Trên bãi cát dài theo bờ sông, Ngài tự cạo râu tóc, trao xiêm y cho
Channa đem về, rồi khoác lên mình tấm y vàng, nguyện sống đời tu sĩ và
sẵn sàng chấp nhận mọi thiếu thốn vật chất. Ngài không ở nơi nào thường
trực. Một cây cao bóng mát, hoặc một hang đá hoang vu nào cũng có thể
che mưa đỡ nắng cho Ngài. Chân không giày dép, đầu không mũ nón, Ngài đi
trong ánh nắng nóng bức và trong sương gió lạnh lùng.
Trên Ðường Tìm Chân Lý
Trước tiên Ngài lưu ngự bảy ngày trong khu rừng có tên là Anupiya
Ambavana trong vương quốc Malla. Sau đó Ngài đến thành Ràjagaha (Vương
Xá, ngày nay là Rajgir) của vương quốc Magadha (Ma Kiệt Ðà).
Tại đây, trong lúc Ngài đang đi trì bình trong thành phố, Vua
Bimbisàra (Bình Sa Vương) từ hoàng cung nhìn ra, thấy vị tu sĩ tướng mạo
oai nghi, tác phong tao nhã, tư cách sang trọng, bước đi thong dong từ
tốn, thì lấy làm cảm kích. Vua sai người thăm dò tông tích thì được tâu
lại rằng thường ngày, sau khi độ ngọ xong thì vị tu sĩ đi về hướng Ðồi
Pandava. "Vị đạo sĩ ngồi trong một hang đá bên sườn phía Ðông của Ðồi
Pandava, oai vệ như sư tử, chúa sơn lâm."
Vua Bimbisàra truyền lệnh cho bắt kế xe, rồi lên đường, đi cùng đoàn
tùy tùng đến cánh đồi xa xa, dừng lại đi bộ đến viếng vị tu sĩ khả kính.
Khi được hỏi thăm Ngài là ai, sanh trưởng ở xứ nào, thì Ðạo Sĩ Gotama
(Cồ Ðàm) trả lời:
"Ngay phía trước đây, Tâu Ðại Vương, nằm dựa trên vùng dãi núi
Himalaya (Hy Mã Lạp Sơn), trong châu quận Kosala của những gia tộc cổ
kính, có một quốc gia cường thạnh và phong phú. Tôi xuất thân từ dòng
dõi Sàkya (Thích Ca), triều đại Thái Dương, của nơi ấy. Tôi ra đi, không
phải để chạy theo nhục dục ngũ trần, mong tìm dục lạc. Vì nhận thức
được hiểm họa tệ hại của những thú vui vật chất và cảm thấy an toàn
trong đời sống xuất gia, tôi ra đi, mong tìm cái gì cao quý hơn. Ðó là
ước vọng trong thâm tâm tôi, là hoài bảo mà tôi hằng ôm ấp trong lòng." (Sutta Nipàta, Pabbujjà Sutta, III, 1)
Vua Bimbisàra nghe vậy lấy làm đẹp dạ và cung thỉnh vị đạo sĩ, sau khi
thành đạt nguyệt vọng, xin trở lại viếng thăm vương quốc Magadha.
Cuộc Chiến Ðấu Phi Thường
Vào thời bấy giờ ở Ấn Ðộ có hai vị thiền sư lỗi lạc là Alàra Kàlàma và
Uddaka Ràmaputta. Ðạo sĩ Gotama tìm đến nhờ sự hướng dẫn của hai vị này
với hy vọng có thể sẽ được trao truyền những giáo huấn dẫn đến mức độ
cao siêu của pháp môn hành thiền.
Ðầu tiên Ngài đến Alàra Kàlàma và nói với ông: "Này hởi đạo hữu, xin
đạo hữu cho tôi thọ giáo và sống đời Thánh Thiện Thiêng Liêng trong Giáo
Pháp và Giới Luật này."
Alàra Kàlàma trả lời, "Hởi người đáng kính, hãy ở lại đây với tôi,
giáo huấn này nhằm giúp người thông minh sáng suốt có thể lãnh hội và
sống trong đó, chính tự người ấy sẽ trực giác chứng ngộ những gì mà vị
thầy mình đã chứng ngộ."
Không bao lâu sau Ðạo Sĩ Gotama học hết giáo lý của thầy. Ngài nghĩ:
"Không phải chỉ với đức tin suông mà Alàra tuyên dạy giáo huấn của ông.
Dạy như vậy không phải chỉ vì ông tin như vậy, mà chắc chắn ông đã thấu
triệt, trực giác chứng ngộ giáo lý này và đã sống trong ấy."
Rồi Ngài đến gặp Kàlàma và nói, "Này đạo hữu, giáo lý mà chính đạo hữu
đã thấu triệt và trực giác chứng ngộ cao siêu đến mức nào?"
Alàra Kàlàma liền giải thích rằng đó là Vô Sở Hữu Xứ (Akincannàytana),
một tầng Thiền khá cao. Lúc bấy giờ ý nghĩ sau đây phát sanh đến Ngài:
"Không phải chỉ một mình Alàra Kàlàma mới có đức tin, hạnh tinh tấn,
chánh niệm, chánh định và chánh kiến. Ta cũng có những phẩm hạnh ấy. Hay
là ta cố gắng chứng ngộ giáo lý mà Kàlàma nói rằng chính ông đã chứng
ngộ và sống trong sự thành đạt ấy."
Ngài sớm thành công, rồi đến gặp Alàra và nói: "Này đạo hữu Kàlàma, có
phải đây là mức độ cao siêu nhất mà đạo hữu đã chứng ngộ bằng trí tuệ
trực giác và sống trong sự thành đạt ấy không?"
-- Ðúng vậy, đây chính là giáo lý mà tôi nói rằng tôi đã chứng ngộ và
sống trong sự thành đạt ấy. Ðây là mức độ cao siêu nhất của giáo lý này.
-- Nhưng hởi đạo hữu, tôi cũng đã chứng ngộ mức độ này và sống trong sự thành đạt ấy.
-- Chúng tôi rất hữu phúc, quả thật vậy, chúng tôi có rất nhiều duyên
lành, trong đời sống Thánh Thiện Thiêng Liêng được gặp bạn đồng tu đáng
kính như đạo hữu. Như vậy, giáo lý mà tôi đã trực giác chứng ngộ và đã
tuyên bố, đạo hữu cũng trực giác chứng ngộ và sống trong sự thành đạt
ấy. Giáo lý mà đạo hữu trực giác chứng ngộ và sống trong sự thành đạt
ấy, chính tôi cũng đã trực giác chứng ngộ và sống trong ấy. Như vậy,
giáo lý mà tôi biết, đạo hữu cũng biết, giáo lý mà đạo hữu biết, tôi
cũng đã biết. Tôi như thế nào thì đạo hữu cũng đã như thế ấy. Vậy đạo
hữu hãy ở lại đây, chúng ta hãy cùng nhau hợp sức dẫn dắt nhóm đạo sĩ
này.
Rồi tư tưởng sau đây phát sanh đến Ngài:
"Giáo lý này không dẫn đến buông xả, không tận diệt ái dục, không dẫn
đến chấm dứt, không dẫn đến thanh bình an lạc, trực chứng, giác ngộ, và
Niết Bàn, mà chỉ đến tầng Vô Sở Hữu Xứ của thiền Vô Sắc."
Ngài không thỏa mãn với giáo lý này và giả từ Alàra Kàlàma ra đi, tiếp
tục tìm chân lý. Ngài đến Uddaka Ràmaputta xin thọ giáo.
Kinh nghiệm của Ngài dưới sự hướng dẫn của vị thiền sư này cũng được
bộ Majjhima Nikàya -- Trung A Hàm, mô tả giống như cuộc gặp gỡ vị Thiền
Sư Alàra Kàlàma, chỉ khác nhau ở điểm là lần này ngài tiến đến một tầng
cao hơn là Phi Tưởng Phi Phi Tưởng (N'eva sannà N'àsannayatana). Ðây là
tầng Thiền cao nhất trong tam giới, và vào thời bấy giờ đó là tuyệt đỉnh
cao, không ai chứng đắc được gì cao hơn.
Ðạo Sĩ Gotama không thể thỏa mãn với bất luận gì kém hơn là sự giải
thoát toàn vẹn ra khỏi mọi đau khổ, Niết Bàn. Ðến đây Ngài nhận thấy
rằng không ai có đủ khả năng để dẫn dắt mình thành tựu mục tiêu. Chân lý
và vắng lặng chỉ tìm được bên trong chúng ta. Từ đó Ngài không tìm
nương tựa bên ngoài.
Khổ Hạnh
Với tinh thần bất khuất nay đây mai đó trong vùng Magadha để tìm trạng
thái vắng lặng và hoàn toàn tịch mịch, một ngày kia Ðạo Sĩ Gotama đến
Uruvela, thị trấn của xứ Senàni. Nơi đây Ngài tìm ra một địa điểm giữa
đám rừng tươi tốt, bên cạnh một dòng sông ngoạn mục, uyển chuyển uốn
mình trong lòng hai bãi cát trắng phao, trải dài dưới ánh mặt trời.
Ngài nghĩ như sau: "Cảnh vật quả thật hữu tình, cụm rừng đẹp đẽ, dòng
sông thú vị với bãi cát trắng và cách thôn xóm không xa, ta có thể dễ
dàng đến đó trì bình." (Majjhima Nikàya - Trung A Hàm, Pariyesana Sutta, số 26, quyển I, trang 166)
Khi hay tin Thái Tử Siddhattha rời bỏ đền đài cung điện để ra đi, sống
đời tu sĩ, thì Kondanna (Kiều Trần Như), vị đạo sĩ bà la môn trẻ tuổi
nhất trong tám vị đã tiên đoán trong dịp lễ quáng đính của thái tử rằng
về sau thái tử sẽ đắc Ðạo Quả Phật, cũng tìm đến Ngài để tu học. Cùng
đến với Kondanna có bốn người, vốn là con của bảy vị đạo sĩ kia, tên
Bhaddiya, Vappa, Mahànàma và Assaji.
Vào thời bấy giờ, và đến nay vẫn còn, ở Ấn Ðộ có sự tin tưởng mãnh
liệt rằng nếu không khép mình vào lối tu khắc khe ép xác khổ hạnh ắt
không thể thanh lọc thân tâm và tiến đến giải thoát cùng tột. Trưởng
thành trong niềm tin này, Ðạo Sĩ Gotama và nhóm đạo sĩ gọi là năm anh em
Kondanna (Kiều Trần Như) bắt đầu cuộc chiến đấu phi thường kéo dài sáu
năm trường, tự khép mình vào nếp sống cực kỳ kham khổ.
Kinh Mahà Saccaka, của bộ Majjhima Nikàya, số 36, quyển I, trang 242, mô tả sự tinh tấn của Bồ Tát như sau:
Hành Pháp Nín Thở. - "Lúc ấy tư tưởng sau
đây phát sanh đến tôi: 'Hay là ta cắn chặt răng lại, ép lưỡi sát vào nắp
vọng, rồi dùng tâm thiện đè nén, chế ngự và diệt trừ những tư tưởng bất
thiện.'
"Rồi tôi cắn chặt răng lại, ép lưỡi sát vào nắp vọng và nỗ lực đè nén,
chế ngự và diệt trừ những tư tưởng bất thiện bằng tâm thiện. Lúc tôi
chiến đấu như vậy thì mồ hôi từ trong nách tuôn chảy ra.
"Như người mạnh nắm lấy đầu hay hai vai một người yếu rồi đè xuống,
dùng sức cưỡng bách và khắc phục, không cho ngóc lên, cũng dường thế ấy,
tôi chiến đấu và khắc phục những tư tưởng bất thiện.
"Hạnh tinh tấn của tôi quả thật kiên trì và bất khuất. Chú niệm của
tôi thật là vững chắc và không thể lay động. Tuy nhiên, thân tôi mòn mỏi
và không an lạc sau khi cố gắng một cách đau khổ -- thể xác phải chịu
khuất phục trước sự nỗ lực kiên trì. Mặc dầu những cảm giác đau đớn phát
sanh đến thân, nó không gây tổn hại cho tâm tôi chút nào.
"Lúc ấy tôi nghĩ như sau: 'Hay là ta hãy chú niệm về pháp nín thở!'
"Rồi tôi kiểm soát chặt chẽ hơi thở vô - thở ra, từ miệng và mũi. Khi
tôi kiểm soát hơi thở vô - thở ra ở miệng và mũi thì có hơi thoát ra từ
lỗ tai, tạo nên một loại âm thanh to lớn khác thường. Hơi gió, thoát ra
từ hai ống thụt của anh thợ rèn kêu như thế nào thì lúc tôi ngừng thở,
luồng hơi từ lỗ tai thoát ra tạo một âm thanh cũng to như thế ấy. Dầu
sao tôi vẫn bất khuất và kiên trì tinh tấn. Chú niệm của tôi vẫn vững
chắc và không hề lay động. Tuy nhiên, thân tôi mòn mỏi và không an lạc
sau khi cố gắng một cách đau khổ - thể xác phải chịu khuất phục trước sự
nỗ lực kiên trì. Mặc dầu những cảm giác đau đớn phát sanh đến thân, nó
không gây tổn hại cho tâm tôi chút nào.
"Rồi tôi kiểm soát hơi thở vô - thở ra từ miệng, mũi và tai. Lúc ngừng
thở bằng miệng, mũi và tai thì, hơi bị dồn lại, đập mạnh trong đầu tôi.
Như có người thật mạnh khoang vào sọ tôi với một lưỡi khoan thật bén,
khi tôi ngừng thở, hơi đập vào đầu tôi cũng làm đau đớn như vậy. Mặc dầu
những cảm giác đau đớn phát sanh đến thân, nó không ảnh hưởng gì đến
tâm tôi chút nào.
"Lúc ấy tôi tự nghĩ: 'Hay ta thử phát chú niệm về tình trạng nín thở ấy!'
"Rồi tôi kiểm soát hơi thở vô - thở ra từ miệng, mũi, và tai. Cảm giác
đau đớn kinh khủng lúc bấy giờ giống như có một lực sĩ dùng dây thừng
siết chặt lại đầu tôi. Tuy nhiên tôi vẫn một mực kiên trì tinh tấn.
Những cảm giác đau đớn ấy không gây ảnh hưởng đến tâm tôi.
"Lúc ấy tôi tự nghĩ: 'Hay ta thử pháp chú niệm về tình trạng nín thở một nữa!'
"Rồi tôi ngưng thở bằng miệng, mũi, và tai. Khi kiểm soát hơi thở như
thế ấy thì một luồng hơi mạnh thọc xuyên qua bụng tôi. Tên đồ tể, thiện
nghệ hay mới tập sự, dùng dao bén rạch một đường trên bụng, làm đau đớn
thế nào thì luồng gió mạnh thọc xuyên qua bụng làm cho tôi đau đớn dường
ấy. Tuy nhiên, tôi vẫn kiên trì tinh tấn. Những cảm giác đau đớn ấy
không gây tổn hại đến tâm tôi.
"Lần nữa, tôi tự nghĩ: 'Hay ta thử pháp niệm về tình trạng nín thở nữa!'
"Rồi tôi kiểm soát hơi thở vô - thở ra từ miệng, mũi, và tai. Khi nín
thở như vậy tôi cảm giác như có một ngọn lửa to khủng khiếp bừng lên và
bao trùm lấy tôi. Như có người mạnh nắm chặt một người yếu và đặt lên
một đống lửa than đang cháy đỏ cho đến lúc hoàn toàn thiêu rụi, lửa
thiêu đốt thân tôi lúc ngừng thở cũng nóng dường thế ấy. Tuy nhiên, tôi
vẫn kiên trì tinh tấn. Những cảm giác đau đớn không gây tổn hại đến tâm
tôi.
"Lúc ấy có những vị Trời thấy tôi vậy thì nói với nhau. 'Ðạo Sĩ Gotama
đã chết!' Vài vị khác ghi nhận, 'Ðạo Sĩ Gotama chưa chết hẳn, nhưng
đang chết dần!'. Trong lúc ấy cũng có vị nói, 'Ðạo Sĩ Gotama chưa chết
hẳn cũng không phải đang chết dần. Ngài là vị A La Hán. Ðây là lối sống
của chư vị A La Hán."
Hành Pháp Tuyệt Thực - "Rồi tôi tự nghĩ, 'hay ta thử hành pháp tuyệt thực!'
"Lúc ấy có những vị Trời đến gần tôi và nói: 'Bạch Ngài xin Ngài chớ
nên hành pháp tuyệt thực. Nếu Ngài tuyệt đối không dùng vật thực nữa thì
chúng tôi sẽ rót trên thân Ngài những chất dinh dưỡng của cảnh Trời để
cho nó thấm vào lỗ chân lông và nuôi sống Ngài.'
"Lúc ấy tôi suy nghĩ như sau: 'Nếu ta hành pháp tuyệt thực mà các vị
Trời lại rót chất dinh dưỡng của cảnh Trời để nuôi sống thân này thỉ quả
là điều gian dối.' Nghĩ vậy nên tôi từ chối.
"Rồi tư tưởng sau đây phát sanh đến tôi: 'Hay ta thử dùng chút ít vật
thực, mỗi lần chỉ một chút thôi, một ít nước đậu xanh, hay rau cỏ, hay
đậu đỏ, hay đậu trắng!'
"Khi mà tôi chỉ dùng thật ít vật thực như thế, ở thể đặc hay thể lỏng,
thì thân tôi trở nên vô cùng gầy còm. Vì thiếu vật thực, những bộ phận
lớn và nhỏ trong thân tôi ốm gầy không khác nào những cọng cỏ ống hay
những cây sậy. Bàn tọa của tôi chỉ còn bằng cái móng của con lạc đà.
Xương sống tôi cũng như một xâu chuỗi dựng đứng lên và uốn cong lại.
Xương sườn tôi tựa như một cái sườn nhà bị sụp đổ. Tròng mắt tôi không
khác nào hình ảnh của những ngôi sao mà ta có thể thấy dưới một cái
giếng sâu. Trái mướp đắng cắt ra lúc còn tươi rồi đem phơi, gió và nắng
làm da mướp teo lại, nhăn nhó và héo tàn như thế nào thì da đầu tôi lúc
ấy, vì thiếu dinh dưỡng, cũng nhăn nhó và héo tàn như thế ấy.
"Khi muốn sờ da bụng thì tôi đụng nhằm xương sống và khi muốn sờ xương
sống thì tôi lại đụng nhằm da bụng. Vì thiếu vật thực, da bụng tôi ép
sát vào xương sống và lúc muốn đứng dậy đi tiểu tiện thì tôi luống cuống
té ngã xuống. Tôi đập nhẹ chân tay để làm cho thân mình sống lại. Than
ôi, lúc đập như thế thì lông trên mình tôi lả rả rơi xuống đất vì đã
chết gốc. Những người thấy tôi như vậy thì nói, 'Ðạo Sĩ Gotama đen'. Vài
người khác nói, "Ðạo Sĩ Gotama không đen mà xanh dương'. Cũng có người
nói, 'Ðạo Sĩ Gotama không đen, cũng không xanh dương mà nâu sậm'. Màu da
sáng sủa và trong trẻo của tôi tàn tệ đến như thế vì thiếu vật thực."
Ba Hình ảnh Tượng Trưng
Lúc bấy giờ phát sanh đến Bồ Tát ba hình ảnh như sau:
"-- Trước tiên có nhóm đạo sĩ vẫn chưa dứt bỏ những ham muốn của nhục
dục ngũ trần và còn đeo níu theo hạnh phúc trần gian. Những vị ấy không
bao giờ ở trong vị trí có thể Giác Ngộ dầu có cố gắng khép mình vào lối
sống khắc khe khổ hạnh hay không. Cũng giống như những khúc củi tươi còn
dính đầy nhựa cây và ngâm trong nước. Dầu có cố gắng cọ xát vào nhau
cách nào cũng không thể trông chời nó nhoáng ra lửa. Người cố gắng tạo
lửa bằng cách cọ xát vào nhau những khúc củi ẩm ướt như vậy chắc chắn
phải thất vọng.
"-- Nhóm đạo sĩ thứ nhì đã dứt bỏ những ham muốn của nhục dục ngũ trần
nhưng lòng còn duyên theo hạnh phúc trần tục. Những vị này cũng không ở
trong vị trí có thể Giác Ngộ dầu có cố gắng khép mình vào lối sống khắc
khe khổ hạnh hay không. Giống như những khúc củi tươi còn đầy nhựa,
được vớt lên khỏi nước và để trên bờ. Dầu ta cố gắng cọ xát vào nhau,
cũng không thể nhoáng lửa. Mặc dầu đã được vớt lên khỏi nước nhưng những
khúc gỗ ấy còn tươi, mình đầy nhựa, người muốn tạo lửa bằng cách cọ xát
vào nhau những khúc củi như thế chắc chắn phải thất vọng.
"-- Nhóm đạo sĩ thứ ba đã dứt bỏ những ham muốn về nhục dục ngũ trần
và đã không còn chạy theo hạnh phúc trần gian. Những vị này ở trong vị
thế có thể Giác Ngộ, dầu có khép mình vào lối sống khắc khe ép xác cùng
không. Cũng giống như những khúc củi mình không còn nhựa và đã lâu ngày
được vớt lên khỏi nước và phơi khô. Người cố gắng cọ xát hai khúc củi
như thế ấy ắt có thể làm cho nó nhoáng lửa."
Nhằm ngăn ngừa, không để tâm đeo níu theo những thú vui của nhục dục
ngũ trần, Bồ Tát đã khép mình vào lối sống cực kỳ kham khổ. Mặc dầu ép
xác khổ hạnh đến mức cùng cực. Ngài không đến gần mục tiêu giải thoát
hơn. Chính Ngài thuật lại trong bài kinh trên.
"Rồi tư tưởng sau đây phát sanh đến tôi: 'Dầu các đạo sĩ hay các nhà
tu khổ hạnh trong quá khứ đã chịu những cảm giác nhức nhối, đau đớn dữ
dội hay xót xa như thế nào, thì cũng đến mức này là cùng, không thể hơn
nữa. Dầu các đạo sĩ hay các nhà tu khổ hạnh trong tương lai sẽ chịu
những cảm giác nhức nhối, đau đớn dữ dội hay xót xa như thế nào thì cũng
đến mức này là cùng, không thể hơn. Tuy nhiên, đã trải qua bao nhiêu
khắc khổ, khó khăn và đau đớn mà ta không đạt được điều chi tốt đẹp,
xứng đáng với sự giác ngộ cao thượng và trí tuệ vượt hẳn những trạng
thái của loài người. Hay là con đường nào khác dẫn đến Chứng Ngộ Cao
Thượng chăng?"
Ma Vương Cám Dổ
Giữa tình trạng nguy ngập ấy, trong khi Ngài vẫn ngồi bên bờ sông Nerannjarà (Ni Liên Thiền) thì Ma Vương đến gần và nói:
"Hỡi này đạo sĩ, người gầy còm, thân hình tiều tụy, giờ chết đã đến...
Hãy sống, này hỡi đạo sĩ, đời sống rất tốt đẹp. Có sống mới tạo được
phước. Hãy sống độc thân và chuyên cần cúng tế thần lửa, người sẽ tạo
được nhiều phước báo. Ép mình sống đời khổ hạnh như thế này để làm gì?
Con đường kiên trì nỗ lực quả thật kham khổ, khó khăn và khó thành tựu."
Bồ Tát trả lời Ma Vương như sau:
"Này con người xấu xa quỷ quyệt, thân quyến của tội lỗi và lười biếng!
Ngươi đến đây chỉ vì lợi ích của riêng ngươi. Ðối với ngươi, phước báo
nào có giá trị gì, nhưng bổn phận ngươi là phải nói như vậy. "Ta tu hành
với niềm tin vững chắc (saddhà), với sự kiểm soát tâm chặt chẽ (tapo),
sự tinh tấn (viriya) và trí tuệ (panna). Ta quyết tâm như vậy, sao ngươi
còn cật vấn ta?
"... Ðời sống trên thế gian này rõ thật là khốn khổ! Thà ta chết trên
chiến trường (trong khi chiến đấu) còn hơn sống mà thất bại!"
Với lời lẽ quả quyết ấy Ðạo Sĩ Gotama cảm thắng Ma Vương, và Ngài đã quyết tâm đạt cho kỳ được mục tiêu: Ðạo Quả Phật.
Thọ Thực Lần Cuối Cùng Trước Khi Thành Ðạo
Sau sáu năm tự bản thân kinh nghiệm Ngài đã đến tận ngưỡng cửa của
thần chết nhưng cảm thấy không gần mục tiêu hơn. Lối tu hành khổ hạnh rõ
ràng không đem lại lợi ích thiết thực nào. Ngài nhận định rằng con
đường đưa đến Ðạo Quả mà Ngài hằng nóng lòng quyết định thành đạt phải
hướng về nội tâm. Ngài không hề nản chí nhưng thấy rằng lối tu khổ hạnh
chỉ làm giảm suy trí thức và mệt mỏi tinh thần. Cơ thể mòn mỏi, tâm
không thể hoàn toàn sáng suốt. Ngài liền dứt khoát không nhịn ăn nữa mà
dùng chút ít vật thực thô sơ. Năm vị đạo sĩ cùng tu với Ngài hiểu lầm,
ngỡ là Ngài trở lại đời sống xa hoa phong phú nên từ bỏ Ngài ra đi về
phía Isipatana (Sarnath).
Vào buổi sáng ngay trước ngày Thành Ðạo, trong khi Bồ Tát ngồi hành
thiền dưới bóng một cây ajapalà (cây da) gần cội bồ đề, thì có một thiếu
phụ tên Sujàtà đến dâng lên Ngài một vật thực nấu bằng gạo sửa mà nàng
đã công khó tự tay tỉ mỉ làm lấy.
Sự tích nàng Sujàtà dâng vật thực đến Bồ Tát được thuật lại như sau:
Vào thủa ấy trong khu làng Senàni, gần rừng Uruvela có một thiếu phụ tên
Sujàtà. Một hôm nọ nàng đến cội cây da gần nhà, van vái cầu xin thọ
thần hộ trì cho mình được gặp chồng như ý nguyện và đầu lòng sẽ sanh
được một trai. Và nàng chú nguyện mỗi năm sẽ đến đây cúng tế. Lúc bấy
giờ Bồ Tát vừa quyết định không tuyệt thực nữa mà dùng lại chút ít vật
thực.
Vào ngày trăng tròn tháng Vesàkha (tháng Tư âm lịch), nàng Sujàtà mang
vật thực đến cây da để tế thần. Khi nhìn thấy Bồ Tát, lúc ấy đang ngồi
hành thiền, thì nàng ngỡ là thọ thần, và dâng vật thực đến Ngài trong
một bình bát rất quý giá.
Bồ Tát thọ bát xong, đi xuống mé sông Neranjarà (Ni Liên Thiền) ngồi
độ thực. Sau đó Ngài cầm bát đứng bên bờ sông, chú nguyện: "Nếu hôm nay
tôi có thể chứng đắc Ðạo Quả Phật, xin cho cái bát này sẽ trôi ngược
dòng nước." Cái bát trôi ngược dòng!
Chiến Thắng Cuối Cùng
Một mình, trong cảnh cô đơn giữa chốn rừng sâu, không có bất luận sự
hỗ trợ nào từ bên ngoài, với ý chí sắt đá. Ngài lập tâm nhất quyết nỗ
lực cùng tột bất thối chuyển:
"Dầu chỉ còn da, gân và xương, máu và thịt đã tan khô và tan biến, ta
nguyện không xê dịch khỏi chỗ này cho đến khi chứng ngộ Toàn Giác
(sammà-sambodhi)."
Cố gắng không biết mệt, nhiệt thành không thối chuyển. Ngài nhất quyết
chứng ngộ chân lý và thành tựu trạng thái Toàn Giác. Ngồi tréo chân
dưới cội cây mà về sau gọi là cây bồ đề, có nghĩa là cây giác ngộ, hay
cây trí tuệ. Ngài áp dụng pháp "niệm hơi thở vào - thở ra" (ànàpàna
sati).
Cuộc chiến đấu gay go cuối cùng này được thuật lại như sau:
"Giờ đây tôi đã dùng vật thực thô sơ và đã hồi phục sức khỏe. Ðã dứt
khoát lánh xa mọi dục lạc, tôi nhập vào và an trú trong Sơ Thiền, tâm an
trụ với chi thiền tầm và sát, sáng suốt và phỉ lạc, phát sanh do trạng
thái tĩnh lặng. Nhưng tôi không để cho cảm giác phỉ lạc đã sanh khởi ấy
lấn áp tâm. Rồi diệt bỏ tầm và sát, gom tâm vững vàng an trụ vào một
điểm duy nhất không lay chuyển, tôi nhập vào và an trú trong Nhị Thiền,
một trạng thái phỉ lạc phát sanh do định, lòng tự tin càng vững chắc.
Nhưng tôi không để cảm giác phỉ lạc đã sánh khởi như vậy lấn áp tâm. Với
trạng thái hạnh phúc dịu dần và tan biến, tâm tôi bình thản, chú niệm
tập trung chắc chắn vào một điểm và luôn luôn giác tỉnh, vẫn còn nghe
thích thú trong thân, tôi nhập vào và an trú trong Tam Thiền. Nhưng
không để thọ lạc đã sanh khởi lấn áp tâm. Với sự buông xả những thích
thú và đau khổ của thân và tình trạng hỷ lạc và ưu phiền của tâm tan
biến, tôi nhập vào và an trú trong Tứ Thiền. Do tâm xả, không còn thích
thú hay sầu khổ, tâm thanh ý tịnh, và chú niệm không lay chuyển.
"Với tâm định an trú vào một điểm, thanh tịnh, lắng dịu, trong sáng
như mặt gương được lau chùi bóng láng, không còn ô nhiễm, nhu thuận, dễ
uốn nắn, dễ xử dụng, giác tỉnh, vững chắc và không thể lay chuyển, tôi
hướng tâm ấy về tuệ giác Hồi Nhớ Những Kiếp Sống Quá Khứ (Pubbe
nivàsànussati nàna, Túc Mạng Minh). Tôi nhớ lại nhiều kiếp sống quá khứ
của tôi; một kiếp, hai kiếp, ba, bốn, năm kiếp, rồi mười, hai mươi đến
năm mươi, rồi một trăm, một ngàn, một trăm ngàn, rồi sự phân tán của
nhiều chu kỳ thế gian, rồi sự phát triển của nhiều chu kỳ thế gian. Tôi
nhớ ở đây tôi tên gì, sanh trưởng trong gia đình nào, giai cấp nào, đời
sống ra sao, vui thích và đau khổ như thế nào, tuổi thọ được bao nhiêu
và lìa đời như thế nào. Từ cảnh ấy ra đi tôi tái sanh vào cảnh nào, tên
gì v.v... Như thế ấy tôi hồi nhớ cách thức tái sanh và nhiều chi tiết về
những kiếp sống quá khứ. Ðó là tuệ giác đầu tiên mà tôi chứng ngộ lúc
canh một, đêm Thành Ðạo. Màn vô minh đã bị phá tan, tuệ giác sanh khởi.
Ðêm tối đã chấm dứt, ánh sáng phát sanh đến với người sống chuyên cần,
nhiệt thành và giác tỉnh tự kiểm soát. Thọ lạc sanh khởi và tồn tại
nhưng tôi không để tâm bị nó lấn áp.
"Với tâm định an trụ vào một điểm... tôi hướng tâm ấy về Sự Hiểu Biết
Hiện Tượng Diệt và Sanh Của Chúng Sanh (Cutùpapàta nàna, Thiên Nhãn
Minh). Với thiên nhãn tinh khiết, siêu nhân, tôi thấy chúng sanh chết từ
kiếp này tái sanh vào một kiếp sống khác. Tôi thấu triệt rằng kẻ sang
người hèn, kẻ đẹp người xấu, kẻ hạnh phúc người khốn khổ, tất cả đều
trải qua trạng thái diệt và sanh, tùy hành vi tạo tác của mỗi người. Tôi
biết rõ rằng những chúng sanh này, do hành động, lời nói, và tư tưởng
xấu xa, nguyền rủa bậc Thánh Nhân, tin tưởng không chân chánh, có nếp
sống của người nuôi dưỡng tà kiến, sau khi thân hoại mạng chung, phải
sanh vào những trạng thái bất hạnh, đọa xứ hay địa ngục. Tôi cũng biết
rằng những chúng sanh kia do hành động, lời nói, và tư tưởng tốt đẹp,
không nguyền rủa bậc Thánh Nhân, tin tưởng chân chánh, và sống nếp sống
của người có chánh kiến, sau khi thể xác phân tán và lìa trần, tái sanh
vào những cảnh giới nhàn lạc, những cảnh Trời. Như vậy, với Thiên Nhãn
Minh tôi thấy rõ ràng sự phân tán và cấu hợp trở lại của chúng sanh. Ðó
là tuệ giác thứ nhì mà tôi chứng ngộ trong canh giữa, đêm Thành Ðạo. Màn
vô minh đã bị phá tan, tuệ giác sanh khởi. Ðêm tối đã chấm dứt, ánh
sáng phát sanh đến với người sống chuyên cần, nhiệt thành và giác tỉnh
tự kiểm soát. Thọ lạc sanh khởi và tồn tại, nhưng tôi không để tâm bị nó
lấn áp.
"Với tâm định an trụ vào một điểm... tôi hướng tâm ấy về Tuệ Hiểu Biết
Sự Chấm Dứt Các Hoặc Lậu (Asavakkhaya nàna, Lậu Tận Minh). Hoặc lậu,
àsava, hay những bợn nhơ trong tâm, là những ô nhiễm ngủ ngầm trong dòng
trôi chảy của luồng nghiệp từ vô lượng kiếp chí đến các cảnh giới cao
nhất -- nhìn về phương diện cảnh giới; hay đến trạng thái chuyển tánh
(gotrabhù) -- về phương diện luồng tâm.
"Tôi hiểu biết sự vật đúng như thật sự nó là vậy: Ðây là khổ. Ðây là nguyên nhân sanh đau khổ. Ðây là sự chấm dứt đau khổ. Ðây là con đường dẫn đến sự chấm dứt đau khổ.
"Cùng một thế ấy, tôi biết đúng như thật: Ðây là những hoặc lậu. Ðây
là sự chấm dứt các hoặc lậu. Ðây là con đường dẫn đến sự chấm dứt các
hoặc lậu. Nhận thức đúng như vậy, hiểu biết đúng như vậy, tâm tôi thoát
ra khỏi dục lậu (ô nhiêm liên quan đến dục vọng), thoát ra khỏi hữu lậu
(ô nhiễm liên quan đến sự luyến ái bám víu vào đời sống), thoát ra khỏi
vô minh lậu (ô nhiễm liên quan đến vô minh). Khi tự thân đã giải thoát
như vậy, tôi hiểu biết: "Tôi đã giải thoát". Tôi trực giác chứng ngộ: "Không
còn sanh nữa, đời sống Thánh Thiện đã hoàn tất viên mãn, những gì phải
làm đã làm, sau kiếp sống hiện tại không còn đời sống nào khác nữa." Ðó là Tuệ Giác thứ ba mà tôi chứng ngộ vào lúc canh ba, đêm Thành Ðạo.
"Màn vô minh đã bị phá tan, tuệ giác sanh khởi. Ðêm tối đã chấm dứt,
ánh sáng phát sanh đến với người sống chuyên cần, nhiệt thành và giác
tỉnh tự kiểm soát. Thọ lạc sanh khởi và tồn tại, nhưng tôi không để tâm
bị nó lấn áp." (Majjhima Nikàya - Trung A Hàm, kinh số 36, Mahà Saccaka Sutta)
Bài Kệ Hoan Hỷ
Màn vô minh đã được giải tỏa và trí tuệ phát sanh. Trong cuộc chiến
đấu phi thường để thành Ðạo Quả. Ngài đã vẻ vang chiến thắng. Ánh sáng
Chân Lý đã bật soi cho Ngài những bí ẩn của đời sống. Cuộc chiến thắng
tinh thần vô cùng vinh quang rực rỡ này đã biến Ðạo Sĩ Gotama (Cồ Ðàm)
ra một vị Phật Chánh Ðẳng Chánh Giác, đấng Chánh Biến Tri, toàn năng vô
thượng. Ngài đọc lên bài kệ hoan hỷ:
"Xuyên qua nhiều kiếp sống
trong vòng luân hồi,
Như Lai thênh thang đi, đi mãi.
Như Lai đi tìm mãi, mà không gặp,
Như Lai tìm người thợ cất cái nhà này.
Lặp đi lặp lại đời sống quả thật là phiền muộn.
Này hởi người thợ làm nhà,
Như Lai đã tìm được ngươi.
Từ đây
Ngươi không còn cất nhà cho Như Lai nữa.
Tất cả sườn nhà đều gãy,
Cây đòn dông của ngươi dựng lên
Cũng bị phá tan.
Như Lai đã chứng Quả Vô Sanh Bất Diệt,
Và Như Lai đã tận diệt mọi Ái Dục."
(Dhammapada - Kinh Pháp Cú, câu 153-154)
Ðức Phật xác nhận cuộc đi thênh thang bất định trong nhiều kiếp sống
quá khứ đầy khổ đau phiền lụy. Ngài đi đến tuyên ngôn như vậy, không
phải do lý luận hay trí tưởng tượng riêng của mình, hay nghe ai nói, mà
vì chính Ngài đã tận mắt nhận thấy trong canh đầu, đêm Thành Ðạo, từ
một, hai, ba đến vô số kiếp sống trong quá khứ. Ðiều này cũng hiển nhiên
chứng minh niềm tin có nhiều kiếp sống.
Ngài đi bất định trong vòng sanh tử - tử sanh, và do đó phải chịu
nhiều gian lao khổ nhọc, để tìm người thợ xây dựng ngôi nhà này -- tức
nguyên do đưa đến thân này. Ngài mãi đi tìm nguyên nhân đã lôi cuốn mình
trôi giạt trong những kiếp sinh tồn, sống rồi chết, chết rồi tái sanh
trở lại, triền miên vô cùng tận. Tìm nhưng không gặp.
Trong kiếp sống cuối cùng, giữa khung cảnh cô đơn tịch mịch của rừng
thiêng, lúc đi sâu vào công trình hành thiền mà Ngài đã dày công trau
giồi từ xa xôi trong quá khứ. Ngài khám phá ra anh thợ cất nhà hằng mong
mỏi muốn biết.
Anh thợ này không phải ở đâu xa lạ bên ngoài, mà vẫn tiềm tàng nằm sâu
kín bên trong Ngài. Ðó là Ái Dục, sự tự tạo, một thành phần tinh thần
luôn luôn ngủ ngầm bên trong tất cả mọi người. Tìm ra người thợ cất nhà,
biết được nguyên nhân lôi cuốn chúng sanh trong vòng sanh tử triền
miên, tức Ngài đã tận diệt Ái Dục.
Cái sườn của ngôi nhà tự tạo ấy là các ô nhiễm như tham, sân, si, ngã
mạn, tà kiến, hoài nghi, dã dượi, phóng dật, không hổ thẹn tội lỗi,
không ghê sợ hậu quả của hành động bất thiện. Cây đòn dông chịu đựng cái
sườn là vô minh, căn duyên xuất phát của mọi dục vọng. Ngài đã phá vỡ
cây đòn dông và giựt sập ngôi nhà. Ánh sáng trí tuệ của Ngài đã vĩnh
viễn đẩy lui đêm tối của vô minh. Sườn và đòn dông là vật liệu xây cất
mà anh thợ dùng để dựng lên ngôi nhà. Hết vật liệu, tức nhiên anh thợ
không còn cất nhà được nữa.
Bài Học
Xuyên qua công trình hành đạo và thành quả chứng đắc của Ðức Phật,
chúng ta thấy rằng trước tiên Ngài đến học với hai vị thầy và hành thiền
Vắng Lặng (samatha bhàvanà) đến mức cùng tột. Nếu giữ mức độ này cho
đến khi viên tịch, Ngài sẽ tái sanh vào cảnh giới Vô Sắc, thọ hưởng
những hạnh phúc vô cùng tinh vi cao thượng và tuổi thọ rất dài, nhưng
vẫn còn trong Tam Giới. Dầu có thể sống đến 84 ngàn a-tăng-kỳ kìếp nhưng
rồi, khi tuổi thọ chấm dứt, cũng phải tái sanh trở lại vào cuộc sống đi
bất định trong vòng luân hồi. Thiền Vắng Lặng không đưa đến giải thoát.
Chúng ta thường nghe nói "định sanh tuệ", và đôi khi hiểu lầm là một
khi hành thiền đến mực độ "định" thì đương nhiên "tuệ" phát sanh. Nhưng
lời nói này chỉ có nghĩa là khi gom tâm an trụ đến mức "định" thì dùng
tâm định ấy làm nền tảng để khai triển "trí tuệ".
Trong tình trạng bình thường, tâm của con người luôn luôn di động.
Người hành thiền canh phòng, không để tâm nhảy đầu này, vào thời quá
khứ, hay chạy đầu kia, đến thời vị lai, bởi vì một khi tâm phóng dật
chạy nhảy như thế thì không thể an trụ vào một điểm. Hành thiền Vắng
Lặng, hành giả cố gắng gom tâm an trụ, luôn luôn chú niệm và hay biết,
đề phòng mỗi khi tâm phóng, cho đến khi đạt đến trạng thái nhất điểm và
an tĩnh. Thiền Vắng Lặng đưa tâm tạm thời vượt qua khỏi những chướng
ngại tinh thần như tham ái, sân hận, si mê, dã dượi hôn trầm, phóng dật
lo âu và hoài nghi, tiến đến tâm tịnh, một trạng thái tâm tĩnh lặng,
sáng suốt và nhu thuận. Nhưng không nên lầm lạc hiểu rằng khi tâm hoàn
toàn an trụ thì trí tuệ đương nhiên sanh khởi. Trí tuệ không phải là cái
gì tự động phát sanh, và có nhiều mức độ trí tuệ và nhiều mức độ hiểu
biết: thô thiển, trung bình và tế nhị. Trí tuệ hay tuệ minh sát
(vipassanànàna) là hiểu biết rõ ràng và thâm sâu sắc bén bản chất thật
sự của vạn pháp.
Người hành thiền đến mức định thì dùng tâm định ấy để quán chiếu sự
vật và khai triển trí tuệ bằng thiền Minh Sát (vipassanà bhàvanà). Danh
từ vipassanà, minh sát, có nghĩa là nhìn thấy một cách khác thường. Có
cái thấy vượt ra ngoài tầm thức thông thường, thấy một cách rõ ràng. Tuệ
minh sát là trí tuệ chứng ngộ Chân Lý. Ðây không phải là thấy phớt qua
trên bề mặt mà thấy sự vật đúng trong bối cảnh của nó, tức thấy sự vật
dưới ánh sáng của ba đặc tướng, vô thường, khổ, vô ngã. Chính thiền Minh
Sát này, dựa trên nền tảng tâm định vắng lặng, giúp cho người hành
thiền có khả năng gội rửa tất cả mọi ô nhiễm trong tâm đến mức tận cùng,
lột bỏ mọi ảo kiến về cái "Ta", nhìn thấy thực tướng của vạn pháp và
chứng ngộ Niết Bàn. Ðó là Con Ðường Giải Thoát.
Bảy Tuần Lễ Sau Khi Thành Ðạo
Sau cuộc chiến đấu kỳ diệu phi thường kéo dài sáu năm đăng đẳng, Ðạo
Sĩ Gotama, lúc ấy ba mươi lăm tuổi, tận diệt mọi ô nhiễm, chấm dứt mọi
tiến trình tham ái và chứng ngộ thực tướng của vạn pháp, trở thành một
vị Phật, đấng Chánh Biến Tri, bậc Toàn Giác.
Tuần Lễ Ðầu Tiên - Suốt thời gian bảy ngày đầu tiên
sau khi Thành Ðạo Ðức Phật ngồi không cử động dưới tàn bóng của cội cây
bồ đề để chứng nghiệm Hạnh Phúc Giải Thoát (vimutti sukha).
Trong đêm cuối tuần Ngài xuất thiền và suy niệm về pháp Thập Nhị Nhân
Duyên (Paticca Samuppàda) theo chiều xuôi như sau: "Khi có cái này
(nguyên nhân), thì có cái này (hậu quả), Với sự phát sanh của cái này
(nhân), cái này (quả) phát sanh."
- Tùy thuộc nơi Vô Minh (avijjà), Hành (samkhàrà), thiện và bất thiện, phát sanh.
- Tùy thuộc nơi Hành, Thức (vinằna) phát sanh.
- Tùy thuộc nơi Thức, Danh-Sắc (nàma-rùpa) phát sanh.
- Tùy thuộc nơi Danh-Sắc, Lục Căn (salàyatana) phát sanh.
- Tùy thuộc nơi Lục Căn, Xúc (phassa) phát sanh.
- Tùy thuộc nơi Xúc, Thọ (vedàna) phát sanh.
- Tùy thuộc nơi Thọ, Ái Dục (tanhà) phát sanh.
- Tùy thuộc nơi Ái, Thủ (upàdàna) phát sanh.
- Tùy thuộc nơi Thủ, Hữu (bhava) phát sanh.
- Tùy thuộc nơi Hữu, có Sanh (jàti).
- Tùy thuộc nơi Sanh, phát sanh Lão (jarà), Tử (marana), Phiền Não
(soka), Ta Thán (parideva), Ðau Khổ (dukkha), Sầu Muộn (domanassa) và
Thất Vọng (upàyàsa).
Lúc bấy giờ, đã thấu hiểu ý nghĩa của điều này Ðức Thế Tôn đọc lên bài
kệ hoan hỷ như sau: "Quả thật vậy, khi chân lý phát hiện hiển nhiên đến
bậc thánh nhân đã chuyên cần tinh tấn và trầm tư mặc niệm, bao nhiêu
hoài nghi đều tiêu tan, bởi vì vị này đã thấu triệt chân lý và các
nguyên nhân."
Khoảng cách giữa trong đêm, Ðức Phật suy niệm về pháp Thập Nhị Nhân Duyên theo chiều ngược như sau:
"Khi nguyên nhân này không còn thì hậu quả này cũng không còn. Với sự chấm dứt của nhân này, quả này cũng chấm dứt."
- Với sự chấm dứt của Vô Minh, Hành chấm dứt.
- Với sự chấm dứt của Hành, Thức chấm dứt.
- Với sự chấm dứt của Thức, Danh-Sắc chấm dứt.
- Với sự chấm dứt của Danh-Sắc, Lục Căn chấm dứt.
- Với sự chấm dứt của Lục Căn, Xúc chấm dứt.
- Với sự chấm dứt của Xúc, Thọ chấm dứt.
- Với sự chấm dứt của Thọ, Ái chấm dứt.
- Với sự chấm dứt của Ái, Thủ chấm dứt.
- Với sự chấm dứt của Thủ, Hữu chấm dứt.
- Với sự chấm dứt của Hữu, Sanh chấm dứt.
- Với sự chấm dứt của Sanh, Lão, Tử, Phiền Não, Ta Thán, Ðau Khổ, Sầu Muộn và Thất Vọng chấm dứt.
Lúc bấy giờ, đã thấu hiểu ý nghĩa của điều này, Ðức Thế Tôn đọc lên
bài kệ hoan hỷ như sau: "Quả thật vậy, khi các chân lý phát hiện hiển
nhiên đến bậc thánh nhân đã chuyên cần tinh tấn và trầm tư mặc niệm, bao
nhiêu hoài nghi đều tiêu tan, bởi vì vị này đã thấu triệt sự tận diệt
các nguyên nhân."
Ðến canh ba Ðức Thế Tôn suy niệm về sự "Tùy Thuộc Phát Sanh" theo
chiều xuôi và chiều ngược như sau: "Khi có nhân này, thì có quả này. Với
sự phát sanh của nhân này, quả này phát sanh. Khi không có nhân này,
thì quả này không có. Với sự chấm duút nhân này, quả này chấm dứt."
- Tùy thuộc nơi Vô Minh, Hành phát sanh v.v... Như thế ấy, toàn khối đau khổ phát sanh.
- Với sự chấm dứt Vô Minh, Hành chấm dứt ... Như thế ấy, toàn khối đau khổ châm dứt.
Lúc bấy giờ, đã thấu hiểu ý nghĩa của điều này, Ðức Thế Tôn đọc lên bài kệ hoan hỷ như sau:
"Quả thật vậy, khi các chân lý phát hiện hiển nhiên đến bậc thánh nhân
đã chuyên cần tinh tấn và trầm tư mặc niệm thì Ngài vững vàng phá tan
vây cánh của Ma Vương cũng như ánh sáng thái dương phá tan đêm tối và
rọi sáng bầu trời."
Tuần Lễ Thứ Nhì - Tuần lễ thứ nhì trải qua một cách
bình thản, nhưng trong sự yên lặng ấy Ðức Phật đã ban bố cho thế gian
một bài học quan trọng. Ðể tỏ lòng tri ân sâu xa đối với cây bồ đề vô
tri vô giác đã che mưa đỡ nắng cho Ngài suốt thời gian chiến đấu để
thành đạt Ðạo Quả. Ngài đứng cách một khoảng xa để chăm chú nhìn cội bồ
đề trọn một tuần không nháy mắt. Về sau, nơi Ðức Phật đứng trọn tuần lễ
để nhìn cây bồ đề Vua Asoka (A Dục) có cho dựng lên một bảo tháp kỷ niệm
gọi là Animisalocana Cetiya.
Noi theo gương lành cao quý và để kỷ niệm sự thành công vẻ vang rực rỡ
ấy, đến ngày nay hàng tín đồ Phật Giáo vẫn còn tôn kính, chẳng những
cây bồ đề chánh gốc ấy mà đến các cây con, cây cháu. Một nhánh, chiết từ
phía tay mặt của cây bồ đề nguyên thủy, được Ni Sư Sanghimittà Theri
đem từ Ấn Ðộ sang Sri Lanka (Tích Lan). Nơi đây cây được Vua Devànampiya
Tissa hạ thổ tại cố đô Anuradhapura, xứ Tích Lan. Cho đến nay cây này
vẫn còn sum sê tươi tốt và tiếp nhận lòng kính mộ sùng bái của hằng
triệu khách nhiệt thành đến hành hương. Từ cội này nhiều cây con đã được
chiết và trồng lại ở nhiều nơi trên đảo và trong các quốc gia xa xôi
khác.
Tuần Lễ Thứ Ba - Vì Ðức Phật không rời nơi trú ngụ mà
vẫn còn quanh quẩn cội bồ đề, chư Thiên lúc bấy giờ còn nghi ngờ, không
biết Ngài đã đắc Quả Phật chưa. Ðọc được tư tưởng ấy, Ðức Phật dùng oai
lực thần thông tạo một "đường kinh hành quý báu" (ratana cankamana,
đường kinh hành quý như kim cương ngọc báu) và đi lên đi xuống thiền
hành suốt trọn tuần.
Tuần Lễ Thứ Tư - Trong tuần thứ tư, Ðức Phật ngự
trong "bảo cung" (ratanaghara, gọi như vậy vì lúc ấy Ðức Phật suy niệm
về phần quý báu của Giáo Pháp) để suy niệm về những điểm phức tạp của
Tạng Luận (Abhidhamma). Kinh sách ghi nhận rằng khi Ngài suy tưởng về
pháp Nhân Quả Tương Quan (patthàna, bộ Vị Trí), bộ khái luận thứ bảy của
Tạng Luận, tâm và thân Ngài trở nên hoàn toàn tinh khiết và do đó, phát
ra một vầng hào quang sáu màu: xanh dương, vàng, đỏ, trắng, cam và thứ
sáu là năm màu pha lẫn.
Tuần Lễ Thứ Năm - Trong tuần thứ năm Ðức Phật ngồi
dưới cội cây ajapàla trứ danh (một loại cây da), chứng nghiệm Hạnh Phúc
Giải Thoát (vimutti sukha). Vào cuối tuần, khi Ngài xuất ra khỏi trạng
thái siêu thế ấy, có một vị bà la môn ngạo mạn (huhunkajàtika) đến gần
chào hỏi theo lễ nghi rồi nói: "Này Tôn Giả Gotama (Cồ Ðàm), đứng về
phương diện nào ta trở thành một thánh nhân, và những điều kiện nào làm
cho ta trở thành thánh nhân?"
Ðể trả lời, Ðức Phật đọc lên bài kệ:
"Người kia xa lánh mọi điều bất thiện tội lỗi, không còn ngạo mạn
(huhunka), đã thanh lọc mọi ô nhiễm, thu thúc lục căn, thông suốt các
pháp học và đã chân chánh sống đời phạm hạnh thiêng liêng, người ấy được
coi là thánh nhân. Ðối với người ấy không còn có sự bồng bột, dầu ở nơi
nào trên thế gian." (Udàna, phần I)
Theo bản chú giải Túc Sanh Truyện, cũng trong tuần lễ này ba người con
gái của Ma Vương cố gắng lấy nhan sắc quyến rũ Ðức Phật, nhưng thất
bại.
Tuần Lễ Thứ Sáu - Từ cội cây ajapàla Ðức Phật sang
cây Mucalinda và ngự tại đây một tuần lễ để chứng nghiệm Hạnh Phúc Giải
Thoát. Bỗng nhiên có một trận mưa to kéo đến. Trời sẩm tối dưới lớp mây
đen nghịt và gió lạnh thổi suốt nhiều ngày. Vừa lúc ấy Mucalinda, mãng
xà vương, từ ổ chun ra, uốn mình quấn xung quanh Ðức Phật bảy vòng và
lấy cái mỏ to che trên đầu Ngài. Nhờ vậy mà mưa to gió lớn không động
đến thân Ðức Phật.
Ðến cuối ngày thứ bảy, trời quang mây tạnh trở lại Mucalinda tháo mình
trở ra và, bỏ hình rắn, hiện thành một thanh niên, chấp tay đứng trước
mặt Ðức Phật. Và Ðức Phật đọc bài kệ sau đây:
"Ðối với hạng người tri túc, người đã cố lắng nghe chân lý và đã thấy,
thì sống ẩn dật là hạnh phúc. Trên thế gian, người có tâm lành, người
biết thu thúc, đối với mọi chúng sanh, là hạnh phúc. Không luyến ái,
vượt lên khỏi dục vọng là hạnh phúc. Phá được "ngã chấp" quả là hạnh
phúc tối thượng." (Udàna, trang 10)
Tuần Lễ Thứ Bảy - Vào tuần thứ bảy Ðức Phật bước sang cội cây Ràjàyatana và ở đó suốt tuần, chứng nghiệm Hạnh Phúc Giải Thoát.
Phạm Kim Khánh
(Trích "Hành Hương Xứ Phật", Trung Tâm Narada, Seattle, USA, 1997)