Trưởng lão Hòa thượng viện chủ tổ đình
Hội Xá, thế danh là Nguyễn Quang Bích. Ngài sinh năm Quý Sửu (1912) tại
làng Mai Xá – xã Lý Nhân – tỉnh Hà Nam, sinh trưởng trong một gia đình
tiểu nông của dòng họ khoa bảng Nguyễn Bá Thị, cha là cụ ông Nguyễn Hữu
Thượng, mẹ là cụ bà Dương Thị Cẩm.
Ngài là con thứ tư trong gia đình, nên
được cha mẹ hết mực thương yêu. Ngay từ thuở nhỏ Ngài đã sớm bộc lộ
những bản chất hiền lành, nhân hậu, rất mực yêu thương các loài vật, đặc
biệt không bao giờ sát hại sinh mạng của con vật nào.
Năm lên 5 tuổi (1917), Ngài theo cha
mẹ rời xa bản quán đi buôn bán xa phương. Khi đến thôn Kim Đới, xã Hữu
Bằng, huyện Kiến Thuỵ, Hải Phòng, gia đình Ngài gặp vợ chồng nhà nho
Dương Đình Huỳnh, Trọng Thị Như. Qua giao tiếp, cảm mến trước khí khái
tao nhã, với những tư tưởng suy nghĩ có phần khác người bình thường,
toát lên phong thái tư chất của bậc quân tử. Nhà nho Dương Đình Huỳnh đã
xin cụ Nguyễn Hữu Thượng cho Ngài về làm con nuôi, để dạy dỗ với mong
muốn gửi gắm vào Ngài những hoài bão mà cả đời ông chưa hoàn thiện.
Sau khi chuyển về ở nhà cha mẹ nuôi,
Ngài được nhà Nho Dương Đình Huỳnh dạy dỗ cẩn thận, cho đi học các
trường tư thục bên ngoài. Năm 12 tuổi, Ngài đã có trong người lượng kiến
thức Nho học và xã hội tương đối ổn định; đặc biệt đã học thông tiếng
Pháp, có khả năng giao tiếp thạo với người nước ngoài cũng như soạn viết
các văn bản chữ Nôm, chữ Hán.
Cũng là một duyên lành sớm được hạnh
ngộ ngôi Tam Bảo, gia đình cha mẹ nuôi vốn có truyền thống Phật giáo lâu
đời. Mẹ nuôi Ngài và người chị nuôi Dương Tùng Chính (sau này là Ni sư
Tùng Chính, xuất gia tu ở các chùa Kiến Thụy, Hoằng Pháp, Giác Nguyên,
Tiên Long) là những người hết mực tin kính Tam Bảo, hàng ngày phát
nguyện ăn chay, niệm Phật, cầu nguyện Quốc thái dân an. Mẹ nuôi Ngài
cũng chính là người bỏ tiền ra xây dựng ngôi Đại Hùng Bảo Điện bên bến
đò Song, thôn Kim Đới, Kiến Thụy, Hải Phòng. Như nắng hạn gặp mưa, từ
khi chuyển về với cha mẹ nuôi, hạt giống Bồ Đề không ngừng được nảy nở,
Ngài mau chóng tiếp nhận, thấm nhuần tư tưởng tinh thần Phật giáo, tuổi
tuy mới đồng ấu mà đã phát nguyện trường chay, niệm Phật.
Thắng duyên hơn, Ngài lại gặp minh sư
thiện hữu. Người chú ruột của Ngài là Hòa thượng Thích Thông Tiến
(thường gọi là Tổ Thiên Phúc) là một bậc pháp khí thiền gia lỗi lạc, một
trong ba vị luật sư danh tiếng ở miền Bắc vào thời bấy giờ; thường vào
Viện Viễn Đông Bác Cổ phiên dịch kinh điển; 10 năm khắc ván in kinh
trong chùa Vĩnh Nghiêm, xuất gia với Tổ Tế Xuyên, học đạo ở Tổ Nguyên
Uẩn, được Tổ Bà Đá truyền Tâm Ấn. Một hôm đi vân du, Hòa thượng Thiên
Phúc ghé ngôi chùa bến đò Song dừng chân nghỉ, gặp cậu bé thư đồng ngồi
chắp tay niệm Phật, hỏi ra mới biết cháu mình. Được tổ Thiên Phúc nói
pháp vô thường và con đường giác ngộ của Đức Phật, Ngài đã lập tức phát
nguyện xuất gia khi tròn 12 tuổi.
Biết chuyện, mẹ và chị nuôi hết sức
vui mừng, nhưng cha nuôi Dương Đình Huỳnh lại có phần ái ngại; phần vì
thương con, phần vì muốn con mình nối tiếp chí ông, tiếp tục đi học theo
đuổi con đường công danh. Nhưng trước ý chí quyết tâm của con, ông đành
chấp nhận đưa con đến chùa Sủi, thôn Phú Thụy, huyện Gia Lâm, Hà Nội
học đạo với Tổ Thiên Phúc, được Tổ đặt pháp hiệu là: Tâm Bích, pháp danh
là Thích Thanh Bích.
Hiểu được căn cơ của người học trò
thích mật hạnh, chuyên tâm tu tập, không màng đến sự thế của cuộc đời,
nên Tổ Thiên Phúc không dạy các pháp ứng phó, hướng ngoại mà trước dạy
thanh quy giới luật thiền gia, sau hướng dẫn những phương pháp nội quán
chế ngự thân tâm.
Năm 13 tuổi (1918), Ngài được Tổ Thiên
Phúc cho sang chùa Bà Đá tòng Tăng chấp tác. Ở đây, hình ảnh của Lục Tổ
năm xưa lại xuất hiện. Là người bé nhỏ, nhưng hàng ngày phải gánh hơn
200 gánh nước để phục vụ sinh hoạt của chư Tăng quả không phải việc nhỏ.
“Lửa thử vàng, gian nan thử sức”, tinh thần xả thân cầu đạo cuối cùng
cũng được đền đáp. Cuối năm ấy, Tổ Bà Đá nhận thấy Ngài là bậc pháp khí
thiền gia, cơ duyên đầy đủ, liền cho đăng đàn thụ giới Sa di tại Tổ đình
Bà Đá.
Tại chốn Tổ Tế Xuyên, mặc dù Ngài
không phải đeo đá giã gạo như Tổ Huệ Năng, nhưng một người mảnh khảnh,
hơn 10 năm giã gạo cúng giàng chư Tăng chốn Tổ cũng thực sự là một cửa
Đạo khó vào của các bậc trưởng thượng Tông môn. Đi qua cửa ải này, Ngài
được thầy nghiệp sư cho thụ giới Cụ túc tại giới đàn Tổ đình Bút Tháp,
Thuận Thành, Bắc Ninh. Lúc này Ngài tròn 24 tuổi.
Cũng tại nơi đây, Ngài gặp người bạn
đạo Thích Phổ Tuệ, nay là Đức Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Hai
Ngài – một Bi, một Tuệ, cùng chung chí hướng, chung con đường, nên nghĩa
tương dao mau chóng kết thành tình đồng đạo pháp lữ. Mỗi khi gặp nhau
hai Đức Trưởng lão lại: “Trải chiếu luật nghi nhà trượng thất, bạn cao
Tăng đến thỉnh lên ngồi” trong niềm an nhiên tĩnh tại của bậc thiền
thiền giả.
Sau 22 năm theo thầy vân du học đạo,
mùi tương dưa ngấm đủ vị thiền, năm 1940, Trưởng lão trở về ngôi chùa
Sủi – Bắc Ninh, chuyên tâm công phu tu tập Thiền – Tịnh song tu. Ngày
ngày “Nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực”, hành hạnh “Thiểu dục tri
túc”, thực tập ăn cỏ dày, nằm bện rơm, sớm khuya đèn sách, ròng rã trải
qua 20 năm mà không hề ngưng nghỉ. Tấm gương sáng đạo hạnh tu hành ấy,
người dân Sủi cho đến hôm nay vẫn hết lời ca ngợi và tự hào mảnh đất quê
hương của họ đã có những bậc hiền nhân đạo hạnh dừng chân để cho dân
làng học noi gương sáng.
Năm 1960, gánh vác trọng trách kế Tổ
truyền đăng của Tông phong Lâm Tế, Ngài cùng với tôn sư là Tổ Thiên Phúc
trở về Tổ đình Hội Xá, Thường Tín Hà Tây – nơi phát tích của Tổ Tính
Dược, Hải Quýnh, Tịch Truyền, Chiếu Khoan, Phổ Tịnh, để duy trì đạo
mạch, nối tiếp đèn thiền tông phong của Tổ Như Trừng Lân Giác.
Năm 1966, mến mộ đạo hạnh của Đức
Trưởng lão, nhân dân xã Nguyễn Trãi – Thường Tín – Hà Tây cảm thỉnh Ngài
sang trụ trì ngôi chùa Đậu – Thành Đạo Tự, để giúp đỡ nhân dân về đời
sống tín ngưỡng tâm linh. Ở nơi đây, học theo hạnh tu của Tổ Vũ Khắc
Minh, Vũ Khắc Trường – thường ngày Ngài tiết chế ăn uống ngủ nghỉ, khi
tứ đại bất điều thường nhịn ăn, uống nước, thiền quán chữa bệnh; luôn
luôn giữ chính niệm tỉnh giác, như lý tác ý, như lý giác sát. Nhờ thực
hành như vậy nên đạo nghiệp không ngừng được tăng trưởng, thân tướng
ngày một đoan nghiêm giống thân tướng thiền sư để lại toàn thân xá lợi
Vũ Khắc Minh.
Vòng trời đất chuyển xoay, vô thường
là lẽ đương nhiên, khi thầy Nghiệp sư trả thân tứ đại cho đời, nhập cảnh
giới bất thoái chuyển, năm 1986 hợp duyên, Trưởng lão Hòa thượng đã gửi
lại nhân dân Nguyễn Trãi chùa Đậu toàn bộ số tiền hương hoa, lui về Tổ
đình Hội Xá để kế Tổ truyền đăng, nối tiếp Tông phong chốn Tổ.
Kể từ đó đến nay, Trưởng lão Hòa
thượng luôn là bậc Trưởng thượng mực thước cho hàng Tứ chúng Thiền gia
noi theo. Đối với tự thân thì khắc kỷ, đối với người thì rộng lượng bao
dung, chan hòa nhã nhặn, từ bi tiếp vật, mẫn niệm độ sinh; luôn mật
hạnh, làm nhiều hơn nói, khiêm nhường nhẫn nại, không tự cao tự đại; lấy
việc tu làm yếu vụ, việc sinh tử làm trọng, việc độ sinh là cốt yếu;
đặt chữ tàm quý ở trên đầu, lấy tứ ân để khắc dạ, nghĩ Tam đồ mà răn
lòng; hiểu công cày cấy nhiều ít của người nông phu, cơm ăn áo mặc đều
do tín thí…coi thường công danh, tiền bạc, sống thanh bần thủ đạo trong
nếp sống thiền gia; Ngày thì cày bừa, cấy hái, thượng Tam Bảo, hạ trù
táo, đêm thì dùi mài kinh sử, nghiền ngẫm pháp xuất thế của bậc thượng
nhân. Tuổi đã đến mực “Bách tuế” mà buổi buổi bên hiên, dù 6 giờ trời
nhá nhem tối, không ánh đèn, không kính, Ngài vẫn say sưa dò câu kinh
con chữ. Trưởng lão mặc cho dòng đời đầy sáo động thịnh suy lên xuống,
tranh nhân, tranh ngã, một câu “Nam Mô Thường Bất Khinh” – Hết thảy mọi
người là Bồ Tát, chỉ riêng mình là phàm phu, chắp tay cung kính xưng con
với cả sư Bác, sư Chú mà thấy lòng an nhiên tĩnh tại. Lòng từ bi của
Trưởng lão mở rộng đến cả muôn loài chúng sinh. Hàng ngày đám mèo hoang
vẫn đến bầu bạn, Ngài nào dám khinh vi vì Phật tính nhất như nào phân
sai khác. Đức Trưởng lão thực hành pháp tu đơn giản chỉ là “Lệch kê lấm
rửa”, thời khóa công phu đầy dủ, chưa khi nào dừng nghỉ. Tinh thần trì
học giới lại càng dũng mãnh, thời gian trước, Trưởng lão tuổi tuy đã 70
ngoài, mà hàng tháng Ngài vẫn đi bộ hơn chục cây số từ chùa Đậu sang Tổ
đình Võ Lăng tụng giới Bá Tát cho đến khi sức khỏe không còn cho phép;
hay khi Hạ tại chùa Đỏ Văn Quán – Hà Đông, vì lên muộn giờ lâm thụy nên
chùa đã cửa đóng then cài, Ngài cũng không dám gõ cửa động chúng mà lại
tiếp tục thiền hành cả đêm cho đến khi trời rạng; Rồi cũng chính trong
hạ trường Văn Quán, vì điều kiện cơ sở hạ tầng khó khăn, chư Tăng thiếu
chỗ ngủ nghỉ, Đức Trưởng lão đã ra ngoài nhà kho ngủ để nhường chỗ cho
Chư Tăng trì tĩnh, cử chỉ ấy thật là cao đẹp biết bao!
Cuộc sống thường nhật của Đức Trưởng
lão Hòa thượng thanh bạch cốt cách, luôn giản dị trong tấm áo nâu sòng
đã bạc màu theo năm tháng; Cả đời xuất gia tu đạo, chưa khi nào Trưởng
lão tự may cho mình bộ quần áo mới, hay mua những vật dụng trang trí tự
thân. Tất cả vật dụng đều do tín thí phát tâm, Ngài đều tùy công đức
nhiều ít của mình mà đắc thụ vật dụng đàn na.
Trưởng lão hiểu thế giới như hoa đốm,
vạn vật đều vô thường, bởi vậy Trưởng lão luôn bất động giữa dòng đời
đầy sáo động thịnh suy, an nhiên tĩnh tại trước mọi sự cám dỗ của dục
vọng, vật chất. Người tuy quần áo tả tơi nhưng lại thiền gia cốt cách;
gậy chặt bờ rào vẫn đủ để cho thiền trượng thong dong. Túi pháp mặc dù
được làm bằng những bao tải ngoài vườn, vậy mà có biết đâu túi ấy đã
viên tròn giới châu cụ túc. Rồi cả đến giường nằm không cao đẹp to dề,
chỉ giản đơn là những tấm gỗ thừa ghép lại, với manh bạt thay chiếu,
nhưng vẫn đủ làm pháp tòa Như Lai cho ai có trí phát rúc siêu phương trụ
tâm Bảo Sở. Dép mộc, mũ len, Đức Trưởng lão thực tập ngủ ngồi nhiều hơn
nằm, ngày ngày khi rau khoai, lúc rau bợ, lưng bát cơm theo pháp lương
dược vị liệu hình khu, nhẹ phẩy quạt nan, cả đời tu chẳng mấy khi mắc
màn, mặc cho muỗi réo bên tai, lấy pháp lành bố thí kết duyên với chúng
sinh lạc hướng. Mùa đông giá rét, Đức Trưởng lão cũng chỉ một tấm chăn
mỏng đối trị tứ đại cho khỏi bất điều; Quần áo của Ngài cũng chưa khi
nào nhờ ai giặt giúp, mọi việc cá nhân đều tự thân làm lấy; vật dụng tín
thí cúng dàng không thiếu, nhưng cũng chỉ thiểu dục dùng do sợ lạm dụng
đàn na.
Trên con đường tu ấy, Đức Trưởng lão
đã giúp cho không biết bao nhiêu người con Phật thấu hiểu bản chất của
cuộc đời mà kiên cố Bồ Đề Tâm. Ngài không chỉ khẩu giáo, ý giáo, mà lấy
chính bản thân chân thực tu tập của mình làm ngôn ngữ thuyết giáo cho
hàng hậu học. Thật đáng mừng, Phật giáo Hà Nội hôm nay còn lưu giữ được
những truyền thống thiền gia tốt đẹp, thì Đức Trưởng lão chính là một
trong những bậc đi tiên phong trong sự nghiệp duy trì đạo mạch.
Với hàng Phật tử, tín chúng, có không
biết bao nhiêu người lầm lỡ trong cuộc đời đã tìm lại được niềm tin,
nguồn nhựa sống trong ánh từ quang khi được Đức Trưởng lão thiện tâm
giáo hóa. Họ cảm nhận thấy ở nơi Trưởng lão những cảm giác an lành, hạnh
phúc, thấy tin yêu cuộc sống hơn khi cuộc đời trở mặt.
Khi Tăng sai, Đức Trưởng lão đã trải
qua nhiều trọng trách của Giáo hội như Chánh Ban đại diện Phật giáo
huyện Thường Tín, Trưởng Ban trị sự Phật giáo tỉnh Hà Tây, Hiệu trưởng
trường Trung cấp Phật học Hà Tây và hiện nay là thành viên HĐCM, Ủy viên
HĐTS GHPGVN, chứng minh BTS Thành hội Phật giáo HN, Viện chủ Tổ đình
Hội Xá, Trưởng sơn môn Tế Xuyên – Hà Nam.
Trưởng lão Hòa thượng cũng là ngôi
Thầy Hòa thượng, A Xà Lê, đăng đàn truyền trao giới châu tuệ mệnh cho
hàng nghìn giới tử Hà Tây, Hà Nội, Hà Nam, là ngôi đường chủ nhiều năm
của Hạ trường Mai Xá, Hội Xá, Mỗ Lao…cùng nhiều trường hạ khác trong và
ngoài thành phố Hà Nội để làm khuôn mẫu cho học chúng noi theo.