫn ta trở về con đường nầy, hơn nữa sự trở
về này dù cho có Phật Di Ðà làm trợ duyên tốt, nhưng trước tiên chính là mỗi
người trong chúng ta cần phải đầu tư thật nhiều cố gắng, thì mới có thể về được
cõi Phật.
Cõi Phật Di Ðà hay là Tịnh Ðộ có nhiều tên gọi khác
nhau như Cực Lạc, Tây Phương, An Dưỡng Quốc, An Lạc Quốc. Cảnh trí cõi Tịnh cho
chúng ta thấy rằng chánh báo nào thì y báo nấy. Chánh báo là chỉ cho Ðức Phật
Di Ðà, Y báu là cõi nước. Chánh báu là phước báu chánh của vị đó, còn Y báu là
phước báu nương theo vị đó. Khi ta đã biết được cảnh trí Tịnh độ rồi (diễn tả
chi tiết trong Kinh A Di Ðà), thì mới hết lòng cầu về cõi Tịnh.
Nguyện về tịnh độ một nhà
Hoa sen
chín phẩm là cha mẹ mình
Hoa nở
rồi biết tánh linh
Các ông
Bồ Tát bạn lành với ta.
Khi chúng sanh chưa giác
ngộ thì các vị Bồ Tát là cao, còn khi ta ngộ (sinh về Tịnh độ) thì các ngài là
người bạn lành của chúng ta. Chúng ta muốn thật sự gia đình được đoàn tụ (không
phải sau khi chết rồi, mỗi người mỗi nẻo luân hồi), thì chỉ nên đi một đường
này. Tất cả chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh
độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường
niệm Phật Di Ðà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả
dòng họ sẽ gặp nhau cả (Cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu – chín phẩm hoa sen là cha
mẹ). Khi chúng ta bắt đầu niệm Phật tại đây thì trong Ao Thất Bảo bên Tịnh độ
hiện lên một hoa sen ghi danh hiệu của ta ở trên đó. Khi niệm Phật phải phát
tâm Chánh Tín rằng chư Phật không bao giờ nói dối chúng sanh; hơn nữa phải tin
tưởng giáo pháp của Phật đã chỉ dạy trong các kinh điển, và quan trọng hơn cả
là phải tự tin nơi chính bản thân của mình. Còn nếu có người vẫn niệm Phật
nhưng lòng còn nghi, thì sau khi chết sanh về nghi thành, và ở đó trong nhiều
tháng, đây là lời trong Kinh Ðại Bổn Di Ðà đã ghi. Do đó nhất định không thể
nào nghi được, phải có một ý chí sắt đá tin tưởng vào sự trì niệm danh hiệu
Phật Di Ðà và cầu sanh Tịnh độ. Muốn về Tịnh độ phải trang bị tư lương thật đầy
đủ. Tư nghĩa là thực hành các loại công đức khác nhau, như làm lành lánh dữ
(thọ Tam Quy trì ngũ giới), giúp đỡ kẻ yếu binh vực người ngay (ở đây cần hiểu
rộng ra là người Phật tử ngoài chuyện tụng kinh niệm Phật, còn phải đóng góp
tâm trí vào việc cứu vớt dân tộc Việt ra khỏi ách nạn cộng sản); Lương nghĩa là
hành trang niệm Phật tụng kinh một cách chí thành khẩn thiết. Ngài Huệ Viễn là
vị Tổ sư của pháp môn Tịnh độ dạy rằng: «Thà về Tịnh độ ở Hạ phẩm, còn hơn lên
các cõi trời, vì lên trời còn bị đọa sau khi hết phước». Khi về Tịnh độ thì
thần thức ta ở trong hoa sen, hoa nở mới gặp được Phật A Di Ðà, tại đây sẽ được
bậc Bất thối chuyển, không có thân tướng nam nữ khác biệt.
Còn về cảnh trí Tịnh Ðộ
thì mỗi nơi chốn tiêu biểu cho số 7. Cho
nên mới nói về đến Tây phương Tịnh độ được tắm ao thất bảo. Tắm ao thất bảo này
để trừ thất bất khả tỵ (bảy việc không thể tránh khỏi) như: 1/ Sanh (theo
nghiệp lành dữ), 2/ Già (tuổi lần xế chiều), 3/ bịnh, 4/ chết, 5/ tội (khổ quả
tội nghiệp), 6/ phước (khổ quả thiện nghiệp), 7/ nhơn duyên (hòa hợp sanh ra,
họa phước giàu nghèo). Ngoài ra còn có hương ngũ phận, lưu ly có đất sáng ngần,
ma ni có nước trong ngần chảy quanh, thất trân có 7 lớp thành, 7 hàng cây báu 7
hàng lưới châu, có ngân các có kim lầu, có chim nói pháp nhiệm mầu dễ nghe;
Nghe rồi tỏ đạo bồ đề các ông Bồ tát bạn lành với ta. Do đó ta thấy rằng cõi
chúng ta ở là Ta bà đầy cảnh khổ đau, dầu có phước đức như thế nào đi nữa thì
cũng không thoát khỏi sanh, lão, bịnh, tử.
Trong tất cả các pháp
hội khi Ðức Thế Tôn còn tại thế, tất cả các bộ kinh ngài thuyết đều do có người
hỏi cả; đặc biệt bộ Kinh Di Ðà thì ngài đã vô vấn tự thuyết (không hỏi mà nói),
như trong kinh tiểu bổn Di Ðà, Ðức Phật kêu ngài Xá Lợi Phất mà nói về công đức
của bộ kinh này. Pháp môn Tịnh độ chỉ cho chúng ta đi về con đường an vui, sự
trình bày của tôi hôm nay để cùng nhau đi về thế giới thanh tịnh an vui mà chư
Phật, chư vị Tổ sư đã đi trước chúng ta một thời gian khá dài. Thế giới Tịnh độ
thực ra không xa nơi chúng ta đang cư ngụ, nếu ta giác ngộ thì thế giới đó ở
ngay chính trong ta, nên có một câu nói là Duy Tâm Tịnh Ðộ (nghĩa là muốn trở
về cõi Tịnh thì trước nhất Tâm của ta phải Tịnh, vì Tâm tịnh tức Phật độ tịnh),
là ở ý nghĩa đó. Ðức Phật Di Dà rất từ bi, ngài phát 48 lời đại nguyện và lúc
nào cũng đưa tay sẳn sàng tiếp đón thần thức của ta về với quốc độ của ngài,
nhưng nếu tâm ta chưa thanh tịnh thì chưa thể nào về cõi Tịnh được.
Do vậy người niệm Phật
phải luyện tập hằng giờ, hằng ngày, hằng tháng cho được thuần thục và nhất tâm.
Trong các bài sám có câu «Một lòng mỏi mệt không nài, cầu về tịnh độ ngồi
đài liên hoa, cha lành vốn thiệt Di Ðà, soi hào quang tịnh chói lòa thân con…».
Nếu niệm Phật không tinh tấn thì không thể nào về được cõi Tịnh, và mọi người
đều biết rằng ai ai cũng đều phải chết, có một vị Tổ sư nhắc rằng «Chớ đợi đến
già mới niệm Phật, thiếu chi mồ trẻ đã qua đời». Khi chết ta phải tìm con đường
để đi, điều cần yếu là đừng trở lại chốn này. Trong chúng ta đây là những người
có được phước, so với đồng bào ta ở trong nước đang phải sống rất khổ cực dưới
chế độ cộng sản, cho dù đủ ăn đủ mặc nhưng vẫn phải chịu những cái khổ khác
không sao tránh khỏi, vì đây là thế giới đầy sự đau khổ, trong đó chúng sanh
lấy khổ cho là vui, thân chịu trong cảnh khổ không tìm cách thoát ly. Về với
Phật Di Ðà là để có cơ duyên thuận tiện để tu hành chứ không phải về tới Tịnh độ
là được thành Phật ngay, cho nên có 3 phẩm hóa sanh (thượng, trung và hạ) là ở
nơi công đức tu trì của hành giả mà thôi.
Ðức Phật thuyết giảng
hơn tám muôn bốn ngàn pháp môn, nhưng ngài nói pháp môn niệm Phật Di Ðà và cầu
sanh Tịnh độ là Bất Nhị Pháp Môn (nghĩa là pháp môn có một không hai), các pháp
môn khác đều phải tự lực trước; riêng pháp môn này khi bắt đầu trì niệm hồng
danh Ðức Phật Di Ðà, thì người trì niệm đã được an trụ trong hào quang, cũng
như sự che chở của ngài, sự việc này đến do nơi 48 đại nguyện phát ra trước
đây. Lời nguyện thứ 18 nói rằng: «Có chúng sanh nào, muốn sanh đến thế
giới của ngài, chí thành tâm thiện chí thành tâm niệm danh hiệu của ngài
10 lần. Nếu người đó không sanh về cõi ngài thì ngài không chứng bực chánh giác».
Do đó ta thấy pháp môn nầy nhờ vào đại nguyện của đức Phật Di Ðà và các bực
thánh chúng, đặc biệt là rất phổ cập và không khó để hành trì, hàng Phật tử dù
tại gia hay xuất gia, gặp nhau nơi nào đi nữa, câu nói đầu tiên thoát ra từ cửa
miệng là A Di Ðà Phật!
III. Tư lương, điều kiện và kết luận:
Dưới đây là một vài điều
kiện căn bản để làm tư lương trên đường về cõi Phật A Di Ðà :
1/ Sự kiện trên có ý nghĩa đặc biệt nhằm gợi lại
Phật tánh sẳn có nơi mỗi người (bản tánh của ta vốn sáng suốt, nhưng bị vô minh
che lấp từ nhiều đời nhiều kiếp trở lại); thứ hai nhắc nhở tới bình đẳng Phật
tánh giữa tất cả mọi loài cùng mười phương chư Phật. Cho nên trì niệm danh hiệu
đức Phật A Di Ðà tức là tưởng nhớ tới danh hiệu của 10 phương chư Phật. Nhưng
muốn thành tựu công đức này, một điều không thể nào quên được, đó là phải có
niềm tin. Vì có niềm tin nên mới trì niệm, có niềm tin nên thực hành, và có
niềm tin mới đi đến kết quả sau cùng. Cho nên mới nói rằng: Tín vi đạo nguyên
công đức mẫu, Tín năng trưởng dưỡng chư thiện căn, Tín năng siêu xuất chúng ma
lộ, Tín năng đắc nhập tam ma địa, Tín năng giải thoát sanh tử hải, Tín năng
thành tựu Phật bồ đề. Bởi thế cho nên Nhân Vô Tín Bất Lập. Người tu niệm tin
Phật không bao giờ nói dối chúng đệ tử vì thân khẩu ý của ngài đã thanh tịnh;
tin Pháp là chơn lý không bao giờ dời đổi; tin sức mạnh của bản thân sẽ được đi
về Tịnh độ. Tất cả chúng sanh đều có tánh Phật, tiềm ẩn tự tánh Di Ðà, và tâm
Tịnh độ, cho nên, ta phải chí thành tin tưởng và trì niệm mỗi ngày để ngày nào
khi tắt thở, thì thần thức này đương nhiên sẽ đi về cõi Tịnh độ mà thôi.
2/ Về mặt phát nguyện
phải hết sức thành khẩn, kinh Di Ðà nói chúng sanh mong muốn về cõi Tịnh độ để
thấy Phật Di Ðà cũng như con mong muốn được gặp mẹ. Cho nên có câu trong bài
sám tụng như sau: «…đã sanh về chín phẩm sen, mấy tai cũng xẩy, mấy duyên
cũng tròn, Phật như thể mẹ tìm con, con mà gặp mẹ lại còn lo chi, lầu vàng đài
các thiếu gì, ăn thời cơm ngọc, mặc thời áo châu, không ơn không oán không sầu,
không già không chết có đâu luân hồi…». Qua đó ta thấy rằng Ðức Phật giống
như một bà mẹ hiền lúc nào cũng muốn đưa chúng ta về cảnh giới an lành, còn về
hay không là tùy ở nơi mỗi người chúng ta. Chư vị thiền đức đã nhắc chúng ta
rằng nơi cõi chúng ta đang sống là một cảnh chiêm bao lớn. Trong giấc chiêm bao
lớn này, sống chết là chiêm bao nhỏ, khi giác ngộ rồi thì đại địa vô thốn thổ
(cả trời đất bao la này không còn gì cả), vì chúng ta chưa ngộ nên cho tất cả
mọi chuyện chung quanh đều là thật cả. Phải phát tâm mong muốn hết lòng, cầu về
gặp cho bằng được bà mẹ hiền (Ðức Phật Di Ðà) đã chờ ta từ vô lượng kiếp tới
nay.
3/ Mỗi ngày cần siêng
năng niệm Phật để chuẩn bị tư lương đường về cõi Phật. Tư lương này ví như là
công đức của ta cần tích lũy cho mai sau khi ta nhắm mắt lìa trần. Khi xa lìa
thế gian chỉ có tư lương này là có thể đem theo ta vĩnh viễn, còn tiền bạc mà
ta tạo dựng hay dành dụm khi còn sống thì không thể nào đem theo được; như Kinh
Pháp Hoa có phẩm Thí Dụ ghi lại câu chuyện ông nhà giàu vì muốn cứu các người
con mê muội quây quần chơi giỡn trong nhà lửa nên dùng các thứ xe làm phương
tiện để cứu các con thoát chết. Khi các người con được ra khỏi nhà lửa (tam
giới) thì người cha bảo đó chỉ là phương tiện để cứu các con mà thôi. Ở nơi đây
cũng thế, pháp môn niệm Phật mà Ðức Phật thuyết giảng là phương tiện để cứu vớt
chúng sanh ra khỏi luân hồi (tam giới) và về cõi Tịnh. Về sự thực hành thì tôi
đề nghị như sau: «mỗi ngày đêm 24 tiếng đồng hồ để lo toan việc đời cũng như
ngũ nghĩ, cần để riêng 30 phút hoặc tối hay sáng tùy theo hoàn cảnh, ai đủ thời
giờ thì trì niệm cả hai thời sáng và tối càng tốt.Trong nhà thờ Phật Di Ðà, sau
khi vào kinh tụng tiểu phẩm Di Ðà, đến khi hồi hướng thì nguyện con tên…pháp
danh…phát nguyện trì niệm danh hiệu Ðức Phật A Di Ðà khi xả báo thân này được
sanh về tây phương cực lạc thế giới. Lưu ý là nên thực hành đều đặn, không nên
hôm làm hôm nghĩ và cần có một xâu chuổi để niệm Phật. Trong kinh còn nhắc nhở
rằng tu hành mà không phát nguyện thì khó mong thành tựu đạo quả.
Có 4 phương pháp thực
hành:
1/ Trì danh niệm Phật:
gìn giữ danh hiệu đức Phật, cũng như suy nghĩ về sự sáng suốt của ngài, vì
không niệm Phật thì sẽ niệm chúng sanh. Ðây là phương pháp niệm Phật ra tiếng
(Sự niệm Phật).
2/ Quán tưởng niệm Phật:
quán tưởng hình tượng Ðức Phật Di Ðà phóng quang mà niệm. Chú ý nên để hình
tượng Phật Di Ðà trước mặt để niệm Phật (Sự niệm Phật).
3/ Tham cứu niệm Phật:
niệm một câu Nam Mô A Di Ðà Phật phải tham khảo cứu xét mà niệm. Quan niệm rằng
niệm Phật là niệm Tâm, niệm Tâm là niệm Phật. Vì Tâm, Phật, cập chúng sanh ba
việc đó không có sai khác. Vì không sai khác nên mới tham cứu, niệm từ nơi tâm,
tâm ta là Phật. Phật tức tâm, tâm tức Phật. Chính ta có Phật, vì niệm Phật ở
ngoài là niệm Phật ở trong (Lý niệm Phật). Ở phần này cho ta thấy không khác sự
tham cứu thoại đầu ở thiền tông, đưa đến kết luận rằng Thiền và Tịnh không khác
gì nhau cả. Nếu có khác là do tâm phân biệt của người tu hành mà ra, hễ có tâm
phân biệt như thế thì chưa đúng là người tu thiền thật sự. Khi xưa, Bồ tát
Khương Tăng Hội, vị Tỵ Tổ của Thiền tông Ðông độ cũng như của Việt Nam đã cho
rằng giữa thiền và tịnh độ thực ra không có gì khác biệt cả.
4/ Thật tướng niệm Phật:
Trong khi niệm Phật quán sát tướng vũ trụ nhân sanh chỉ có một, không có nhiều.
Khi còn mê muội thì thấy chúng nó có thiên hình vạn trạng (pháp giới trùng
trùng duyên khởi), còn khi giác ngộ rồi thì sơn hà đại địa vô thốn thổ. Quán
sát tướng chân thật đó, thấy ra tất cả chúng sanh đều như ta không khác - ở đây
Ðức Phật nói Ðồng Thể Ðại Bi - người đau khổ tức là mình bị khổ đau. Do đó Bồ
Tát Thấy Dân Kêu Ca, Do Vậy Gạt Lệ, Xông Mình Vào Nơi Chính Trị Hà Khắc Để Cứu
Dân Khỏi Nạn Lầm Than mà cách đây 2000 năm đã được ghi trong Lục Ðộ Tập Kinh
làm phương pháp hành đạo cứu nước cứu đời của các vị trí thức, nhân sĩ Phật
giáo nước ta dùng làm phương châm chống lại sự xâm lăng của người Tàu phương
Bắc. Truyền thống này còn lưu truyền và phổ biến cho tới mãi bây giờ. Trở lại
phương pháp thứ tư Thật Tướng Niệm Phật cho ta thấy là thượng chí nhất tâm bất
loạn, hạ chí thập niệm thành công.
Bồ đề
vừa nắm trên tay
Bao nhiêu phiền não trần lao dứt liền
Phật
hiệu Di Ðà gắng sức tinh chuyên
Luân
hồi sanh tử không còn từ đây
Những điều cần lưu ý khi
sắp lìa trần.
1/ Trên vấn đề hộ niệm:
Thực hành Vô úy thí bằng cách khuyên nhũ nhẹ nhàng người sắp chết đừng suy nghĩ
những chuyện thế gian nữa, hãy bỏ hết,
chỉ suy nghĩ duy nhất một việc đó là con đường trở về cõi Tịnh của đức Phật A
Di Ðà. Cần nên nhớ rằng, trước khi sắp chết người bịnh rất yếu về mặt tinh thần
giống như con cua bị bỏ trong nồi nước nóng (thí dụ như nghĩ ngợi đủ chuyện,
rồi tùy theo tâm niệm lúc đó mà vào địa ngục hay là lên Tịnh độ v.v…). Chúng ta
phải dặn những người tới trợ niệm khuyên người bịnh phải dũng mãnh, và luôn nhớ
Phật Di Ðà.
2/ Cách bày biện trong
căn phòng: cần tôn trí một hình Phật A Di Ðà đang phóng hào quang tiếp dẫn, nơi
để hình Phật khiến cho người bịnh được trông thấy dễ dàng nhằm gia tăng chánh
niệm, cũng như hộ niệm dễ dàng.
3/ Hạn chế sự khóc lóc:
Trong việc này phải cố gắng kềm chế sự xúc động, vì càng xúc động, càng khóc
lóc nhiều sẽ không lợi lạc cho sự hộ niệm, mà ngược lại cản trở cho công cuộc
hộ niệm cho người sắp chết cầu sanh Tây phương cực lạc. Trong những tình huống
như thế này, theo quan niệm tổng quát, khi thân nhân sắp lìa trần những người
còn ở lại khóc lóc thương tiếc nhiều chứng tỏ có sự thâm tình hoặc là có hiếu
đối với cha mẹ. Nhưng đối với người tu niệm Phật Di Ðà, TUYỆT ÐỐI KHÔNG ÐƯỢC
KHÓC, vì khóc sẽ là chướng ngại lớn cũng như làm tiêu tan công đức niệm Phật
của người sắp chết. Sau khi hộ niệm xong, người thân đã lìa trần một cách êm
ái, lúc đó, hãy ra nơi khác mà khóc mà bày tỏ tình thương. Dù cho người sắp chết
suốt đời tu niệm Phật, nhưng lúc lâm chung mà không được hộ niệm một cách tốt
đẹp, thì sẽ mai một công đức của họ, thật tiếc vô cùng. Xin hãy thận trọng ở
điểm này.
Lợi ích của sự niệm
Phật:
1/ Khi niệm Phật sẽ trừ
được niệm chúng sanh để cho tâm hồn chúng ta được sáng suốt; 2/ Niệm Phật tội
chướng được tiêu trừ, gia tăng tín tâm với Phật Pháp; 3/ Trì niệm danh hiệu đức
Phật Di Ðà sẽ được sanh về cõi Tịnh độ, chứng được bậc vô sanh bất thối, sau đó
tùy tiện trở lại chốn này hóa độ chúng sanh.
Công đức của việc trì
niệm danh hiệu đức Phật Di Ðà được ghi lại trong các bộ kinh tiểu bản Di Ðà,
đại bản Di Ðà, Thập Lục Quán, Kinh Hoa Nghiêm v.v… Hội Liên Xã ở Tàu có ngài
Huệ Viễn đại sư là người hành trì pháp môn niệm Phật cũng là vị Tổ của pháp môn
Tịnh độ, ngài đã biết trước ngày giờ chết của mình trước bảy ngày và thông báo
cho đại chúng. Tới ngày thứ bảy, ngài Huệ Viễn ngồi an nhiên thị tịch giữa ba
hồi bát nhã tiễn đưa. Tại Việt Nam chúng ta thường đề cập tới trái tim bất diệt
của Bồ tát Thích Quảng Ðức, đây cũng là một minh chứng hùng hồn về sự niệm Phật
vãng sanh tịnh độ. Xin kể hầu quý vị liên hữu một câu chuyện vãng sanh mà chúng
tôi được biết. Số là vị Sư tổ của tôi là Hòa thượng…(xin được miễn nêu danh
tánh vì sự an toàn của thầy tôi) từ Bình Ðịnh vào Sài gòn tu hành ở những năm
30-40. Ngôi chùa mà vị Sư tổ trụ trì, khởi đầu được xây trên một nghĩa trang
(sau khi được thỉnh về trụ trì, sư tổ mới biết được điều này), nên hằng đêm
thường bị các linh hồn về quấy phá. Có một đêm, Sư tổ trông thấy con quỷ một giò
rất lớn hiện lên và đứng nhìn vào chùa. Ngài không chút sợ hãi, đã bình tĩnh
niệm Phật Di Ðà một hồi lâu thì con quỷ nọ biến mất hẳn từ đó về sau. Nhờ
chuyên trì kinh Pháp Hoa cũng như thành
tâm niệm Phật Di Ðà nên lần lần Phật tử chung quanh về hộ đạo rất đông đảo.
Trước ngày thị tịch, Sư tổ bảo với Thầy tôi rằng, vào giờ ngọ trưa mai ta sẽ
theo Phật, con ở lại lo liệu mọi chuyện. Quả nhiên như vậy, đúng ngọ ngày hôm
sau lúc Sư tổ đang tụng kinh trên chánh điện thì chung quanh tự nhiên thoảng
lên mùi hương rất nhẹ nhàng và thanh thoát, thì chính ngay lúc ấy, ngài đã quy
Tây phương. Lúc đó thầy của tôi ngồi cạnh vẫn không hay, tay vẫn đều tiếng mõ,
đến khi hồi kinh chấm dứt, không thấy Sư tổ đứng dậy lễ Phật thì mới biết đã
viên tịch. Sau khi hỏa táng có nhặt được xá lợi, trong đó tôi có giữ một chiếc
răng của Sư tổ mà thầy tôi đã cho cách đây hơn 20 năm khi rời khỏi Việt Nam.
Chiếc răng xá lợi này hiện tôi vẫn còn tôn thờ cẩn thận.
Thưa quý liên hữu vừa
rồi chúng tôi đã trình bày một cách khái quát phương pháp cũng như nguyên nhân
mà Ðức Từ Phụ của chúng ta đã từ bi ban bố cho chư Phật tử pháp môn niệm Phật
Di Ðà có một không hai này. Ðể khỏi phụ lòng của ngài, và cũng để thoát khỏi
cảnh khổ sanh tử luân hồi, chúng ta hãy cùng nhau phát nguyện cầu sanh Tây
phương cực lạc thế giới của Ðức Phật A Di Ðà vì :
Ái hà
thiên xích lãng
Khổ hải
vạn trùng ba
Dục
thoát luân hồi khổ
Tảo cấp niệm Di Ðà
Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Ðại Từ Ðại Bi Tiếp Dẫn Ðạo Sư A Di Ðà
Phật
tác đại
chứng minh
Cư sĩ
Trúc Lâm Lê An Bình cẩn kính.
Hoằng
pháp thị gia vụ
Trí tuệ
vi sự nghiệp