Nhân vật
Tiểu sử HT.Thích Nhật Quang
02/09/2013 10:47 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

Hòa thượng rất tâm đắc câu nói của cố Hòa thượng Thích Trí Thủ và xem đó như là kim chỉ nam trong đời sống tu học của mình “Những gì tôi làm cho Đạo pháp tức là làm cho Dân tộc. Những gì tôi làm cho Dân tộc tức là làm cho Đạo pháp”. Trọn đời tu và làm Phật sự, Hòa thượng đã thực hành theo phương châm này.



HOÀ THƯỢNG THÍCH NHẬT QUANG (1940-2013)

- Ủy viên Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam|
- Phó Trưởng ban kiêm Chánh Thư ký Ban Trị sự GHPGVN TP.Hồ Chí Minh
- Chứng minh Ban Trị sự GHPGVN quận 5, quận 10
|- Nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quận 10
- Nguyên Chánh đại diện Phật giáo quận 10
- Trụ trì tổ đình Ấn Quang, quận 10
- Viện chủ Tổ đình Hội Sơn (Q.9), chùa Thiện Mỹ (Q.5) và chùa Bảo Tâm (Q.11)


I. Thân thế

Hòa thượng THÍCH NHẬT QUANG, thế danh Trần Văn Trừ, sinh năm 1940 tại làng Long Bình, huyện Thủ Đức, tỉnh Gia Định (nay là quận 9, TP.Hồ Chí Minh). Hòa thượng sinh ra trong một gia đình trí thức, thân phụ là cụ ông Trần Văn Thạnh, thân mẫu là cụ bà Huỳnh Thị Thàng - pháp danh Diệu Đức. Hòa thượng là người con thứ 8 trong gia đình có 9 anh chị em và tất cả đều thấm nhuần Phật pháp.

II. Xuất gia học Phật

Năm 1952, với tuổi đời vừa tròn 12, sau khi đã học xong tiểu học, nhà gần chùa lại có duyên lành với Phật Pháp, Hòa thượng đã phát Bồ-đề tâm, thế phát xuất gia, tu học với Sư trưởng Như Thanh, lúc đó là trụ trì tổ đình Hội Sơn (đời thứ 10).

Từ năm 1953 - 1957, ngay sau khi đậu bằng tú tài, Hòa thượng đã tu học giáo pháp xuất trần với các bậc danh đức tại tổ đình Phước Tường và chùa Huê Nghiêm, nhờ đó, con đường Phật sự và giáo hóa gặp nhiều thuận lợi.

Năm 1958, Hòa thượng y chỉ với Tổ Thiện Hòa (nguyên là Trị sự trưởng Giáo hội Tăng-già Nam Việt, viện chủ tổ đình Ấn Quang), được ban Pháp tự THIỆN TRÍ, Pháp hiệu MINH QUANG. Cũng trong năm này, Hòa thượng được Tổ Thiện Hòa cho đăng đàn tiếp nhận giới Sa-di tại Giới đàn Chùa Pháp Hội, từ đó sáng ngời giới đức.

Năm 1964, khi vừa tròn 24 tuổi, Hòa thượng chính thức đăng đàn thọ giới Cụ túc, dự vào hàng Tăng bảo; từ đó, dấn thân làm Phật sự không mệt mỏi, giúp người hiểu được triết Phật, vơi đi nỗi khổ niềm đau.

Năm 1969, Hòa thượng đậu bằng cử nhân toán học loại giỏi. Năm 1970, Hòa thượng được tặng bằng khen xuất sắc trong “Khóa tu nghiệp tân toán học” do Hội Giáo sư Toán Việt Nam và Tổng vụ Văn hóa Giáo dục GHPGVNTN đồng tổ chức.

Từ năm 1969-1975, Hòa thượng được cung thỉnh làm Giáo thọ chuyên toán tại các trường Trung học Bồ Đề Sài Gòn, Chợ Lớn và trường Trung Tiểu học Kiều Đàm, thông qua đó, truyền trao kiến thức Phật giáo, giúp học sinh hiểu đạo Phật, sống và lập nghiệp trong an vui và hạnh phúc.

Từ năm 1975 - 1980, Hòa thượng được GHPGVNTN bổ nhiệm làm Thư ký Ban Đại diện Phật giáo quận 5, Chợ Lớn, làm nhiều Phật sự to lớn cho Giáo hội.

Từ năm 1980 - 1984, Hòa thượng làm Giáo thọ của lớp Sơ cấp Phật học Thiện Hòa tại chùa Giác Ngộ, lớp Trung cấp Phật học Ấn Quang, truyền trao Phật pháp qua toán học cho nhiều thế hệ Tăng Ni sinh, mà hiện nay, nhiều vị đang đảm trách nhiều vai trò quan trọng trong GHPGVN các cấp.

Từ năm 1987 - 2002, suốt 3 nhiệm kỳ liên tục, nhờ sự tận tụy và các hiệu quả Phật sự, Hòa thượng đảm nhiệm vai trò Chánh đại diện Phật giáo Q.10 và Ủy viên Thường trực Ban Trị sự Thành hội Phật giáo TP.HCM.

Nhiệm kỳ 2002-2007, Hòa thượng đảm trách vai trò Phó Thư ký kiêm Chánh Văn phòng Ban Trị sự Thành hội Phật giáo TP.HCM.

Nhiệm kỳ 2007-2012, tại Đại hội đại biểu Phật giáo toàn quốc GHPGVN, Hòa thượng được bầu làm Ủy viên Hội đồng Trị sự GHPGVN. Tại Đại hội đại biểu Phật giáo TP.HCM, với uy tín phụng sự Phật pháp, Hòa thượng được bầu làm Phó Trưởng ban Trị sự kiêm Chánh Thư ký Thành hội Phật giáo TP.HCM. Ở vai trò này, Hòa thượng đã giúp đỡ thủ tục hành chánh cho nhiều tự viện, để Tăng Ni có thể an tâm tu học và làm Phật sự một cách hiệu quả.

III. Thời kỳ xuất gia - tu học

Với đạo nghiệp sâu dày “Trụ Pháp Vương gia, trì Như Lai tạng”, Hòa thượng được sơn môn, pháp phái và Ban Trị sự Thành hội Phật giáo TP.HCM bổ nhiệm làm trụ trì và viện chủ các chốn tổ già lam, điển cử như:

- Năm 2000, Hòa thượng được Ban Quản trị tổ đình Ấn Quang và Ban Trị sự Thành hội Phật giáo TP.HCM bổ nhiệm làm trụ trì chùa Ấn Quang và được Ban Quản trị tổ đình Hội Sơn thỉnh làm viện chủ.

- Năm 2009, Ban Trị sự Thành hội Phật giáo TP.HCM bổ nhiệm Hòa thượng làm viện chủ chùa Thiện Mỹ (quận 5) và năm 2013, Hòa thượng được thỉnh làm viện chủ chùa Bảo Tâm (quận 11).

Ngoài việc trùng tu tổ đình Hội Sơn, Hòa thượng còn trùng tu và xây mới một số hạng mục kiến trúc quan trọng tại chùa Ấn Quang như chúng ta thấy hiện nay, bao gồm Tổ đường, trai đường và thư viện (2006), tháp thờ Xá-lợi và các bậc tiền bối hữu công (2009), Nhà Văn hóa và phòng phát hành của tổ đình Ấn Quang (2011).

Dưới sự hướng dẫn tu học của Hòa thượng, Tăng chúng tại tổ đình Ấn Quang và các tự viện nêu trên, ngày càng đông với nhiều tiến bộ giới đức và tuệ đức; Phật tử đến chùa tụng kinh và tu Bát quan trai ngày càng nhiều; tổ đình Ấn Quang - ngôi di tích lịch sử ngày càng rạng rỡ với vai trò là trụ sở của Phật giáo TP.HCM và ngôi chùa tiêu biểu của các Phật sự (hoằng pháp, giáo dục, văn hóa và từ thiện) tại TP.HCM.

Trong suốt cuộc đời tu hành và hóa đạo, dù ở cương vị nào, Hòa thượng luôn luôn thể hiện tâm đức của người con Phật, hành trì Giới Định Tuệ, chú tâm tỉnh giác, phụng sự Tam bảo, tiếp độ quần sinh. Thường nhật, Hòa thượng rất cẩn ngôn, nếu phải nói thì Hòa thượng chỉ dạy bảo những công việc cần làm. Với hơi thở chánh niệm và nụ cười an nhiên, Hòa thượng làm cho các mối quan hệ giao tiếp trở nên gần gũi, thân thiện. Tăng Ni, Phật tử luôn cung kính nếp sống phẩm hạnh của Ngài. Có đôi lúc, Hòa thượng thầm lặng tư duy, kiên định lập trường, tìm những phương pháp thích hợp, góp ý chỉ đạo, hiện đại hóa phương thức hành chánh Giáo hội. Hòa thượng rất tâm đắc câu nói của cố Hòa thượng Thích Trí Thủ và xem đó như là kim chỉ nam trong đời sống tu học của mình “Những gì tôi làm cho Đạo pháp tức là làm cho Dân tộc. Những gì tôi làm cho Dân tộc tức là làm cho Đạo pháp”. Trọn đời tu và làm Phật sự, Hòa thượng đã thực hành theo phương châm này.

IV. Tuyên dương công đức

Để ghi nhận và trân quý những công đức cao quý mà Hòa thượng đã đóng góp cho Phật giáo và dân tộc trong 50 năm dấn thân phụng sự, lãnh đạo GHPGVN và Nhà nước đã trao tặng Hòa thượng nhiều bằng tuyên dương công đức và bằng khen. Điển hình như: Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, Bằng khen của Ban Tôn giáo Chính phủ, Bằng khen của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Bằng khen của Ủy ban Nhân dân TP.HCM, Bằng khen của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP.HCM; Bằng tuyên dương công đức của Chủ tịch Hội đồng Trị sự GHPGVN, Bằng tuyên dương công đức của Trưởng ban Trị sự GHPGVN TP.HCM và nhiều bằng khen khác.

V. Thời kỳ viên tịch

“Sinh trụ dị diệt” và “thành trụ hoại không” là chân lý vĩnh hằng của các pháp hữu vi. Gần bốn tháng cuối đời, thân tứ đại của Hòa thượng bị bệnh duyên chi phối. Khi bệnh duyên càng tăng, Hòa thượng càng nhiếp phục các khổ thọ, làm chủ thân và tâm, không sợ hãi bệnh tật và cái chết. Mỗi ngày, Hòa thượng vẫn lắng nghe lời kinh tiếng kệ, tay lần chuỗi niệm Phật, chú tâm tỉnh giác trước sự mòn mỏi của huyễn thân tứ đại.

Thời khắc vô thường, sanh thân đã tận, mọi việc đã thành, công đức hóa duyên viên mãn, Hòa thượng đã an nhiên thâu thần viên tịch tại tổ đình Ấn Quang vào lúc 14 giờ 45 phút, ngày 30 tháng 8 năm 2013 (nhằm 24 tháng 7 năm Quý Tỵ), trụ thế 74 năm, trải qua 50 mùa an cư kiết hạ. Công đức tu hành, giới hạnh thanh cao, phụng sự Phật pháp với tâm vô ngã và lòng vị tha, sự nhập diệt của Hòa thượng đã để lại trong tâm của chư tôn đức pháp lữ, môn đồ tứ chúng, Tăng Ni, Phật tử trong và ngoài nước niềm kính thương vô hạn.

 Phụng vì Ấn Quang đường thượng, tự Lâm tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế,

Húy thượng NHẬT hạ QUANG, tự THIỆN TRÍ, hiệu MINH QUANG

Giác linh Hòa thượng thùy từ chứng giám.

BAN TỔ CHỨC TANG LỄ

Bao Hiem BSH
» Video
» Ảnh đẹp
» Từ điển Online
Từ cần tra:
Tra theo từ điển:
» Âm lịch