Vậy là đã được 365 ngày kể từ ngày Trưởng lão Hòa
thượng Thích Thanh Tứ - Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Trị sự GHPGVN
vắng bóng cõi sa bà.
Vậy
là đã được 365 ngày kể từ ngày Trưởng lão Hòa thượng Thích Thanh Tứ -
Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Trị sự GHPGVN, Viện Trưởng Học viện
Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội, Đại biểu Quốc hội khóa XI, XII và Uỷ viên
Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam vắng bóng cõi
sa bà. Sự ra đi của Trưởng lão Hòa thượng đã để lại sự trống vắng và
niềm kính tiếc vô hạn đối với Tăng ni, Phật tử chân chính và các cấp
GHPGVN. Đặc biệt, sự trống vắng và kính tiếc đó đã được nhân lên gấp bội
lần khi Tăng ni, Phật tử tiêu biểu cả nước vân tập tại Hà Nội để tham
dự Đại hội Đại biểu Phật giáo toàn quốc lần thứ VII vừa qua, với những
kỷ vật vô giá đến tay các Đại biểu “Kỷ yếu Trưởng lão Hòa thượng Thích
Thanh Tứ - Đạo pháp và Dân tộc” cũng như đĩa phim tài liệu “Hòa thượng
Thích Thanh Tứ - Người của Đạo Người của Đời”, do hãng Phim Tài Liệu
Khoa học Trung ương sản xuất đã được VTV1 và H1 phát sóng trước ngày
diễn ra khai mạc Đại hội Đại biểu Phật giáo toàn quốc lần thứ VII.
Có
trong tay 02 kỷ vật trên, tôi cũng như Tăng ni, Phật tử hoặc các chính
khách chắc chắn sẽ cảm nhận như được sống lại với những chuỗi sự kiện
của Phật giáo và đất nước trong suốt gần một thế kỷ mà cuộc đời và Đạo
nghiệp của Trưởng lão Hòa thượng đã bước qua, là một minh chứng và đặc
biệt những sự kiện hơn 30 năm qua kể từ ngày thống nhất tổ chức, hệ phái
Phật giáo trong cả nước thành lập nên GHPGVN cho đến ngày Trưởng lão
Hòa thượng viên tịch.
Nhân
ngày trọng lễ Tiểu tường của Trưởng lão Hòa thượng, là một Cư sỹ Phật
tử con xin được tái hiện lại cuộc đời và đạo nghiệp của Người thông qua
tiểu sử và những bài viết đã được trang trọng trình bày trong cuốn kỷ
yểu của Trưởng lão Hòa thượng.
1.
Trưởng lão Hòa thượng Thích Thanh Tứ dấn thân hành Bồ Tát Đạo, đấu
tranh giành độc lập dân tộc, giải phóng quê hương và đất nước.
(1945-1954).
Sống
trong cảnh thực dân phong kiến đô hộ, nhân dân lầm than đau khổ, Ngài
đã sớm nhận thức rằng: nước mất thì đạo cũng bị hủy hoại, nhân dân tín
đồ Phật tử cũng không có cuộc sống an lạc, Phật Pháp không được xiển
dương. Chính vì vậy, Ngài đã liễu nghĩa được mối quan hệ mật thiết không
thể tách rời Đạo - Đời và đây chính là tiền đề quan trọng đối với con
đường tu hành phụng sự đất nước và giác ngộ quần sinh mà Ngài đã lựa
chọn.
Thấm
nhuần tư tưởng: "Phật pháp bất ly thế gian giác" với truyền thống yêu
nước "Hộ quốc an dân" của Phật giáo Việt Nam suốt 2000 năm hiện diện và
đồng hành với dân tộc, Ngài đã sớm giác ngộ Cách mạng, tích cực tham gia
hoạt động bí mật trong lòng địch, ủng hộ các phong trào Cách mạng dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Mặt trận Việt Minh, Ngài đã
hóa thân Bồ Tát, lúc làm tu sĩ, lúc làm dân thường, lúc là người chiến
sĩ Cách mạng với bầu nhiệt huyết ưu đời mẫn thế.
Tháng
03 năm 1945, được sự chỉ đạo của tổ chức Cách mạng, Ngài đã lên kế
hoạch để cùng với nhân dân địa phương tổ chức phá kho thóc của chế độ
phong kiến và đế quốc Nhật đặt tại chùa Đống Long nơi Ngài đang tu hành,
nhằm cứu giúp đồng bào đang lâm vào cảnh đói khổ bi thương, rồi tập hợp
quần chúng nhân dân, Phật tử trong vùng đấu tranh và giành chính quyền
năm 1945 tại quê hương.
Cách
mạng tháng Tám thành công, đất nước lại bước vào thời kỳ toàn quốc
kháng chiến, Ngài lại tiếp tục tham gia các phong trào phụng đạo yêu
nước của giới Tăng ni, Phật tử tỉnh Hưng Yên. Từ năm 1947 đến năm 1949
Ngài được suy cử làm Uỷ viên Ban Chấp hành Hội Phật giáo Cứu quốc tỉnh
Hưng Yên, tổ chức thành viên của Hội Liên Việt (nay là Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam).
Từ
tháng 01 năm 1950 đến tháng 9 năm 1951, Ngài đã trực tiếp tham gia lực
lượng vũ trang bí mật tỉnh Hưng Yên, làm công tác dân vận, thúc đẩy Tăng
ni, Phật tử tích cực tham gia các phong trào lao động sản xuất ủng hộ
kháng chiến, bảo vệ Cách mạng. Với những hoạt động tích cực đó, thực dân
Pháp đã đưa tên Ngài vào danh sách những người "đặc biệt quan tâm".
Từ
tháng 10 năm 1951 đến tháng 4 năm 1953, Ngài đã bị thực dân Pháp bắt
giam và tra tấn, giải qua nhiều trại giam, nhà tù: Bốt La Tiến, bốt Lực
Điền ở thị xã Hưng Yên; nhà thờ Kẻ Sặt, nhà giam ở tỉnh Hải Dương; Nha
công an, nhà tù Hỏa Lò, trại giam Thanh Liệt, tỉnh Hà Đông, nay là thành
phố Hà Nội.
Trong
cảnh giam tù, thực dân Pháp đã sử dụng nhiều thủ đoạn tra tấn điều tra,
hòng làm lu mờ ý chí Cách mạng đang lắng đọng trong Ngài. Song với tinh
thần đại hùng, đại lực, đại từ bi, Ngài đã thể hiện rõ bản lĩnh của
người Trượng Phu phụng sự đất nước, Ngài luôn thản nhiên trước sự tra
tấn cực hình của cai ngục và cuối cùng thực dân Pháp đã phải trả tự do
cho Ngài cùng hơn 100 chiến sỹ Cách mạng khác. Ra khỏi nhà lao, Ngài lại
tiếp tục tham gia hoạt động Cách mạng cho đến ngày miền Bắc được hoàn
toàn giải phóng.
2. Trưởng lão Hòa thượng Thích Thanh Tứ với những Phật sự sau ngày miền Bắc được giải phóng (1954 – 1975).
Từ
năm 1955 đến năm 1957, Ngài chăm lo Phật sự tại chùa Đống Long, chùa
Nho Lâm, chùa Phó Nham huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên và trực tiếp cùng
Tăng ni, Phật tử và nhân dân địa phương tham gia lao động sản xuất.
Từ
năm 1958 đến năm 1967, Ngài tham gia thành lập Tùng Lâm Phật giáo tỉnh
Hưng Yên và được suy cử làm Chánh Thư ký. Trong thời gian này, Ngài đã
cùng Chư tôn đức Phật giáo tỉnh tập trung kiện toàn hệ thống tổ chức
Phật giáo tại Hưng Yên và hướng dẫn lao động sản xuất, giúp đỡ Tăng ni
tại các cơ sở tự viện giải quyết những khó khăn về đời sống tu tập trong
hoàn cảnh đất nước chiến tranh.
Năm
1968, hai tỉnh Hưng Yên và Hải Dương hợp nhất thành tỉnh Hải Hương, Hội
Phật giáo Thống nhất Việt Nam tỉnh Hải Hưng được thành lập, Ngài được
suy tôn làm Chánh Thư ký tỉnh hội. (từ 1969-1973).
Từ
năm 1974 đến năm 1980, Ngài được suy cử Uỷ viên Ban Trị sự kiêm Chánh
Văn phòng Trung ương Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam, chính thức làm
việc tại chùa Quán Sứ, Trụ sở Trung ương Hội. Với trọng trách của mình,
Ngài đã cùng Chư tôn Giáo phẩm thành viên Ban Trị sự Trung ương, xây
dựng nhiều chương trình hoạt động Phật sự ích đạo lợi đời, củng cố hệ
thống tổ chức từ trung ương đến địa phương, tạo nền tảng và tiền đề cho
việc phát triển tổ chức Giáo hội Phật giáo toàn quốc khi đất nước hoàn
thành sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà.
3.
Trưởng lão Hòa thượng Thích Thanh Tứ với những Phật sự sau khi đất nước
được thống nhất, thành lập Ban vận động thống nhất Phật giáo Việt Nam
(1975-1980).
Năm
1975, cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc, Nam Bắc chung một nhà, non
sông liền một dải, Trung ương Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam đã chủ
động thành lập các phái đoàn vào thăm các tổ chức hệ phái Phật giáo miền
Trung và miền Nam để tạo mối liên hệ pháp lữ và chia sẻ tâm nguyện của
Tăng ni Phật tử giữa các vùng miền sau nhiều năm đất nước chia cắt.
Trong
các chuyến viếng thăm đó, Ngài được cử làm Thư ký đoàn để tham vấn Chư
tôn đức trong việc xây dựng nội dung và chương trình làm việc tiếp xúc
với chư tôn đức lãnh đạo các tổ chức hệ phái Phật giáo ở miền Trung và
miền Nam.
Cuối
năm 1979 đầu năm 1980, đoàn Phật giáo miền Bắc do Trưởng lão Hòa thượng
Thích Đức Nhuận – Hội trưởng Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam, Trưởng
lão Hòa thượng Thích Thế Long – Phó Hội trưởng kiêm Tổng Thư ký và Ngài
lúc đó là Chánh Văn phòng đã vào thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Huế,
gặp gỡ chư tôn giáo phẩm lãnh đạo các tổ chức, hệ phái Phật giáo ở miền
Trung và miền Nam, làm công tác vận động tổ chức hội nghị hiệp thương
xúc tiến thành lập Ban vận động thống nhất Phật giáo Việt Nam.
Sau
một thời gian chuẩn bị, Ban Vận động thống nhất Phật giáo Việt Nam được
thành lập và Ngài được cử làm Phó Thư ký Ban vận động. Với trọng trách
của mình, Ngài đã đi thăm nhiều cơ sở tự viện, gặp gỡ nhiều chư tôn Giáo
phẩm thuộc các tổ chức, hệ phái Phật giáo, trên cơ sở đó Ngài đã đóng
góp nhiều ý kiến quan trọng, giúp chư tôn Giáo phẩm của các tổ chức, hệ
phái Phật giáo đồng thuận, hòa hợp để sớm đi đến sự hợp nhất tổ chức
thành lập Giáo hội toàn quốc.
4. Trưởng lão Hòa thượng Thích Thanh Tứ với những Phật sự thống nhất tổ chức, hệ phái Phật giáo thành lập GHPGVN (1981-2011).
Với
sự gia trì của Tam Bảo, sự nhất tâm của Tăng ni, Phật tử, Hội nghị
Thống nhất Phật giáo Việt Nam đã được long trọng tổ chức từ ngày 04 đến
ngày 07/11/1981 tại chùa Quán Sứ - Hà Nội, Trụ sở Hội Phật giáo Thống
nhất Việt Nam. Sau 04 ngày làm việc trong tinh thần đoàn kết, hòa hợp,
trưởng dưỡng đạo tâm, trang nghiêm tổ chức, Hội nghị đã quyết nghị thống
nhất các tổ chức hệ phái Phật giáo Việt Nam, với danh xưng Giáo Hội
Phật giáo Việt Nam, thông qua Hiến chương, chương trình hoạt động Phật
sự và nhân sự Ban lãnh đạo trung ương: Hội đồng Chứng minh, Hội đồng Trị
sự. Và Ngài được suy cử làm Phó Tổng Thư ký kiêm Chánh Văn phòng I
Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam cho đến tháng 11 năm 1997.
Tháng
11 năm 1997, Đại hội Đại biểu Phật giáo toàn quốc lần thứ IV
(1997-2002) thành công, Ngài được suy cử làm Phó Chủ tịch Hội đồng Trị
sự. Năm 2001 Ngài được suy cử làm Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Trị
sự giáo hội Phật giáo Việt Nam, Viện trưởng Học viện Phật giáo Việt Nam
tại Hà Nội. Tại Đại hội Đại biểu Phật giáo toàn quốc lần thứ V
(2002-2007) và lần thứ VI (2007-2012), Ngài được suy tôn là thành viên
Hội đồng Chứng minh và suy cử làm Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Trị
sự, Viện trưởng Học Viện Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội.
Trải
qua các chức vụ từ Chánh Văn phòng, Phó Tổng Thư ký, Phó Chủ tịch
Thường trực Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Ngài đã có
nhiều đóng góp quan trọng đối với đạo Pháp, đặc biệt là sự phục hồi các
hoạt động Phật sự của Phật giáo miền Bắc sau ngày đất nước được thống
nhất.
Được
sự quan tâm giúp đỡ của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các bộ ngành, Ngài đã cùng Chư tôn đức lãnh đạo Giáo hội đi đến nhiều
tỉnh, thành phố khu vực phía Bắc để cùng trao đổi và tháo gỡ khó khăn
vướng mắc trong việc kiện toàn tổ chức, nhân sự Giáo hội tại địa phương,
phục hồi các hoạt động Phật sự đúng chính pháp tại các cơ sở tự viện,
kêu gọi công đức trùng tu các cơ sở tự viện bị xuống cấp, động viên Tăng
ni, Phật tử yên tâm hành đạo và tích cực tham gia lao động sản xuất,
đăng ký hộ khẩu ổn định đời sống tu hành, độ người Phật tử xuất gia và
Phật tử tại gia. Nhiều di tích lịch sử văn hóa của Phật giáo được tôn
tạo và mở hội truyền thống, giữ gìn bản sắc dân tộc, Phật pháp được xiển
dương và hạn chế hủ tục không phù hợp với chính pháp.
Trong
quá trình kiện toàn tổ chức nhân sự Giáo hội địa phương, một số Tỉnh
Thành hội Phật giáo lúc mới thành lập gặp nhiều khó khăn, Ngài đã trực
tiếp đảm trách ngôi Chứng minh đạo sư hoặc làm Trưởng Ban Trị sự để cho
Tăng ni, Phật tử địa phương nương tựa, như Tỉnh hội Phật giáo Thái
Nguyên, Quảng Ninh, Thanh Hoá, Hà Nam.
Bên
cạnh đó, Ngài còn trao truyền giới châu tuệ mệnh cho hàng ngàn Tăng ni
mới xuất gia và hàng vạn Phật tử tại gia thông qua các đại giới đàn do
Ban Trị sự và các Tổ đình tổ chức.
Sự
nghiệp giáo dục đào tạo Tăng ni có đủ tài đức là một trong những Phật
sự được Ngài quan tâm đặc biệt. 30 năm xây dựng và trưởng thành của Học
viện Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội luôn gắn liền với tên tuổi và công
lao to lớn của Ngài. Ngài đã đảm trách các Phật sự từ Chánh Văn phòng
đến Phó Viện Trưởng và nay là Viện Trưởng, Ngài đã dành nhiều tâm lực và
trí tuệ với một mong muốn Phật giáo miền Bắc phải có một tuyển Phật
trường xứng tầm với lịch sử Phật giáo Việt Nam.
Sau
hơn 20 năm, với bao vất vả, Ngài đã tìm được nơi đắc địa tại xã Phù
Linh, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội để đặt đá xây dựng Học viện Phật
giáo Việt Nam tại Hà Nội và đến năm 2006 đã làm lễ khánh thành giai đoạn
I, với một cơ ngơi to đẹp, trang nghiêm, đủ điều kiện ăn ở nội trú để
Tăng ni sinh yên tâm tu học như hôm nay.
30
năm xây dựng và trưởng thành của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Ngài đã
có nhiều đóng góp to lớn cho những thành tựu Phật sự chung của Giáo hội
hội Phật giáo Việt Nam, Ngài trở thành cấu nối giữa đạo với đời, giữa
Phật giáo miền Bắc với Phật giáo miền Trung và Phật giáo miền Nam. Là
thành viên tích cực trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Ngài được tín
nhiệm cử tham gia Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, Phó Chủ nhiệm Hội đồng Tư vấn Tôn giáo của Uỷ ban Trung ương Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam.
5.
Trưởng lão Hòa thượng Thích Thanh Tứ với những Phật sự gắn kết cộng
đồng xã hội, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc và củng cố quan hệ
hữu nghị hòa bình thế giới.
Với
tinh thần phụng sự chúng sinh là thiết thực cúng dàng chư Phật, Ngài đã
thường xuyên đến thăm hỏi và tặng quà động viên các trung tâm nuôi
dưỡng trẻ mồ côi khuyết tật, ảnh hưởng chất độc da cam, các trung tâm
nuôi dưỡng người không nơi nương tựa, những gia đình gặp hoạn nạn, khó
khăn, xây dựng nhà đại đoàn kết, nhà tình thương, tham gia các hoạt động
xóa đói giảm nghèo. Ngài còn trực tiếp tham gia Ban Chấp hành Hội Chữ
Thập Đỏ Việt Nam, Hội Người Cao tuổi Việt Nam để cùng đóng góp tham mưu
xây dựng chính sách xã hội ngày một hiệu quả hơn.
Đối
với công tác Phật sự quốc tế, Ngài đã đi thăm, làm việc và tham gia
nhiều Hội nghị tôn giáo Quốc tế được tổ chức ở các nước châu Mỹ, châu
Âu, châu Á, và Liên Xô (trước đây). Ngài chủ trì nhiều buổi làm việc,
tiếp nhiều vị chính khách Quốc tế đến thăm và làm việc với Giáo hội.
Những nơi Ngài đến, những vị khách được Ngài tiếp đều nhận được tình cảm
thân thiết thắm tình. Thông qua đó, hình ảnh và đất nước con người Việt
Nam, Phật giáo Việt Nam đã được bạn bè quốc tế hiểu hơn và đánh giá
cao. Với những khả năng trí tuệ tinh anh, Ngài được mời tham gia Ban
Chấp hành Liên hiệp Các tổ chức Hữu nghị Hòa bình Việt Nam, Phó Chủ tịch
Hội Hữu Nghị Việt Nam – Nhật Bản.
6.
Trưởng lão Hòa thượng Thích Thanh Tứ - Người Đại biểu Nhân dân với
những tư tưởng và chính sách lớn đối với Dân tộc được Đảng, Nhà nước ghi
nhận và trở thành những chính sách thiết thực trong cuộc sống.
Với
những đóng góp to lớn đối với Đạo pháp và Dân tộc, Ngài luôn được Tăng
ni, Phật tử, nhân dân quý mến và tin tưởng. Ngài được Trung ương Giáo
hội công cử làm đại diện giới Tăng ni, Phật tử tham gia ứng cử đại biểu
Quốc hội và được cử tri bầu trúng cử hai khóa Quốc hội khóa XI, XII, và
là thành viên Uỷ ban các vấn đề xã hội của Quốc hội. Là một đại biểu lớn
tuổi nhất trong Quốc hội, song Ngài vẫn luôn tích cực tham gia đầy đủ
các kỳ họp, thực hiện chức năng nhiệm vụ của người đại biểu nhân dân,
đóng góp nhiều ý kiến tâm huyết, xác đáng tại các kỳ họp, các phiên thảo
luận của Quốc hội, tiếp xúc cử tri trước và sau mỗi kỳ họp được Quốc
hội và cử tri đánh giá cao, với tấm lòng kính trọng một vị cao Tăng luôn
vì dân vì nước.
Đúng
như Anh hùng Lao động, Giáo sư Vũ Khiêu đã tặng Ngài đôi câu đối:
“Chính Đại Quang Minh Tâm Hướng Phật – Từ Bi Hỷ Xả Chí Ưu Dân”.
Chính sách phù hợp với lòng Dân ý Đảng và phù hợp với giáo lý Đạo Phật:
Tại
kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XI, ngày 09/6/2003, thảo luận tại hội
trường, Trưởng lão Hòa thượng đã phát biểu về việc ủng hộ đề nghị của
Chính phủ trình Quốc hội cho thí điểm tổ chức dạy nghề và giải quyết
việc làm cho người sau cai nghiện ma túy ở thành phố Hồ Chí Minh:
“Nhận
được tờ trình của Chính phủ trình lên Quốc hội về việc cho phép thành
phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh, thành phố khác có nhu cầu và điều kiện
thực hiện thí điểm việc tổ chức quản lý dạy nghề giải quyết việc làm cho
người sau cai nghiện ma tuý. Tôi rất vui mừng bởi những năm gần đây
Đảng, Nhà nước rất quan tâm đến vấn đề giải quyết tệ nạn ma tuý và đã
tiêu tốn nhiều tiền tài, công sức của nhân dân và của Nhà nước. Tuy
nhiên, kết quả công tác này vẫn chưa đạt được như mong muốn, mà còn có
chiều hướng gia tăng, phức tạp. Những người nghiện được đi cai nghiện
trong thời gian 2 năm theo pháp luật quy định lại trở về hoà nhập chung
sống với cộng đồng, một số người có nghị lực đã không tái nghiện trở
thành người lương thiện, còn phần lớn lại tái nghiện, con số lên tới
80-90%, không những thế còn kéo một số người nghiện theo.
Đến
lúc này, tôi mới hiểu một số ý kiến đề cập đến vấn đề này tại hội nghị
mà tôi được dự là cai nghiện kiểu này không khác gì bắt cóc bỏ đĩa. Chỉ
riêng thành phố Hồ Chí Minh hiện nay có khoảng 30 nghìn người nghiện,
mới đưa đi cai nghiện khoảng 24 nghìn người và số người này hết thời hạn
cai nghiện lại trở về gia đình, rồi lại tái nghiện rồi lại đi cai
nghiện, có người đi đi lại lại tới 10 lần mà vẫn cứ như thế và như thế
đâu có phải là suôn sẻ, đơn giản mà họ còn gây cho gia đình, xã hội trăm
nghìn thứ phức tạp, thử hỏi 30 nghìn người nghiện này, mỗi người chỉ
gây ra một việc bất chính, không lành mạnh thì thành phố Hồ Chí Minh
phải gánh 30 nghìn cái tai vạ, 30 nghìn gia đình phải khổ sở, không
những thế trong số những người nghiện này còn có những em ở độ tuổi vị
thành niên, cuộc sống của chúng còn dài, bơ vơ không nơi nương tựa, cơm
không có ăn, chữ không được học, khổ cực biết bao, những cảnh tượng đó
thúc giục chúng ta phải hành động để đưa con em ta thoát khỏi đau khổ.
Tôi
thấy chủ trương của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố Hồ Chí
Minh về vấn đề trên rất đúng đắn, rất nhân đạo và rất nhân phẩm. Nhân
đạo là đưa 30 nghìn con người này trở thành người lương thiện, đem lại
phẩm giá làm người cho họ và giúp cho họ có cơm ăn, việc làm, áo mặc,
thoát khỏi cảnh nghiện. Một chủ trương rất phù hợp với thế đạo nhân tâm,
không những thế mà còn làm cho an ninh trật tự xã hội được ổn định, xã
hội được trong sạch, gia đình được hạnh phúc.
Cuối
tháng 3 vừa rồi chương trình tư vấn ma túy DAP, kế hoạch Kolombo đã tổ
chức hội nghị khu vực Châu Á Thái Bình Dương tại Bangkok Thái Lan, với
sự tham gia của 70 đại biểu thuộc 11 quốc gia trong đó có đại diện Giáo
hội Phật giáo Việt Nam, nhằm thảo luận về vai trò của các tổ chức tôn
giáo trong việc xây dựng chiến lược nhằm giải quyết vấn đề ma tuý và
cộng đồng liên quan. Đây là việc làm nhằm phát huy sức mạnh của cả cộng
đồng xã hội tham gia cùng Nhà nước giải quyết có hiệu quả công tác phòng
chống ma tuý.
Tại
Hội trường này, tôi tha thiết đề nghị Quốc hội xem xét giúp đỡ cho phép
thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh thành phố khác làm thí điểm việc
này. Tôi tin chắc sẽ thành công tốt đẹp, bởi đây là việc làm rất phù hợp
với lòng dân và có lợi cho mỗi gia đình, cho quốc gia và cho xã hội.
Nếu Quốc hội cho phép thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh thành khác
được làm việc này, về phần mình tôi xin kêu gọi Tăng ni, Phật tử và tín
đồ cả nước tích cực ủng hộ. Bởi vì việc làm này thể hiện lòng đại từ,
đại bi, cứu khổ, cứu nạn và rất phù hợp với chân lý của đạo Phật.”
Đảng đã ra tay để chỉ đạo công tác phòng chống tham nhũng:
Tại
kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa X, ngày 31/10/2006, Quốc hội thảo luận tại
hội trường về Luật phòng, chống tham nhũng, Trưởng lão Hòa thượng đã
phát biểu:
“Từ
sáng đến giờ tôi không dám phát biểu, bây giờ tự nhiên lại muốn phát
biểu. Vì tôi là lính mới, cho nên không biết phát biểu có trúng hay
không, sợ các đại biểu khác phê bình. Bây giờ tôi xin phát biểu một số
vấn đề rất ngắn.
Kính
thưa các đại biểu, vấn đề chống tham nhũng từ Trung ương đến địa
phương, từ các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước cho đến nhân dân vô cùng bức
xúc. Khi tiếp xúc cử tri tôi thấy cử tri phát biểu nhiều nhất, sôi nổi
nhất đó là vấn đề phòng, chống tham nhũng.
Người
ta nói đây là một quốc nạn, là nội xâm, ý nguyện cử tri mong muốn bây
giờ Đảng phải ra tay. Nếu Đảng ra tay thì khó khăn đến đâu cũng giải
quyết được, ta đặt vấn đề hỏi những người tham nhũng này có phải là Đảng
viên hay không?
Nếu
là Đảng viên của Đảng mà Đảng không ra tay thì dù sao ta có nói thế nào
và có làm sao cũng không được. Nói là đấu tranh mà không có lãnh đạo
thì làm sao mà thắng lợi được. Cách mạng Tháng 8 thành công cũng do Đảng
lãnh đạo. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc đầu sỏ
gay go như thế, khó khăn như thế mà Đảng lãnh đạo cũng thành công.
Muốn xây dựng Chủ nghĩa xã hội cần phải có con người Xã hội chủ nghĩa, đây là lời của Hồ Chủ tịch.
Nghị
quyết Đại hội X của Đảng đã nhắc tới, tôi đề nghị Đảng sớm ra tay, toàn
dân chúng tôi đang mong đợi, tôi nói như vậy có điều gì sai sót, tôi
xin ngài Tổng Bí thư miễn thứ cho và Quốc hội miễn thứ cho.”
Chính sách an sinh xã hội được quan tâm: bảo hiểm y tế toàn dân, bảo hiểm vật nuôi cây trông đã được thực hiện.
Tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XI, ngày 20/10/2005, Quốc hội thảo luận tại hội trường, Trưởng lão Hòa thượng phát biểu:
“Tại
kỳ họp này, tôi xin được đề cập một số vấn đề liên quan đến việc nâng
cao mức sống của người dân, đặc biệt là người dân của vùng nông thôn và
người nghèo, để Đảng, Nhà nước quan tâm.
Báo
cáo của Chính phủ trình tại Quốc hội đã khái quát tình hình kinh tế xã
hội năm 2005 và chương trình chỉ tiêu kinh tế xã hội năm 2006. Thành tựu
quan trọng xã hội đạt được trong năm 2005, tổng sản phẩm trong nước
tăng khoảng 8,4%, bình quân đầu người đạt khoảng 640 USD và năm 2006
tổng sản phẩm trong nước đạt khoảng 8%, bình quân đầu người là 720 USD.
Tôi
hoàn toàn nhất trí phương hướng, nhiệm vụ và kế hoạch phát triển năm
2006 của Đảng và Nhà nước đề ra. Song một thực tế hiện nay, khoảng cách
giữa người giàu, nghèo đang ngày một lớn và sâu sắc, tôi cũng biết rằng
trong nhiều năm qua, đặc biệt là 5 năm trở lại đây, Đảng, Nhà nước và
Mặt trận Tổ quốc cũng như các thành viên của Mặt trận, trong đó có Giáo
hội Phật giáo Việt Nam đã có nhiều chính sách hoạt động thiết thực giúp
đỡ người nghèo để làm giảm thiểu những mặt trái của đời sống xã hội.
Công tác từ thiện xã hội rất phù hợp với giáo lý từ bi bác ái của đạo
Phật, cho nên Tăng ni, Phật tử rất tích cực tham gia như sư cụ Đàm Ánh ở
chùa Phụng Thánh quận Đống Đa đã ủng hộ đồng bào nghèo 300 con trâu, bò
và nhiều vị Tăng ni khác cũng rất tích cực, cộng với sự hoan hỷ đón
nhận Nghị quyết 7 của Ban chấp hành Trung ương Đảng về vấn đề tự do tín
ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, đón nhận Pháp lệnh về tín ngưỡng tôn giáo
của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và Nghị định của Chính phủ, các vị càng
phấn khởi, tin tưởng ở đường lối, chính sách của Đảng đối với tôn giáo
trước sau như một.
Kính
thưa Quốc hội, công tác từ thiện xã hội xoá đói, giảm nghèo, tôi đã đi
thăm nhiều bà con ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, kể cả ngoại thành
và các thành phố, chứng kiến rất nhiều cảnh nghèo khó, đặc biệt mỗi khi
ốm đau, dịch bệnh đối với người và vật nuôi, cây trồng, những rủi ro đó
dẫn đến tình trạng cực kỳ khó khăn.
Ngành
y tế trong nhiều năm qua đã có nhiều cố gắng trong việc phát triển mạng
lưới khám bệnh, chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. Thực tế hiện
nay các bệnh viện tuyến huyện, tỉnh, hầu hết không bảo đảm điều kiện
khám chữa bệnh. Chính vì vậy mà các bệnh viện ở các tỉnh, thành phố lớn
tuyến trung ương quá tải nhiều dẫn đến tốn kém tiền của và kèm theo
nhiều vấn đề xã hội tiêu cực xung quanh vấn đề người dân đi khám chữa
bệnh.
Bên
cạnh đó, người dân nghèo, người dân sống ở vùng nông thôn hầu hết chưa
biết đến chính sách bảo hiểm y tế, xã hội. Đất nước ta phải chịu hậu quả
trực tiếp của thiên tai, hạn hán, lũ lụt, nhiều thành quả của người dân
lao động bị mất trắng, đẩy nhiều người dân đã khó lại càng khó khăn
hơn.
Trong
khi đó, chính sách bảo hiểm vật nuôi, cây trồng chưa phát triển, mỗi
một lần như vậy cuộc sống của người dân hết sức bấp bênh, khoảng cách
giàu nghèo ngày càng lớn và có phần tác động sâu sắc trong đời sống xã
hội.
Từ
những thực trạng trên, tôi đề nghị Đảng và Nhà nước cần quan tâm, vì
đất nước ta người dân sống ở nông thôn chiếm đa số, trước hết Nhà nước
cần nâng cao các điều kiện khám chữa bệnh tại bệnh viện huyện, tỉnh làm
giảm chi phí cho người dân mỗi khi bị bệnh, nhằm giảm sự quá tải của
bệnh viện tuyến trung ương như hiện nay, đồng thời phổ biến sâu sắc, sâu
rộng cho người dân thấy được tính chất ưu việt của chính sách bảo hiểm y
tế xã hội để người dân tham gia bảo hiểm. Bên cạnh đó cần có nhiều loại
hình bảo hiểm xã hội và nhiều đối tượng khác nhau, không chỉ cho an
sinh xã hội mà còn cho cả những vật nuôi, cây trồng. Được như vậy, chính
sách xoá đói giảm nghèo mới được kết quả phát triển ổn định và bền
vững, qua đó thể hiện tính ưu việt của chế độ ta, thu hẹp khoảng cách
giàu nghèo trong đời sống xã hội.”
Dù
ở vị trí cương vị nào, Ngài luôn nhận được tình cảm kính trọng đặc biệt
của Tăng ni, Phật tử Giáo hội Phật giáo Việt Nam cũng như cộng đồng xã
hội. Đảng và Nhà nước đã trao tặng Huân chương Hồ Chí Minh, vì đã có
công lao to lớn, có nhiều thành tích xuất sắc, đóng góp vào sự nghiệp
Cách mạng của Đảng và của Dân tộc. Qủa thật Ngài là tấm gương sáng tốt
đạo đẹp đời của hôm nay và mai sau.
Đúng như Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã viết:
“Tôi kính cẩn nghiêng mình tiễn biệt Hòa thượng Thích Thanh Tứ!
Hòa thượng đã cống hiến trọn đời mình cho Đạo pháp và Dân tộc!
Mãi mãi Đạo pháp và Dân tộc ghi nhớ công lao to lớn của Hòa thượng đối với Đạo pháp và Dân tộc ta!”
Thành kính!