Có thể nói từ lúc đản sinh cho đến ngày nhập diệt, cuộc đời của đức
Phật là kết tinh của những chuỗi ngày cách mạng kiêu hùng.
Theo
sử sách, vừa mở mắt chào đời, thái tử Tất Ðạt Ða (Siddhartha) đã đứng
dậy, ngoảnh mặt nhìn bốn phía, rồi đi bảy bước, tay trái chỉ lên trời,
tay phải chỉ xuống đất, nói rằng: "Trên trời, dưới đất chỉ có Ta là chí
tôn". Xong Ngài nói tiếp: "Từ vô lượng kiếp đến nay, phen này là hết".
Hai lời tuyên bố đó có tính cách quyết định mục tiêu hành động của Ngài:
đoạn trừ phiền não, quét sạch vô minh, giải thoát sanh tử, chứng đắc
Niết bàn, thanh tịnh an lạc.
Chúng ta hãy tìm hiểu vai
trò lãnh đạo và sách lược tiến công nhằm đạt đến mục tiêu tối thượng
qua các cuộc cách mạng của Ngài.
Cách mạng xã hội
Trước
khi Phật ra đời, Ấn Ðộ là nước nhiễu nhưong, khốn khổ. Giống dân di mục A
Ly A (Arya) đã nhanh nhẹn chinh phục thổ dân Ðạt La Tỳ Ðồ (Dravida). Họ
thiết lập trật tự xã hội, tạo ra luật Mã Nổ (Manu), độc đoán chia dân
Ấn ra làm bốn giai cấp:
Giai cấp Bà La Môn (Brahman): tác giả
pháp điển Mã Nổ, là giai cấp cao quí nhất, độc quyền về học thuật, tư
tưởng va chủ trì tế lễ.
Giai cấp Sát Ðế Lỵ (Ksatriya): giữ độc
quyền về chính trị theo thể chế cha truyền con nối. Họ có toàn quyền
sinh sát.
Giai cấp Phệ Xá (Vaisya): gồm giới nông, công, thương,
không được quyền học hỏi, sống nai lưng ra làm việc để phục vụ cho hai
giai cấp giáp sĩ và quí tộc. Họ tha hồ bị áp bức, bóc lột.
Giai
cấp Thủ Ðà La (Sudra): gồm các thổ dân tiền trú và giống người Ðạt La Tỳ
Ðồ bại trận. Ðây là giai cấp bần cùng, sống trong tủi nhục, bi đát.
Chế
độ phân chia giai cấp và người bóc lột người đã làm cho xã hội Ấn Ðộ
ngày càng băng hoại.
Thái tử Tất Ðạt Ða, con người bằng xương
bằng thịt, sanh ra và lớn lên như muôn ngàn người khác, và mặc dù sống
trong nhung lụa, quyền thế, Ngài đã sớm ý thức được cảnh bất công, gian
ác của giai cấp thống trị và số kiếp đọa đày, khốn nạn của giai cấp bị
trị, nên khi còn ngồi thiền dưới gốc cây Bồ Ðề, Ngài đã khẳng định
nguyên lý của cách mạng ấy là: "Ðại địa chúng sanh giai hữu Như Lai trí
tuệ đức tánh (hết thảy chúng sanh đều có đức tánh trí tuệ Như Lai)". Và
sau khi đắc đạo, thấy rõ thực tướng của vạn pháp là Vô thường - Khổ -
Không - Vô ngã, thấy chúng sanh quay cuồng trong tam đồ lục đạo, thấy
mọi hiện tượng thế gian đều sanh thành và hủy diệt theo tiến trình Thành
- Trụ - Hoại -Không, Ngài thốt lên những lời hùng tráng như tiếng sư tử
giữa núi rừng dày đặc:
Lang thang bao kiếp sống
Ta tìm kẻ xây
nhà
Tìm mãi vẫn không ra
Nên luân hồi đau khổ. (Pháp Cú 153)
Hỡi
kẻ làm nhà kia
Ta thấy mặt ngươi rồi
Rui mè đòn dông gãy
Ngươi
hết làm nhà thôi
Tâm ta chừ tịch tịnh
Tham ái dứt bặt rồi. (Pháp
Cú, 154)
Với lòng từ bi cứu độ chúng sanh, với ý thức không
ai có quyền tước đoạt quyền sống, quyền bình đẳng, và quyền mưu cầu hạnh
phúc của người khác, Ngài xác quyết: "Nhứt thiết chúng sanh giai hữu
Phật tánh (tất cả chúng sanh đều có Phật tánh)", và "Tứ chúng xuất gia
đồng qui Thích thị (bốn giai cấp xuất gia đều mang họ Thích)". Chính vì
thế mà Ngài đã dang tay đón nhận một Ưu Ba Ly (Upali) sống bằng nghề hớt
tóc, thuộc giai cấp Thủ Ðà La vào giáo hội, về sau chứng quả A La Hán,
thành một trong mười đệ tử vĩ đại của Phật, đứng đầu về giới luật; một
tiện nữ Bát Cát Ðế (Pakati) lăng loàn, sau cũng chứng quả A La Hán; rồi
đến vũ nữ Kuvalaya chuyên nghề bán phấn buôn hương; Ương Khuất Ma La
(Angulimala) cuồng tín giết người đến loạn trí; vua A Xà Thế
(Ajatasatru) tham quyền đến sát hại vua cha là quốc vương Tần Bà Sa La
(Bimbisara), cùng vô số công hầu khanh tướng, bá tánh lê dân, tất cả đều
được Phật hóa độ theo tinh thần Từ - Bi - Hỷ - Xả.
Rõ là không
tốn một viên đạn, không mất một mũi tên, không đổ một giọt máu, đức Phật
đã giảng dạy đạo lý như thật, làm đảo lộn cái mà giai cấp Bà La Môn cho
là nề nếp vua quan, kỷ cương luân lý và trật tự xã hội. Ðức Phật đã lên
án chế độ giai cấp, phong kiến và bóc lột. Con người là con người,
không có con người Bà La Môn hay con người Sát Ðế Lỵ. Nhờ tôn chỉ cách
mạng, mục tiêu hành động và ý thức giác ngộ của quần chúng, xã hội Ấn Ðộ
dần dần được đổi mới, chế độ giai cấp bị tan rả, nhân dân sống trong
thuần lương an lạc.
Cách mạng tư tưởng
Nhờ giáo pháp
của Phật, quần chúng nhân dân Ấn Ðộ đã hoàn thành cách mạng xã hội và
chuyển sang cuộc cách mạng văn hóa tư tưởng. Ðây là cuộc cách mạng nồng
cốt, nhằm giải quyết tự ngã. Ðức Phật đã chỉ rõ đâu là căn nguyên của
khổ đau, sinh tử, và vạch ra phương pháp đi đến giải thoát.
Lịch
sử tư tưởng Ấn Ðộ cho thấy trong thời đức Phật có tới 62 hệ phái thần
học và triết học khác nhau, luận chiến quyết liệt về nguồn gốc của nhân
sinh và vũ trụ. Các luận sư tha hồ triển khai học thuyết: nào là duy vật
duy thần, ngẫu nhiên tiền định, tương đối hoài nghi, thường kiến đoạn
kiến v.v... Dân chúng hoang mang ngơ ngác không biết đâu mà theo.
Như
nước trong đại dương chỉ có một vị mặn, giáo pháp của Phật cũng chỉ có
một hương vị giải thoát. Lời Phật dạy là chánh pháp, là chân lý tuyệt
đối. Phật dạy khổ, nguyên nhân của khổ, sự chấm dứt khổ và con đường dẫn
đến sự chấm dứt khổ. Phật dạy các pháp do duyên sanh, không có thật
tướng, gọi là vô ngã. Chân lý ấy xưa nay không ai có thể phủ nhận. Chính
vì thế mà Xá Lợi Phất (Sariputra) sau khi nghe Mã Thắng (Assaji) đọc
bốn câu kệ thì bỏ thầy bỏ đạo, lên đường theo Phật không chút do dự.
Xá
Lợi Phất và Mục Kiền Liên (Maudgalyayana) là hai nhà biện tài và thần
thông nổi tiếng thuộc nhóm lục sư ngoại đạo. Một hôm Xá Lợi Phất gặp Mã
Thắng đang đi khất thực trong thành Vương Xá, thấy phong thái uy nghi tự
tại của Mã Thắng, Xá Lợi Phất cảm phục đến gần hỏi đạo, được Mã Thắng
giảng lý duyên sanh gồm trong một bài kệ:
Các pháp do duyên sanh
Lại
cũng do duyên diệt
Thầy ta là đức Phật
Thường thuyết giảng như
vậy.
Xá Lợi Phất nghe xong thì bừng tỉnh, sung sướng xin quy y
Phật. Sau đó Xá Lợi Phất đưa Mục Kiền Liên và hàng trăm đạo hữu đến thọ
giáo Ngài. Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên trở thành hai cao đệ trí tuệ và
thần thông đệ nhất của Phật. Sáu mươi hai trường phái tư tưởng cũng qui
phục Ngài.
Ðức Phật đã làm một cuộc cách mạng tư tưởng tận căn
đế. Ngài đã chỉ cho chúng sanh thấy vô minh là nguồn gốc của mọi đau
thương khốn khổ trên đời. Do đó, mỗi Phật tử phải là một chiến sĩ dũng
mãnh, tinh tấn, mặc giáp trụ giới đức, mang cung kiếm định tuệ, bắn phá
rừng vô minh, nhổ gốc rễ tham ái, tiêu diệt địch tham sân. Bởi vì, làm
cách mạng văn hóa tư tưởng là làm cách mạng tự thân, tự tâm thanh tịnh
thì tư tưởng trong sáng, ngôn ngữ nhu hòa, hành động ái kính, xã hội do
đó ngày càng trở nên thanh bình, an lạc. Ðúng là:
Tự ta gây ác
nghiệp
Tự ta nhiễm cấu trần
Tự ta tránh ác nghiệp
Tự ta tịnh
thân tâm
Nhiễm tịnh do ta cả
Không ai thanh tịnh ai. (Pháp Cú,
165)
Ðức Phật không hô hào đốt cháy, tẩy chay cái gọi là văn hóa
lai căn, tư tưởng tiêu cực; Ngài chỉ cho ta thấy đâu là căn nguyên của
khổ đau và giải thoát, xung đột và an lạc. Cuộc cách mạng xã hội và tư
tưởng văn hóa của Ngài không những thành công ở Ấn Ðộ cách đây 25 thế
kỷ, mà sẽ còn ảnh hưởng và thành công trong dòng lịch sử của nhân loại.