Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật trú tại La-duyệt-kỳ, trong vườn Am-bà của Kỳ Cựu đồng tử, cùng với Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi người.
Bấy giờ, A-xà-thế, con trai bà Vi-đề-hi, vào ngày rằm, lúc trăng tròn, sai gọi một phu nhân đến, bảo rằng:
“Đêm nay trong sáng không khác gì ban ngày. Ta nên làm gì?”
Phu nhân tâu:
“Đêm nay rằm trăng tròn, như ban ngày không khác. Nên tắm gội sạch sẽ, cùng các thể nữ hưởng thụ ngũ dục.”
Vua lại lệnh gọi thái tử thứ nhất là Ưu-da-bà-đà đến hỏi:
“Đêm nay rằm trăng tròn, không khác gì ban ngày. Ta nên làm gì?”
Thái tử tâu:
“Đêm nay rằm trăng tròn, như ban ngày không khác. Nên tập họp bốn thứ
quân, cùng bàn mưu chinh phạt phản nghịch biên cương, sau đó trở về
cùng hưởng thụ dục lạc.”
Vua lại ra lệnh triệu đại tướng Dũng Kiện đến hỏi:
“Nay ngày rằm trăng tròn, đêm sáng trong không khác gì ban ngày. Ta nên làm gì?”
Đại tướng tâu:
“Đêm nay trong sáng, không khác gì ban ngày, nên tập họp bốn thứ quân, đi tra xét thiên hạ để biết có sự thuận hay nghịch.”
Vua lại sai triệu Bà-la-môn Vũ-xá đến hỏi:
“Nay ngày rằm trăng tròn, đêm sáng trong không khác gì ban ngày. Ta nên đến Sa-môn, Bà-la-môn nào, để có thể khai ngộ tâm ta?”
Khi ấy Vũ-xá tâu vua:
“Đêm nay trong sáng, không khác ban ngày. Có Bất-lan Ca-diệp, là
người lãnh đạo, đứng đầu chúng lớn, được nhiều người biết đến, tiếng tăm
đồn xa, cũng như biển cả dung nạp được nhiều, được mọi người cúng
dường. Đại vương, nên đến kia thăm viếng. Nếu Đại vương gặp vị ấy, hoặc
giả tâm được khai ngộ.”
“Vua lại lệnh gọi em Vũ-xá là Tu-ni-đà đến hỏi: “Nay ngày rằm trăng
tròn, đêm sáng trong không khác gì ban ngày. Ta nên đến Sa-môn,
Bà-la-môn nào, để có thể khai ngộ tâm ta?”
Khi ấy Tu-ni-đà tâu vua:
“Đêm nay trong sáng, không khác ban ngày. Có Mạt-già-lê Cù-xá-lê, là
người lãnh đạo, đứng đầu chúng lớn, được nhiều người biết đến, tiếng tăm
đồn xa, cũng như biển cả dung nạp được nhiều, được mọi người cúng
dường. Đại vương, nên đến kia thăm viếng. Nếu Đại vương gặp vị ấy, hoặc
giả tâm được khai ngộ.”
Vua lại sai triệu Điển tác đại thần đến hỏi:
“Nay ngày rằm trăng tròn, đêm sáng trong không khác gì ban ngày. Ta nên đến Sa-môn, Bà-la-môn nào, để có thể khai ngộ tâm ta?”
Khi ấy Điển tác đại thần tâu vua:
“Đêm nay trong sáng, không khác ban ngày. Có A-kỳ-đa
Sí-xá-khâm-bà-la, là người lãnh đạo, đứng đầu chúng lớn, được nhiều
người biết đến, tiếng tăm đồn xa, cũng như biển cả dung nạp được nhiều,
được mọi người cúng dường. Đại vương, nên đến kia thăm viếng. Nếu Đại
vương gặp vị ấy, hoặc giả tâm được khai ngộ.”
Vua lại sai triệu tướng thủ thành môn là Già-la đến hỏi:
“Nay ngày rằm trăng tròn, đêm sáng trong không khác gì ban ngày. Ta nên đến Sa-môn, Bà-la-môn nào, để có thể khai ngộ tâm ta?”
Khi ấy tướng thủ thành môn là Già-la tâu vua:
“Đêm nay trong sáng, không khác ban ngày. Có Bà-phù-đà Già-chiên-na,
là người lãnh đạo, đứng đầu chúng lớn, được nhiều người biết đến, tiếng
tăm đồn xa, cũng như biển cả dung nạp được nhiều, được mọi người cúng
dường. Đại vương, nên đến kia thăm viếng. Nếu Đại vương gặp vị ấy, hoặc
giả tâm được khai ngộ.”
Vua lại sai triệu Ưu-đà-di Mạn-đề Tử đến hỏi:
“Nay ngày rằm trăng tròn, đêm sáng trong không khác gì ban ngày. Ta nên đến Sa-môn, Bà-la-môn nào, để có thể khai ngộ tâm ta?”
Khi ấy Ưu-đà-di tâu vua:
“Đêm nay trong sáng, không khác ban ngày. Có Tán-nhã-di
Tỳ-la-lê-phất, là người lãnh đạo, đứng đầu chúng lớn, được nhiều người
biết đến, tiếng tăm đồn xa, cũng như biển cả dung nạp được nhiều, được
mọi người cúng dường. Đại vương, nên đến kia thăm viếng. Nếu Đại vương
gặp vị ấy, hoặc giả tâm được khai ngộ.”
Vua lại sai triệu em là Vô Úy đến hỏi:
“Nay ngày rằm trăng tròn, đêm sáng trong không khác gì ban ngày. Ta nên đến Sa-môn, Bà-la-môn nào, để có thể khai ngộ tâm ta?”
Khi ấy Vô Úy tâu vua:
“Đêm nay trong sáng, không khác ban ngày. Có Ni-kiền Tử, là người
lãnh đạo, đứng đầu chúng lớn, được nhiều người biết đến, tiếng tăm đồn
xa, cũng như biển cả dung nạp được nhiều, được mọi người cúng dường. Đại
vương, nên đến kia thăm viếng. Nếu Đại vương gặp vị ấy, hoặc giả tâm
được khai ngộ.”
Vua lại sai triệu Thọ Mạng đồng tử đến hỏi:
“Nay ngày rằm trăng tròn, đêm sáng trong không khác gì ban ngày. Ta nên đến Sa-môn, Bà-la-môn nào, để có thể khai ngộ tâm ta?”
Thọ Mạng đồng tử tâu:
“Có Phật, Thế Tôn, nay đang ở trong vườn xoài của tôi. Đại vương nên đến đó thăm hỏi. Nếu Đại vương gặp Phật, tâm tất khai ngộ.”
Vua bèn sắc lệnh Thọ Mạng:
“Hãy thắng kiệu con voi báu mà ta thường cưỡi, cùng với năm trăm thớt voi trắng.”
Thọ Mạng vâng lệnh, cho trang nghiêm con voi của vua cùng với năm trăm thớt voi xong, tâu vua rằng:
“Xa giá đã trang nghiêm. Xin Đại vương biết thời.”
A-xà-thế tự mình cưỡi voi báu; cho năm trăm phu nhân cưỡi năm trăm
voi cái, tay mỗi người đều cầm một bó đuốc, thể hiện uy nghi của vua, ra
khỏi La-duyệt-kỳ, chậm rãi tiến đi trên con đường hướng đến chỗ Phật.
Vua bảo Thọ Mạng:
“Ngươi nay gạt ta, hãm hại ta, dẫn ta và đại chúng đến cho kẻ thù.”
Thọ Mạng tâu:
“Đại vương, thần không dám lừa dối Đại vương. Không dám hãm hại Đại
vương, dẫn Đại vương và đại chúng đến cho kẻ thù. Đại vương cứ tiến về
phía trước, tất thu hoạch được phúc khánh.”
Rồi thì, tiến tới một quãng ngắn, vua lại bảo Thọ Mạng:
“Ngươi nay gạt ta, hãm hại ta, dẫn ta và đại chúng đến cho kẻ thù.”
Vua nói ba lần như vậy.
“Vì sao? Kia có một ngàn hai trăm năm mươi người, nhưng lại vắng lặng không tiếng động. Hẳn là có âm mưu rồi.”
Thọ Mạng ba lần tâu:
“Đại vương, thần không dám lừa dối Đại vương. Không dám hãm hại Đại
vương, dẫn Đại vương và đại chúng đến cho kẻ thù. Đại vương cứ tiến về
phía trước, tất thu hoạch được phúc khánh. Vì sao? Sa-môn kia theo pháp
thường ưa sự thanh vắng, do đó không có tiếng động. Đại vương cứ tiến
tới. Khu vườn đã xuất hiện.”
Vua A-xà-thế đi đến cổng vườn, xuống voi, giải kiếm, cất lọng, dẹp bỏ năm thứ uy nghi, bước vào cổng vườn, nói với Thọ Mạng:
“Phật, Thế Tôn đang ở đâu?”
Thọ Mạng trả lời:
“Đại vương, Phật đang ở trên cao đường kia, phía trước Ngài có ngọn
đèn. Thế Tôn ngồi trên tòa sư tử, mặt hướng về phía Nam. Đại vương đi
tới một chút, tự mình gặp Thế Tôn.”
Bấy giờ, A-xà-thế đi đến chỗ giảng đường, rửa chân ở bên ngoài, sau
đó mới bước lên giảng đường, im lặng nhìn bốn phía, sanh tâm hoan hỷ,
miệng tự phát lên lời:
“Nay các Sa-môn yên tĩnh lặng thinh, đầy đủ chỉ quán. Mong sao thái
tử Ưu-đà-di của tôi cũng chỉ quán thành tựu, như thế này không khác.”
Khi ấy, Phật nói với vua A-xà-thế:
“Đại vương nghĩ đến con, nên từ miệng mình phát ra lời: Mong sao thái
tử Ưu-đà-di cũng chỉ quán thành tựu như vậy không khác. Đại vương hãy
ngồi phía trước đó.”
A-xà-thế bèn đảnh lễ Phật, rồi ngồi sang một bên, bạch Phật rằng:
“Nay có điều muốn hỏi, nếu Ngài có rảnh, tôi mới dám hỏi.”
Phật nói:
“Đại vương, có điều gì muốn hỏi, xin cứ hỏi.”
A-xà-thế bạch Phật:
“Thế Tôn, như nay người cưỡi voi, xe ngựa, tập luyện đao, mâu, kiếm,
cung tên, binh khí, phép chiến đấu; vương tử, lực sĩ, đại lực sĩ, tôi
tớ, thợ da, thợ hớt tóc, thợ bện tóc, thợ đóng xe, thợ gốm, thợ đan, thợ
dệt cói; mỗi người đều sinh sống bằng các kỹ thuật khác nhau, tự mình
hưởng thụ dục lạc; và cùng với cha, mẹ, vợ con, nô bộc vui hưởng lạc
thú. Các nghề nghiệp như vậy đều có quả báo hiện tại. Nay các Sa-môn
hiện tại tu hành, được những quả báo hiện tại gì?”
Phật nói với vua A-xà-thế:
“Đại vương đã từng đến các Sa-môn, Bà-la-môn để hỏi ý nghĩa như vậy chưa?”
Vua bạch Phật:
“Tôi đã từng đi đến các Sa-môn, Bà-la-môn để hỏi ý nghĩa như vậy.
“Nhớ lại, một thời tôi đến Bất-lan Ca-diệp, hỏi rằng: như người cưỡi
voi, xe ngựa, tập luyện binh pháp. cho đến, bằng các sự mưu sinh khác
nhau, hiện tại có quả báo. Nay chúng đây hiện tại tu đạo, hiện tại có
được quả báo không? Bất-lan Ca-diệp kia trả lời tôi rằng: Đại vương nếu
tự mình làm hay sai bảo người khác làm. Chặt, bửa, tàn hại, nấu, nướng,
cắt, xẻ, não loạn chúng sanh, khiến cho sầu ưu, than khóc; sát sanh,
trộm cắp, dâm dật, vọng ngữ, trèo tường cướp bóc, phóng lửa thiêu đốt,
chận đường làm chuyện ác. Đại vương, hành động như vậy không phải là ác.
Đại vương, nếu lấy kiếm bén mà lóc thịt chúng sanh, làm thành một đống
thịt, ngập tràn cả thế gian; đó không phải là sự ác, cũng không tội báo.
Ở bờ Nam sông Hằng, lóc thịt chúng sanh, cũng không có ác báo. Ở
phía Bắc sông Hằng, thiết hội bố thí lớn, bố thí tất cả chúng sanh, lợi
cho tất cả mọi người, cũng không có quả báo của tội phước .”
Rồi vua bạch Phật:
“Cũng như một người hỏi về dưa thì trả lời về mận; hỏi mận thì trả
lời dưa. Kia cũng vậy. Tôi hỏi hiện tại có được quả báo không, nhưng kia
trả lời tôi là không có tội phước. Tôi bèn suy nghĩ rằng: Ta là vua
Quán đảnh dòng Sát-lỵ, không duyên cớ mà lại giết người xuất gia, bắt
trói, đuổi đi. Khi ấy, trong lòng tôi phẫn nộ, suy nghĩ như vậy rồi, bèn
bỏ mà đi .”
Rồi nhà vua lại bạch Phật:
“Nhớ lại, một thời tôi đến Mạt-già-lê Câu-xá-lê, hỏi rằng: như người
cưỡi voi, xe ngựa, tập luyện binh pháp v.v..., cho đến, bằng các sự mưu
sinh khác nhau, hiện tại có quả báo. Nay chúng đây hiện tại tu đạo, hiện
tại có được quả báo không? Kia trả lời tôi rằng: Đại vương, không có bố
thí, không có sự cho, không có pháp tế tự . Cũng không có thiện ác;
không có quả báo của thiện ác. Không có đời này, không có đời sau. Không
có cha, không có mẹ, không có chư Thiên, không có sự hóa sanh, không có
chúng sanh. Ở đời không có Sa-môn, Bà-la-môn, bình đẳng hành giả và họ
cũng không tự mình chứng ngộ đời này hay đời sau, rồi phô diễn cho người
hay. Những ai nói có, thảy đều hư dối.
“Cũng như một người hỏi về dưa thì trả lời về mận; hỏi mận thì trả
lời dưa. Kia cũng vậy. Tôi hỏi hiện tại có được quả báo không, nhưng kia
trả lời bằng thuyết vô nghĩa. Tôi bèn suy nghĩ rằng: Ta là vua Quán
đảnh dòng Sát-lỵ, không duyên cớ mà lại giết người xuất gia, bắt trói,
đuổi đi. Khi ấy, trong lòng tôi phẫn nộ, suy nghĩ như vậy rồi, bèn bỏ mà
đi.”
Rồi nhà vua lại bạch Phật:
“Một thời, tôi đến A-kỳ-đa Sí-xá-khâm-bà-la, hỏi rằng: Đại đức, như
người cưỡi voi, ngựa xe, luyện tập binh pháp, cho đến, các loại mưu sinh
khác nhau, đều có quả báo hiện tại. Nay đây chúng hội này hiện tại tu
đạo, hiện tại có được quả báo không? Kia trả lời tôi rằng: Con người
lãnh thọ bốn đại, khi mạng chung, đất trở về đất, nước trở về nước, lửa
trở về lửa, gió trở về gió; thảy đều hư rã, các căn trở về hư không. Khi
người chết, nhà đồ khiêng xác để trong bãi tha ma, lửa đốt cháy thành
xương như màu bồ câu, hoặc biến thành tro đất. Hoặc ngu, hoặc trí, đến
lúc mạng chung, thảy đều hư rã, là pháp đoạn diệt .
“Cũng như một người hỏi về dưa thì trả lời về mận; hỏi mận thì trả
lời dưa. Kia cũng vậy. Tôi hỏi hiện tại có được quả báo không, nhưng kia
trả lời bằng thuyết đoạn diệt. Tôi bèn suy nghĩ rằng: Ta là vua Quán
đảnh dòng Sát-lỵ, không duyên cớ mà lại giết người xuất gia, bắt trói,
đuổi đi. Khi ấy, trong lòng tôi phẫn nộ, suy nghĩ như vậy rồi, bèn bỏ mà
đi.”
Rồi nhà vua lại bạch Phật:
“Một thời, tôi đến Ba-phù-đà Già-chiên-diên, hỏi rằng: Đại đức, như
người cưỡi voi, ngựa xe, luyện tập binh pháp, cho đến, các loại mưu sinh
khác nhau, đều có quả báo hiện tại. Nay đây chúng hội này hiện tại tu
đạo, hiện tại có được quả báo không? Kia trả lời tôi rằng: Không có lực,
không có tinh tấn, con người không sức mạnh, không phương tiện. Chúng
sanh nhiễm trước không do nhân gì hay duyên gì. Chúng sanh thanh tịnh
không do nhân gì hay duyên gì. Hết thảy chúng sanh, những loài có mạng,
thảy đều không sức mạnh, không được tự tại, không có cái gì được gọi là
oán là thù, ở trong sáu sanh loại mà thọ các khổ hay lạc.
“Cũng như một người hỏi về dưa thì trả lời về mận; hỏi mận thì trả
lời dưa. Kia cũng vậy. Tôi hỏi hiện tại có được quả báo không, nhưng kia
trả lời bằng thuyết Vô lực. Tôi bèn suy nghĩ rằng: Ta là vua Quán đảnh
dòng Sát-, lỵ, không duyên cớ mà lại giết người xuất gia, bắt trói, đuổi
đi. Khi ấy, trong lòng tôi phẫn nộ, suy nghĩ như vậy rồi, bèn bỏ mà
đi.”
Rồi nhà vua lại bạch Phật:
“Một thời, tôi đến Tán-nhã Tỳ-la-lê Tử, hỏi rằng: Đại đức, như người
cưỡi voi, ngựa, xe, luyện tập binh pháp, cho đến, các loại mưu sinh khác
nhau, đều có quả báo hiện tại. Nay đây chúng hội này hiện tại tu đạo,
hiện tại có được quả báo không? Kia trả lời tôi rằng: Đại vương, hiện
tại có quả báo của Sa-môn. Hỏi như vậy, đáp sự việc ấy như vậy. Sự việc
này là thật, sự việc này là khác; sự việc này không phải khác cũng không
phải không khác. Đại vương, hiện tại không có quả báo của Sa-môn. Hỏi
như vậy, đáp sự việc ấy như vậy; sự việc này là thật, sự việc này là
khác; sự việc này không phải khác cũng không phải không khác. Đại vương,
hiện tại vừa có vừa không có quả báo của Sa-môn. Hỏi như vậy, đáp sự
việc ấy như vậy; sự việc này là thật, sự việc này là khác; sự việc
này không phải khác cũng không phải không khác. Đại vương, hiện tại
không phải có cũng không phải không có quả báo của Sa-môn. Hỏi như vậy,
đáp sự việc ấy như vậy; sự việc này là thật, sự việc này là khác; sự
việc này không phải khác cũng không phải không khác. Hỏi như vậy, đáp sự
việc ấy như vậy; sự việc này là thật, sự việc này là khác; sự việc này
không phải khác cũng không phải không khác. Thế Tôn, cũng như một người
hỏi về dưa thì trả lời về mận; hỏi mận thì trả lời dưa. Kia cũng vậy.
Tôi hỏi hiện tại có được quả báo không, nhưng kia trả lời bằng thuyết dị
luận. Tôi bèn suy nghĩ rằng: Ta là vua Quán đảnh dòng Sát-lỵ, không
duyên cớ mà lại giết người xuất gia, bắt trói, đuổi đi. Khi ấy, trong
lòng tôi phẫn nộ, suy nghĩ như vậy rồi, bèn bỏ mà đi.”
Rồi nhà vua lại bạch Phật:
“Một thời, tôi đến Ni-kiền Tử, hỏi rằng: Đại đức, như người cưỡi voi,
ngựa xe, luyện tập binh pháp, cho đến, các loại mưu sinh khác nhau, đều
có quả báo hiện tại. Nay đây chúng hội này hiện tại tu đạo, hiện tại có
được quả báo không? Kia trả lời tôi rằng: Đại vương, tôi là bậc Nhất
thiết trí, là người thấy tất cả, biết thấu suốt không sót. Hoặc đi, hoặc
đứng, hoặc nằm, hoặc ngồi, hoặc ngủ, hoặc thức, bất cứ lúc nào, trí
thường hiện tiền. Thế Tôn, cũng như một người hỏi về dưa thì trả lời về
mận; hỏi mận thì trả lời dưa. Kia cũng vậy. Tôi hỏi hiện tại có được quả
báo không, nhưng kia trả lời bằng thuyết dị luận. Tôi bèn suy nghĩ
rằng: Ta là vua Quán đảnh dòng Sát-lỵ, không duyên cớ mà lại giết người
xuất gia, bắt trói, đuổi đi. Khi ấy, trong lòng tôi phẫn nộ, suy nghĩ
như vậy rồi, bèn bỏ mà đi.
“Thế Tôn, hôm nay tôi đến đây để hỏi ý nghĩa như vầy: như người cưỡi
voi, ngựa xe, luyện tập binh pháp, cho đến, các loại mưu sinh khác nhau,
đều có quả báo hiện tại. Nay đây Sa-môn hiện tại tu đạo, hiện tại có
được quả báo không?”
Phật nói với vua A-xà-thế:
“Nay Ta trở lại hỏi Đại vương, xin tùy ý trả lời. Thế nào, Đại vương,
có đồng bộc của Đại vương, người làm các công việc trong và ngoài, đều
thấy Đại vương vào ngày rằm, lúc trăng tròn, tắm gội sạch sẽ, ở trên
điện cao cùng hưởng thụ dục lạc với các thể nữ, bèn suy nghĩ như vầy: Lạ
thay, quả báo của hành vi đến như thế sao? Vua A-xà-thế này vào ngày
rằm, lúc trăng tròn, tắm gội sạch sẽ, ở trên điện cao cùng hưởng thụ dục
lạc với các thể nữ. Ai có thể biết được đấy lại là quả báo của hành vi?
Người kia, một thời gian sau, cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia
tu đạo, thực hành pháp bình đẳng. Thế nào, Đại vương, Đại vương từ xa
thấy người ấy đi đến, há có khởi lên ý nghĩ rằng: Đấy là nô bộc của ta?”
Vua bạch Phật:
“Không, bạch Thế Tôn. Nếu thấy người ấy đến, phải đứng dậy nghinh đón, mời ngồi.”
Phật nói:
“Đó không phải là Sa-môn được quả báo hiện tại sao?”
Vua đáp: “Đúng như vậy, Thế Tôn, đó là hiện tại được quả báo Sa-môn vậy”.
“Lại nữa, Đại vương, có người khách cư ngụ trong cương giới của Đại
vương, ăn thóc lúa mà Đại vương ban cho. Người ấy thấy Đại vương vào
ngày rằm trăng tròn, tắm gội sạch sẽ, ở trên điện cao cùng các thể nữ
vui thú ngũ dục, bèn nghĩ thầm rằng: Lạ thay, quả báo của hành vi kia
đến như vậy sao? Ai có thể biết đó là quả báo của hành vi? Một thời gian
sau, người ấy cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo, hành bình
đẳng pháp. Thế nào, Đại vương? Nếu Đại vương từ xa thấy người ấy đi
đến, có khởi lên ý nghĩ rằng; Người ấy là khách dân của Ta, ăn thóc lúa
mà Ta ban cho hay không?”
Vua nói: “Không. Nếu tôi thấy người ấy từ xa đến, tôi sẽ đứng dậy nghinh đón, chào hỏi, mời ngồi”.
“Thế nào, Đại vương, đó không phải là Sa-môn hiện tại được quả báo chăng?”
Vua nói: “Đúng như vậy, hiện tại được quả báo của Sa-môn vậy”.
“Lại nữa, Đại vương, Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác xuất hiện ở
đời, vào trong pháp Ta, cho đến tam minh, diệt trừ các tối tăm, phát
sanh ánh sáng đại trí, gọi là lậu tận trí chứng. Vì sao? Ầy là do tinh
cần, chuyên niệm không quên, ưa sống một mình nơi thanh vắng, không
buông lung vậy. Thế nào, Đại vương, đó không phải là quả báo hiện tại
của Sa-môn sao?”
Vua đáp: “Thật vậy, Thế Tôn, đó thật là quả báo hiện tại của Sa-môn”.
Bấy giờ, vua A-xà-thế rời chỗ ngồi đứng dậy, đầu mặt lễ chân Phật, bạch Phật rằng:
“Cúi mong Thế Tôn nhận sự hối hận của con. Con vì cuồng, ngu si, tối
tăm, không nhận thức. Cha con là Bình-sa vương, vua nước Ma-kiệt-đà, cai
trị bằng chánh pháp, không có thiên vạy. Nhưng con bị ngũ dục mê hoặc,
thật sự đã hại phụ vương. Cúi mong Thế Tôn rũ lòng thương xót, nhận sự
sám hối của con.”
Phật bảo vua:
“Ngươi ngu si, không nhận thức. Nhưng đã tự mình hối cải. Ngươi vì mê
say ngũ dục mà hại phụ vương. Nay trong pháp Hiền thánh mà biết hối
cải, tức là tự làm ích lợi cho mình. Ta vì thương tưởng ngươi, nhận sự
sám hối của ngươi.”
Bấy giờ, vua A-xà-thế sau khi lễ Phật, được Phật giảng pháp cho nghe,
được chỉ bày, khuyến khích, làm cho ích lợi, hoan hỷ. Sau khi nghe
những điều Phật dạy, vua liền bạch Phật:
“Con nay quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Xin chấp nhận con là
Ưu-bà-tắc trong Chánh pháp. Từ nay về sau, suốt đời không giết, không
trộm, không dâm, không dối, không uống rượu. Cúi mong Thế Tôn cùng đại
chúng sáng ngày mai nhận lời thỉnh của con.”
Bấy giờ, Thế Tôn im lặng nhận lời. Rồi thì, vua thấy Phật im lặng
nhận lời, liền đứng dậy lễ Phật, đi quanh ba vòng sau đó cáo lui.
Vua đi chưa bao lâu, Phật nói với các Tỳ-kheo rằng:
“Vua A-xà-thế này, tội lỗi đã vơi bớt, đã nhổ trọng tội. Nếu A-xà-thế
không giết cha, thì ngay tại chỗ này đã được con mắt thanh tịnh thấy
pháp. Nhưng vua A-xà-thế nay đã hối lỗi, tội lỗi đã vơi bớt, đã nhổ
trọng tội.”
Bấy giờ, A-xà-thế, đang trên đường đi, gọi Thọ Mạng đồng tử bảo rằng:
“Lành thay, lành thay! Ngươi nay làm được nhiều điều lợi ích cho ta.
Ngươi trước đã tán thán Như Lai, chỉ dẫn, khơi mở, sau đó đưa ta đến gặp
Thế Tôn, nhờ thế ta được khai ngộ. Ta rất cám ơn ngươi, trọn không bao
giờ quên.”
Rồi thì, vua trở về cung sửa soạn các món hào soạn, các loại thức ăn.
Sáng hôm sau, khi đã đến giờ, báo Đức Thánh biết đã đến giờ.
Bấy giờ, Thế Tôn khoác y cầm bát, cùng với chúng đệ tử một ngàn hai
trăm năm mươi người, đi đến vương cung, ngồi trên chỗ ngồi dọn sẵn. Rồi,
vua tự tay châm chước, cúng Phật và Tăng. Ắn xong, cất bát, dùng nước
rửa xong, vua đảnh lễ Phật, bạch rằng:
“Con nay ba lần xin sám hối. Con vì cuồng dại, ngu si, tối tăm, không
nhận thức. Cha con là Bình-sa vương, vua nước Ma-kiệt-đà, cai trị bằng
chánh pháp, không có thiên vạy. Nhưng con vì mê say ngũ dục, thật sự đã
hại phụ vương. Cúi mong Thế Tôn rủ lòng thương xót, nhận sự sám hối của
con.”
Phật bảo vua:
“Ngươi ngu si, không nhận thức. Ngươi vì mê say ngũ dục mà hại phụ
vương. Nay trong pháp Hiền thánh mà biết hối cải, tức là tự làm ích lợi
cho mình. Ta vì thương tưởng ngươi, nhận sự sám hối của ngươi.”
Rồi thì, sau khi đảnh lễ Phật, vua lấy một ghế nhỏ ngồi trước Phật.
Phật giảng pháp cho vua nghe, chỉ bày, khuyến khích, khiến cho được ích
lợi, hoan hỷ. Sau khi nghe Phật dạy, vua lại bạch Phật:
“Con nay ba lần xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Cúi mong nhận
con làm Ưu-bà-tắc trong Chánh pháp. Từ nay cho đến trọn đời, không
giết, không trộm, không tà dâm, không dối, không uống rượu.”
Bấy giờ, Thế Tôn sau khi giảng pháp cho vua nghe, chỉ bày, khuyến
khích, khiến cho được ích lợi, hoan hỷ, bèn rời chỗ ngồi ra về.
Vua A-xà-thế và Thọ Mạng đồng tử sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-