Tôi nghe như vầy:
Một thời gian Phật ở tại nước Câu-lưu-sa, trú xứ Kiếp-ma-sa, cùng với chúng Đại Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi 1. 250 người.
Bấy giờ, A-nan ở tại chỗ thanh vắng suy nghĩ: “Kỳ diệu thay! Hy hữu
thay! Ánh sáng của mười hai nhân duyên mà ĐÐức Thế Tôn đã dạy thật là
sâu xa, khó hiểu! Nhưng theo ý ta quán xét thì như thấy ở trước mắt, có
gì mà gọi là sâu xa?”
Rồi thì, A-nan liền rời khỏi tịnh thất đi đến chỗ Phật; đầu mặt lễ chân Phật, rồi ngồi sang một bên, bạch Thế Tôn rằng:
“Vừa rồi, ở nơi tịnh thất, con tự thầm nghĩ: Kỳ diệu thay! Hy hữu
thay! Ánh sáng của mười hai nhân duyên mà Ðức Thế Tôn đã dạy thật là sâu
xa, khó hiểu! Nhưng theo ý con quán xét thì như thấy ở trước mắt, có gì
mà gọi là sâu xa?”
Bấy giờ, Phật bảo A-nan:
“Thôi, thôi, A-nan! Chớ nói như vậy. Ánh sáng của mười hai nhân duyên
rất sâu xa, khó hiểu. Mười hai nhân duyên này khó thấy, khó biết. Chư
Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn, những người chưa thấy duyên, nếu
muốn tư lương, quán sát, phân biệt nghĩa lý của nó, đều bị hoang mê
không thể thấy nổi.
“Này A-nan, nay Ta nói với ngươi: Già chết có duyên. Nếu có người
hỏi: Cái gì là duyên của già chết? Hãy trả lời người ấy: Sanh là duyên
của già chết. Nếu lại hỏi: Cái gì là duyên của sanh. Hãy trả lời: Hữu là
duyên của sanh. Nếu lại hỏi: Cái gì là duyên của hữu? Hãy trả lời: Thủ
là duyên của hữu. Nếu lại hỏi: Cái gì là duyên của thủ? Hãy trả lời: Ái
là duyên của thủ. Nếu lại hỏi: Cái gì là duyên của ái? Hãy trả lời: “Thọ
là duyên của ái. Nếu lại hỏi: “Cái gì là duyên của thọ? Hãy trả lời:
Xúc là duyên của thọ. “Nếu lại hỏi: “Cái gì là duyên của xúc? Hãy trả
lời: Lục nhập là duyên của xúc. Nếu lại hỏi: “Cái gì là duyên của lục
nhập? Hãy trả lời: “Danh sắc là duyên của lục nhập. Nếu lại hỏi: Cái gì
là duyên của danh sắc? Hãy trả lời: “Thức là duyên của danh sắc.. “Nếu
lại hỏi: “Cái gì là duyên của thức? Hãy trả lời: “Hành là duyên của
thức.. Nếu lại hỏi: “Cái gì là duyên của hành? Hãy trả lời: Vô minh là
duyên của hành.
“Này A-nan, như vậy duyên vô minh có hành, duyên hành có thức, duyên
thức có danh sắc, duyên danh sắc có lục nhập, duyên lục nhập có xúc,
duyên xúc có thọ, duyên thọ có ái, duyên ái có thủ, duyên thủ có hữu,
duyên hữu có sanh, duyên sanh có già chết, lo, rầu, khổ não, tập thành
một khối đại hoạn. Đó là duyên của cái đại khổ ấm vậy.
“Này A-nan, duyên sanh có già chết: điều này có ý nghĩa gì? Giả sử hết thảy chúng sanh không có sanh, thì có già chết không?”
“A-nan đáp: “Không”.
“Vậy nên, A-nan, Ta do lẽ đó, biết già chết do sanh, duyên sanh có già chết, nghĩa của Ta nói thế đó.
“Lại nữa, này A-nan, duyên hữu mà có sanh là nghĩa thế nào? Giả sử
hết thảy chúng sanh không có dục hữu, sắc hữu, vô sắc hữu, thế thì có
sanh không?”
Đáp: “Không”.
“Này A-nan, Ta do lẽ đó, biết sanh do hữu, duyên hữu có sanh. Điều mà Ta nói, ý nghĩa là ở đó.
“Lại nữa, này A-nan, duyên thủ mà có hữu là nghĩa thế nào? Giả sử hết
thảy chúng sanh không có dục thủ, kiến thủ, giới thủ, ngã thủ, thế thì
có hữu không?”
Đáp: “Không”.
“Này A-nan, Ta do lẽ đó, biết hữu do thủ, duyên thủ có hữu. Nghĩa của Ta nói tại đó.
“Lại nữa, này A-nan, duyên ái mà có thủ là nghĩa thế nào? Giả sử hết
thảy chúng sanh không có dục ái, hữu ái, vô hữu ái, thế thì có thủ
không?”
Đáp: “Không”.
“Này A-nan, Ta do lẽ đó, biết thủ do ái, duyên ái có thủ. Nghĩa của Ta nói tại đó.
“Lại nữa, này A-nan, duyên thọ mà có ái, là nghĩa thế nào? Giả sử hết
thảy chúng sanh không có cảm thọ lạc, cảm thọ khổ, cảm thọ không lạc
không khổ, thế thì có ái không?”
Đáp: “Không”.
“Này A-nan, Ta do lẽ đó, biết ái do thọ, duyên thọ có ái. Nghĩa của Ta nói tại đó.
“A-nan, nên biết, nhân tham ái mà có tìm cầu, nhân tìm cầu mà đắc
lợi, nhân đắc lợi mà thọ dụng, nhân thọ dụng mà tham muốn, nhân tham
muốn mà đắm trước, nhân đắm trước mà tật đố, nhân tật đố mà quản thủ,
nhân quản thủ mà bảo hộ. Này A-nan! Do bảo hộ nên mới có dao gậy, tranh
cãi, gây vô số điều ác. Nghĩa của ta nói là ở đó. Này A-nan! Nghĩa đó
thế nào? Giả sử hết thảy chúng sanh không bảo hộ thế thì có dao gậy,
tranh cãi, gây ra vô số ác không?”
Đáp: “Không”.
“Này A-nan, Ta do lẽ đó, biết dao gậy, tranh cãi là do tâm bảo hộ,
nhân tâm bảo hộ mà sinh ra. Nghĩa của Ta nói là ở đó. Lại này A-nan,
nhân quản thủ mà có bảo hộ là nghĩa thế nào? Giả sử chúng sanh không tâm
quản thủ thế thì có bảo hộ không?”
Đáp: “Không”.
“Này A-nan! Ta do lẽ đó, biết có bảo hộ là do quản thủ; nhân quản thủ
mà có sự bảo hộ. Nghĩa của Ta nói là ở đó. Lại này A-nan! Nhân tật đố
có quản thủ là nghĩa thế nào? Giả sử chúng sanh không tâm tật đố thế thì
có quản thủ không?”
Đáp: “Không”.
“Này A-nan! Ta do lẽ đó, biết quản thủ do tật đố; nhân tật đố mà có
quản thủ. Nghĩa của ta nói là ở đó. Lại này A-nan! Nhân đắm trước mà có
tật đố là nghĩa thế nào? Giả sử chúng sanh không đắm trước thế thì có
tật đố không?”
Đáp: “Không”.
“Này A-nan! Ta do lẽ đó, biết tật đố do đắm trước; nhân đắm trước mà
có tật đố. Nghĩa của Ta nói là ở đó. Lại này A-nan! Nhân ham muốn mà có
đắm trước là nghĩa thế nào? Giả sử chúng sanh không ham muốn thế thì có
đắm trước không?”
Đáp: “Không”.
“Này A-nan! Ta do lẽ đó, biết đắm trước do ham muốn; nhân ham muốn mà
có đắm trước. Nghĩa của Ta nói là ở đó. Lại này A-nan! Nhân thọ dụng mà
có ham muốn là nghĩa thế nào? Giả sử chúng sanh không thọ dụng thế thì
có ham muốn không?”
Đáp: “Không”.
“Này A-nan! Ta do lẽ đó, biết ham muốn do thọ dụng; nhân thọ dụng mà
có ham muốn. Nghĩa của Ta nói là ở đó. Lại này A-nan! Nhân đắc lợi mà có
thọ dụng là nghĩa thế nào? Giả sử chúng sanh không đắc lợi thế thì có
thọ dụng không?”
Đáp: “Không”.
“Này A-nan! Ta do lẽ đó, biết thọ dụng do đắc lợi; nhân đắc lợi mà có
thọ dụng. Nghĩa của Ta nói là ở đó. Lại này A-nan! Nhân tìm cầu mà có
đắc lợi là nghĩa thế nào? Giả sử chúng sanh không tìm cầu thế thì có đắc
lợi không?”
Đáp: “Không”.
“Này A-nan! Ta do lẽ đó, biết đắc lợi do tìm cầu; nhân tìm cầu mà có
đắc lợi. Nghĩa của Ta nói là ở đó. Lại này A-nan! Nhân tham ái mà có tìm
cầu là nghĩa thế nào? Giả sử chúng sanh không tham ái thế thì có tìm
cầu không?
Đáp: “Không”.
“Này A-nan! Ta do lẽ đó, biết tìm cầu do tham ái; nhân tham ái mà có tìm cầu. Điều mà Ta nói, ý nghĩa là ở đó”.”
Lại bảo A-nan:
“Nhân tham ái mà có tìm cầu, cho đến có thủ hộ. Thọ cũng vậy. Nhân thọ có tìm cầu, cho đến thủ hộ”.”
Phật lại bảo A-nan:
“Duyên xúc mà có thọ, là nghĩa thế nào? Giả sử không có con mắt, không có sắc, không có thức con mắt, thế thì có xúc không?”
Đáp: “Không”.
“Nếu không có tai, không có tiếng, không có thức của tai; không có
mũi, không có hương, không có thức của mũi; không có lưỡi, không có vị,
không có thức của lưỡi; không có thân, xúc, thức của thân; không có ý,
pháp, ý thức, thế thì có xúc không?”
Đáp: “Không”.
“Này A-nan! Giả sử chúng sanh không có xúc, thế thì có thọ không?”
Đáp: “Không”.
“A-nan, Ta do nghĩa đó, biết thọ do xúc; duyên xúc mà có thọ. Điều mà Ta nói, ý nghĩa là ở đó.
“Này A-nan! Duyên danh sắc mà có xúc, là nghĩa thế nào? Giả sử chúng sanh không có danh sắc, thế thì có tâm xúc không?”
Đáp: “Không”.
“Nếu chúng sanh không có hình sắc, tướng mạo, thế thì có thân xúc không? “”
Đáp: “Không”.
“Nếu không có danh sắc, thế thì có xúc không?”
Đáp: “Không”.
“A-nan, Ta do lẽ đó, biết xúc do danh sắc; duyên danh sắc mà có xúc. Điều mà Ta nói, ý nghĩa là ở đó.
“Này A-nan, duyên thức mà có danh sắc, là nghĩa thế nào? Nếu thức không nhập thai mẹ thì có danh sắc không?”
Đáp: “Không”.
“Nếu thức nhập thai mẹ rồi không sinh ra, thế thì có danh sắc không?”
Đáp: “Không”.
“Nếu thức ra khỏi thai mẹ mà đứa hài nhi bị hỏng thì danh sắc có được tăng trưởng không?”
Đáp: “Không”.
“A-nan, nếu không có thức, thế thì có danh sắc không?”
Đáp: “Không”.
“A-nan, Ta do lẽ đó, biết danh sắc do thức; duyên thức mà có danh sắc. Nghĩa của ta nói là ở đó.
“A-nan, duyên danh sắc có thức là nghĩa thế nào? Nếu thức không trụ
nơi danh sắc thời thức không có trú xứ. Nếu thức không có trú xứ, thế
thì có sanh, già, bệnh, chết, ưu bi khổ não không?”
Đáp: “Không”.
“Này A-nan, nếu không danh sắc thì có thức không?”
Đáp: “Không”.
“A-nan, Ta do lẽ đó, biết thức do danh sắc; duyên danh sắc mà có
thức. Nghĩa của Ta nói là ở đó. Vậy nên, danh sắc duyên thức, thức duyên
danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ,
thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên
già chết, ưu bi khổ não, tập thành một đại khổ ấm.
“Này A-nan, trong giới hạn ấy là ngôn ngữ, trong giới hạn ấy là sự
thích ứng, trong giới hạn ấy là hạn lượng, trong giới hạn ấy là sự phô
diễn, trong giới hạn ấy là trí quán, trong giới hạn ấy là chúng sanh.
“Này A-nan, các Tỳ-kheo nào ở trong pháp này mà như thật chánh quán,
với tâm giải thoát vô lậu, Tỳ-kheo ấy được gọi là tuệ giải thoát. Đối
với Tỳ-kheo giải thoát như vậy, Như Lai chung tuyệt cũng được biết, Như
Lai không chung tuyệt cũng được biết, Như Lai vừa chung tuyệt vừa không
chung tuyệt cũng được biết, Như Lai chẳng phải chung tuyệt chẳng phải
không chung tuyệt cũng được biết. Vì sao? Này A-nan, trong giới hạn ấy
là ngôn ngữ, trong giới hạn ấy là sự thích ứng, trong giới hạn ấy là hạn
lượng, trong giới hạn ấy là sự phô diễn, trong giới hạn ấy là trí quán,
trong giới hạn ấy là chúng sanh. Sau khi đã hiểu biết tận cùng, Tỳ-kheo
với tâm giải thoát vô lậu không biết không thấy tri kiến như vậy.
“Này A-nan, đối với những người chấp ngã, cho đến mức nào thì được gọi là ngã kiến? Danh sắc và thọ đều được chấp là ngã.
“Có người nói, thọ không phải ngã; ngã là thọ. Có người nói, thọ
không phải ngã, ngã không phải thọ; nhưng thọ pháp là ngã. Có người nói,
thọ không phải ngã, ngã không phải thọ, thọ pháp không phải ngã; nhưng
thọ là ngã..
“Này A-nan, đối với người thấy có ngã, nói rằng thọ là ngã”, hãy nói
với người ấỵ: Như Lai nói có ba thọ là cảm thọ lạc, cảm thọ khổ, cảm thọ
không lạc không khổ. Trong lúc hiện hữu thọ lạc thì không có thọ khổ,
thọ không lạc không khổ. Trong khi hiện hữu thọ khổ thì không có thọ
lạc, thọ không lạc không khổ. Trong lúc hiện hữu thọ không lạc không khổ
thì không có thọ lạc, thọ khổ. Sở dĩ như vậy, A-nan, là vì do duyên là
cảm xúc lạc mà phát sanh thọ lạc. Nếu cảm xúc lạc diệt mất, thì cảm thọ
lạc cũng diệt mất. A-nan, do duyên là cảm xúc khổ mà phát sinh cảm thọ
khổ. Nếu cảm xúc khổ diệt mất thì cảm thọ khổ cũng diệt mất. Này A-nan,
do duyên là cảm xúc không lạc không khổ mà phát sanh thọ không lạc không
khổ. Nếu cảm xúc không lạc không khổ diệt mất thì cảm thọ không
lạc không khổ cũng diệt mất. A-nan, ví như hai khúc cây cọ lại với nhau
thì lửa bật ra, hai khúc cây rời nhau thì lửa không có. Ở đây cũng vậy,
nhân bởi duyên là cảm xúc lạc mà cảm thọ lạc phát sanh; nếu cảm xúc lạc
diệt thì cảm thọ cũng đồng thời diệt. Nhân bởi duyên là cảm xúc khổ mà
cảm thọ khổ phát sanh; nếu cảm xúc khổ diệt thì thọ cũng đồng thời diệt.
Nhân bởi duyên là cảm xúc không lạc không khổ mà cảm thọ không lạc
không khổ phát sanh; nếu cảm xúc không lạc không khổ diệt thì thọ cũng
đồng thời diệt. Này A-nan! Ba thọ đó là hữu vi, vô thường, do nhân duyên
sanh, là pháp phải tận, phải diệt, là pháp hủ hoại, nó chẳng phải sở
hữu của ngã; ngã không phải là sở hữu của nó. Hãy chánh quán điều đó một
cách như thật với chánh trí. A-nan, ai thấy có ngã, cho rằng thọ là
ngã, người ấy sai lầm.
“A-nan, với những ai thấy có ngã, nói rằng, thọ không phải là ngã;
ngã là thọ, hãy nói với người ấy rằng: Như Lai nói có ba thọ: thọ khổ,
thọ lạc, thọ không khổ không lạc. Nếu thọ lạc là ngã; khi thọ lạc diệt
mất, sẽ có hai ngã. Điều ấy sai lầm. Nếu thọ khổ là ngã; khi thọ khổ
diệt mất thì sẽ có hai ngã. Điều ấy sai lầm. Nếu thọ không lạc không khổ
là ngã; khi thọ không lạc không khổ diệt, thì sẽ có hai ngã. Điều ấy
sai lầm. A-nan, những ai thấy có ngã, nói rằng thọ không phải là ngã;
ngã là thọ, người ấy sai lầm.
“A-nan, với những ai chủ trương có ngã, nói rằng: Thọ không phải là
ngã, ngã không phải là thọ; thọ pháp là ngã, hãy nói với người ấy rằng:
Hết thảy không thọ, làm sao ông nói được có thọ pháp. Ông là thọ pháp
chăng?? Đáp: Không phải.
“Vì vậy, A-nan, những ai chủ trương có ngã, nói rằng: thọ không phải
là ngã, ngã không phải là thọ; thọ pháp là ngã, người ấy sai lầm.
“A-nan, với những ai chủ trương có ngã, nói rằng: thọ không phải là
ngã, thọ pháp không phải là ngã; nhưng thọ là ngã “, nên nói với người
ấy: Hết thảy không có thọ, làm sao có thọ. Ông chính là thọ chăng? Đáp:
Không phải. Vì vậy, A-nan, những ai chủ trương có ngã, nói rằng: thọ
không phải là ngã, ngã không phải là thọ, thọ pháp không phải là ngã;
thọ là ngã, người ấy sai lầm.
“A-nan, trong giới hạn ấy là ngôn ngữ; trong giới hạn ấy là sự thích
ứng; trong giới hạn ấy là hạn lượng; trong giới hạn ấy là sự phô diễn;
trong giới hạn ấy là trí quán; trong giới hạn ấy là chúng sanh.
“A-nan, các Tỳ-kheo ở trong pháp này mà như thật chánh quán, với tâm
giải thoát vô lậu, A-nan, Tỳ-kheo ấy được gọi là tuệ giải thoát. Với
Tỳ-kheo tâm giải thoát như vậy, có ngã cũng được biết, không có ngã cũng
được biết, vừa có ngã vừa không có ngã cũng được biết, không phải có
ngã không phải không có ngã cũng được biết. Vì sao? Này A-nan, trong
giới hạn ấy là ngôn ngữ; trong giới hạn ấy là sự thích ứng; trong giớói
hạn ấy là hạn lượng; trong giới hạn ấy là sự phô diễn; trong giới hạn ấy
là trí quán; trong giới hạn ấy là chúng sanh. Sau khi biết rõ thấu suốt
như vậy, Tỳ-kheo với tâm giải thoát vô lậu không biết không thấy tri
kiến như vậy”.”
Phật nói A-nan:
“Với những người chủ trương có ngã, cho đến giới hạn nào thì được xác định?”
“Với những người chủ trương có ngã, hoặc nói: Một ít sắc là ngã ;
hoặc nói: Phần lớn sắc là ngã; hoặc nói: Một ít vô sắc là ngã; hoặc nói:
Phần lớn vô sắc là ngã.
“A-nan, những người nói một ít sắc là ngã, xác định chỉ một ít sắc là
ngã; sở kiến của ta là đúng, ngoài ra đều sai. Những người nói phần lớn
sắc là ngã, xác định phần lớn sắc là ngã; sở kiến của ta là đúng, ngoài
ra đều sai. Những người nói một ít vô sắc là ngã, xác định chỉ một ít
vô sắc là ngã; sở kiến của ta là đúng, ngoài ra đều sai. Những người nói
phần lớn vô sắc là ngã, xác định phần lớn vô sắc là ngã; sở kiến của ta
là đúng, ngoài ra đều sai”.”
Phật nói với A-nan:
“Có bảy trú xứ của thức và hai nhập xứ, mà các Sa-môn, Bà-la-môn nói:
Chỗ này là nơi an ổn, nơi cứu vớt, nơi hộ trì; là cái nhà, là ngọn đèn,
là ánh sáng, là nơi qui tựa, là không hư dối, là không phiền não.
“Những gì là bảy? Hoặc có hạng chúng sanh, với nhiều thân khác nhau
và nhiều tưởng khác nhau, tức chư Thiên và loài Người. Đó là trú xứ thứ
nhất của thức, mà các Sa-môn, Bà-la-môn nói: Chỗ này là nơi an ổn, nơi
cứu vớt, nơi hộ trì; là cái nhà, là ngọn đèn, là ánh sáng, là nơi qui
tựa, là không hư dối, là không phiền não. Này A-nan, nếu Tỳ-kheo biết
trú xứ thứ nhất của thức, biết sự tập khởi, biết sự diệt trừ, biết vị
ngọt, biết sự tai hại, biết sự xuất ly, biết một cách như thật; A-nan,
Tỳ-kheo ấy nói: Cái ấy không phải là ta. Ta không phải là cái ấy với tri
kiến như thật.
“Hoặc có hạng chúng sanh với thân đồng nhất nhưng với nhiều tưởng
khác nhau, như trời Quang âm. Hoặc có hạng chúng sanh với thân đồng
nhất, tưởng đồng nhất, tức trời Biến tịnh. Hoặc có hạng chúng sanh trú
nơi Không xứ. Hoặc có hạng chúng sanh trú nơi Thức xứ. Hoặc có hạng
chúng sanh trú nơi Vô sở hữu xứ. Đó là bảy trú xứ của thức mà các
Sa-môn, Bà-la-môn nói: Chỗ này là nơi an ổn, nơi cứu vớt, nơi hộ trì; là
cái nhà, là ngọn đèn, là ánh sáng, là nơi qui tựa, là không hư dối, là
không phiền não. Này A-nan, nếu Tỳ-kheo biết bảy trú xứ của thức, biết
sự tập khởi, biết sự diệt trừ, biết vị ngọt, biết sự tai hại, biết sự
xuất ly, biết một cách như thật; A-nan, Tỳ-kheo ấy nói: Cái ấy không
phải là ta. Ta không phải là cái ấy với tri kiến như thật.
“Thế nào là hai nhập xứ? Vô tưởng nhập và phi tưởng phi vô tưởng
nhập. A-nan, đó là hai nhập xứ mà các Sa-môn, Bà-la-môn nói: Chỗ này là
nơi an ổn, nơi cứu vớt, nơi hộ trì; là cái nhà, là ngọn đèn, là ánh
sáng, là nơi qui tựa, là không hư dối, là không phiền não. Này A-nan,
nếu Tỳ-kheo biết hai nhập xứ, biết sự tập khởi, biết sự diệt trừ, biết
vị ngọt, biết sự tai hại, biết sự xuất ly, biết một cách như thật;
A-nan, Tỳ-kheo ấy nói: Cái ấy không phải là ta. Ta không phải là cái ấy
với tri kiến như thật”.
“A-nan, lại có tám giải thoát. Những gì là tám? Có sắc, quán sắc là
giải thoát thứ nhất. Bên trong có sắc tưởng, quán ngoại sắc là giải
thoát thứ hai. Tịnh giải thoát: là giải thoát thứ ba. Vượt sắc tưởng,
diệt hữu đối tưởng, không niệm tạp tưởng, an trú Không xứ là giải thoát
thứ tư. Vượt Không xứ, an trú Thức xứ là giải thoát thứ năm. Vượt thức
xứ, an trú Vô sở hữu xứ là giải thoát thứ sáu. Vượt Vô sở hữu xứ, an trú
Phi tưởng phi phi tưởng xứ là giải thoát thứ bảy. Diệt tận định là giải
thoát thứ tám. A-nan, các Tỳ-kheo đối với tám giải thoát này du hành
theo chiều thuận và nghịch, xuất nhập tự tại, Tỳ-kheo như vậy chứng đắc
Câu giải thoát."”
Bấy giờ, A-nan sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-