Trường A Hàm Kinh
Hán Dịch: Phật Ðà Da Xá & Trúc Phật Niệm
Việt dịch: Thích Tuệ Sỹ
10/07/2554 14:00 (GMT+7) Kích cỡ chữ:
- PHẨM 01. DIÊM-PHÙ-ÐỀ
- PHẨM 02. UẤT-ÐAN-VIẾT
- PHẨM 03. CHUYỂN LUÂN THÁNH VƯƠNG
- PHẨM 04. ÐỊA NGỤC
- PHẨM 05. LONG ÐIỂU
- PHẨM 06. A-TU-LUÂN
- PHẨM 07. TỨ THIÊN VƯƠNG
- PHẨM 08. ÐAO-LỢI THIÊN
- PHẨM 09. TAM TAI
- PHẨM 10. CHIẾN ÐẤU
- PHẨM 11. BA TRUNG KIẾP
- PHẨM 12. THẾ BẢN DUYÊN
PHẨM 1: CHÂU DIÊM-PHÙ-ÐỀ
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở trong hang Câu-lỵ, rừng Kỳ thọ, vườn Cấp cô độc, cùng với chúng Ðại Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi người.
Bấy giờ, số đông Tỳ-kheo, sau bữa ăn, tập trung trên giảng đường cùng bàn luận rằng:
“Chư Hiền! Thật chưa từng có, nay đây trời đất này do đâu mà tan
hoại? Do đâu mà hình thành? Quốc độ mà chúng sanh ở là như thế nào?”
Khi ấy, Thế Tôn ở chỗ thanh vắng, bằng thiên nhĩ nghe suốt, nghe các
Tỳ-kheo, sau bữa ăn, tập trung tại giảng đường, bàn luận như thế. Rồi
thì, Thế Tôn rời tĩnh thất, đi đến giảng đường và ngồi xuống. Tuy đã
biết nhưng Thế Tôn vẫn hỏi các Tỳ-kheo:
“Vừa rồi các thầy đang bàn luận về vấn đề gì?”
Các Tỳ-kheo bạch Phật:
“Sau bữa ăn, chúng con tập trung tại pháp giảng đường bàn luận rằng:
Chư Hiền! Thật chưa từng có, nay đây trời đất này do đâu mà tan hoại? do
đâu mà hình thành? Quốc độ mà chúng sanh ở là như thế nào? Chúng con
tập trung tại giảng đường bàn luận vấn đề như thế.”
Phật bảo các Tỳ-kheo:
“Lành thay! Lành thay! Phàm người xuất gia nên hành hai pháp: một là
sự im lặng của Hiền thánh, hai là giảng luận pháp ngữ. Các thầy tập
trung tại giảng đường cũng nên hành sự im lặng của Hiền thánh hoặc giảng
luận Chánh pháp. Này các Tỳ-kheo! Các thầy muốn nghe Như Lai nói về
việc trời đất thành, hoại và quốc độ mà chúng sanh ở chăng?”
Khi ấy, các Tỳ-kheo bạch Phật:
“Kính vâng, bạch Thế Tôn! Nay thật là phải thời. Chúng con mong ước được nghe. Thế Tôn nói xong, chúng con sẽ phụng trì!”
Phật nói:
“Này các Tỳ-kheo! Hãy lắng nghe! Hãy lắng nghe! Hãy suy nghĩ chính chắn. Ta sẽ nói cho các thầy nghe.”
Phật bảo các Tỳ-kheo:
“Như trong chỗ mà một mặt trời, mặt trăng vận hành khắp bốn thiên hạ,
tỏa ánh sáng chiếu; có một ngàn thế giới như vậy. Trong ngàn thế giới
có một ngàn mặt trời, mặt trăng; có một ngàn núi chúa Tu-di ; có bốn
ngàn thiên hạ, bốn ngàn đại thiên hạ, bốn ngàn biển, bốn ngàn biển lớn,
bốn ngàn rồng, bốn ngàn rồng lớn, bốn ngàn chim cánh vàng, bốn ngàn chim
cánh vàng lớn, bốn ngàn đường ác, bốn ngàn đường ác lớn, bốn ngàn vị
vua, bốn ngàn vị vua lớn, bảy ngàn cây lớn, tám ngàn địa ngục lớn, mười
ngàn núi lớn, ngàn Diêm-la vương, ngàn Tứ thiên vương, ngàn trời
Ðao-lợi, ngàn trời DiệmDiệm-ma, ngàn trời Ðâu-suất, ngàn trời Hóa tự
tại, ngàn trời Tha hóa tự tại, ngàn trời Phạm ; đó là tiểu thiên thế
giới. Như một tiểu thiên thế giới, ngàn tiểu thiên thế giới như thế là
một
trung thiên thế giới. Như một trung thiên thế giới, một ngàn trung thiên
thế giới như vậy là một tam thiên đại thiên thế giới. Phạm vi thế giới
thành hoại như thế là nơi chúng sanh cư trú, gọi là một cõi Phật.”
Phật bảo các Tỳ-kheo:
“Cõi đất này dày mười sáu vạn tám ngàn do-tuần, biên giới vô hạn. Ðất
nương trên nước. Nước sâu ba ngàn ba mươi do-tuần, biên giới vô hạn.
Nước ở trên gió; gió dày sáu ngàn bốn mươi do-tuần, biên giới vô hạn.
“Này các Tỳ-kheo! Nước của biển lớn ấy sâu tám vạn bốn ngàn do-tuần,
biên giới vô hạn. Núi chúa Tu-di, phần chìm xuống biển là tám vạn bốn
ngàn do-tuần; phần trên mặt nước cao tám vạn bốn ngàn do-tuần; chân núi
sát đất, phần lớn là phần đất cứng chắc. Núi ấy thẳng đứng, không có lồi
lõm, sanh các loại cây; cây tỏa ra các mùi hương, thơm khắp núi rừng,
là nơi mà phần nhiều các Hiền thánh, các trời đại thần diệu. Móng chân
núi toàn là cát vàng ròng. Bốn phía núi có bốn mô đất rắn doi ra, cao
bảy trăm do-tuần, nhiều màu đan xen, được tạo thành bởi bảy báu. Bốn mô
đất thoai thoải, uốn cong sát mặt biển.
“Núi chúa Tu-di có đường cấp bằng bảy báu; đường cấp ở dưới núi rộng
sáu mươi do-tuần; sát hai bên đường có bảy lớp tường báu, bảy lớp lan
can, bảy lớp lưới giăng, bảy lớp hàng cây; tường vàng thì cửa bạc, tường
bạc thì cửa vàng; tường thủy tinh thì cửa lưu ly, tường lưu ly thì cửa
thủy tinh; tường xích châu thì cửa mã não; tường mã não thì cửa xích
châu; tường xa cừ thì cửa các báu. Còn lan can thì cây ngang vàng thì
cây dọc bạc, cây ngang bạc thì cây dọc vàng; cây ngang thủy tinh thì cây
dọc lưu ly, cây ngang lưu ly thì cây dọc thủy tinh; cây ngang xích châu
thì cây dọc mã não, cây ngang mã não thì cây dọc xích châu; cây ngang
xa cừ thì cây dọc các báu. Trên lan can ấy, có lưới báu. Ở dưới lưới
vàng ấy có treo linh bạc. Dưới lưới bạc, treo linh vàng. Dưới
lưới lưu ly treo linh thủy tinh. Dưới lưới thủy tinh treo linh lưu ly.
Dưới lưới xích châu treo linh mã não. Dưới lưới mã não treo linh xích
châu. Dưới lưới xa cừ treo linh các báu. Còn cây vàng thì rễ vàng, nhánh
vàng, lá, hoa, quả bạc. Còn cây bạc thì rễ bạc, cành bạc, lá hoa quả
vàng. Còn cây thủy tinh thì rễ, nhánh thủy tinh; hoa, lá, lưu ly. Còn
cây lưu ly thì rễ, nhánh lưu ly; hoa, lá thủy tinh. Còn cây xích châu
thì rễ, nhánh xích châu; hoa, lá mã não. Còn cây mã não thì rễ nhánh mã
não; hoa, lá xích châu. Còn cây xa cừ thì rễ, nhánh xa cừ; hoa lá các
báu.
“Về bảy lớp tường ấy, tường có bốn cửa; cửa có lan can. Trên bảy lớp
tường đều có lầu, gác, đài, quán; bao bọc chung quanh là vườn cảnh, ao
tắm, mọc các loài hoa lá báu. Cây báu sắp thành hàng. Hoa quả tốt tươi.
Gió hương tỏa bốn phía làm vui lòng người. Chim le le, nhạn, uyên ương,
các loại chim kỳ lạ, có hàng ngàn giống loại không kể xiết, cùng hòa âm
kêu hót. Lại nữa, đường cấp ở giữa núi chúa Tu-di rộng bốn mươi do-tuần,
sát hai bên đường có bảy lớp tường báu, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới,
bảy lớp hàng cây báu... cho đến vô số các loài chim cùng nhau ca hót,
cũng như đường cấp ở dưới núi. Còn đường cấp ở trên rộng hai mươi
do-tuần, sát hai bên đường có bảy lớp tường, bảy lớp lan can, bảy lớp
lưới, bảy lớp hàng cây báu... cho đến vô số các loài chim, cùng nhau ca
hót, cũng như đường cấp ở giữa.”
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Ðường cấp ở dưới có quỷ thần tên là Già-lâu-la Túc ở. Ðường cấp ở
giữa có quỷ thần tên là Trì Man ở. Ðường cấp ở trên có quỷ thần tên là
Hỷ Lạc ở. Bốn doi đất cao bốn vạn hai ngàn do-tuần. Ở đó có cung điện,
chỗ ở của Tứ thiên vương; có bảy hàng thành, bảy hàng lan can, bảy hàng
lưới, bảy hàng cây báu, các linh báu... cho đến vô số các loài chim cùng
nhau ca hót, cũng lại như thế.
“Trên đảnh núi Tu-di có cung trời Tam thập tam, có bảy vòng thành,
bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây báu... cho đến vô số các
loài chim cùng nhau ca hót, cũng lại như thế.
“Vượt lên trời Tam thập tam một do-tuần, lại có cung trời Diệm-ma;
qua khỏi cung trời Diệm-ma một do-tuần, lại có cung trời Ðâu-suất; qua
khỏi cung trời Ðâu-suất một do-tuần, lại có cung trời Hóa tự tại; qua
khỏi cung trời Hóa tự tại một do-tuần, lại có cung trời Tha hóa tự tại;
qua khỏi trời Tha hóa tự tại một do-tuần, lại có cung trời Phạm-gia-di.
“Khoảng giữa trời Tha hóa tự tại và trời Phạm-gia-di có cung điện Ma
thiên, cao rộng sáu ngàn do-tuần, có bảy lớp tường cung, bảy lớp lan
can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây... cho đến vô số các loài chim cùng
nhau ca hót cũng lại như thế. Qua khỏi cung trời Phạm-gia-di một
do-tuần, lại có cung trời Quang âm ; qua khỏi cung trời Quang âm một
do-tuần lại có cung trời Biến tịnh ; qua khỏi cung trời Biến tịnh một
do-tuần, lại có cung trời Quả thật ; qua khỏi cung trời Quả thật một
do-tuần, lại có cung trời Vô tưởng ; qua khỏi cung trời Vô tưởng một
do-tuần, lại có cung trời Vô tạo ; qua khỏi cung trời Vô tạo một
do-tuần, lại có cung trời Vô nhiệt ; qua khỏi cung trời Vô nhiệt một
do-tuần, lại có cung trời Thiện hiện ; qua khỏi cung trời Thiện hiện một
do-tuần, lại có
cung trời Ðại thiện hiện ; qua khỏi cung trời Ðại thiện hiện một
do-tuần, lại có cung trời Sắc cứu cánh, qua khỏi trời Sắc cứu cánh, trên
có trời Không xứ trí, trời Thức xứ trí, trời Vô sở hữu xứ trí, trời Hữu
tưởng vô tưởng xứ trí, ngang đây gọi là giới hạn của chúng sanh, thế
giới chúng sanh, tất cả chúng sanh sanh, lão, bệnh, tử, thọ ấm, thọ hữu
ngang đây, không vượt qua.
Phật bảo các Tỳ-kheo: Phía Bắc núi Tu-di có một thiên hạ tên là
Uất-đan-viết . Lãnh thổ vuông vức, ngang rộng một vạn do-tuần; mặt người
cũng vuông, giống như hình đất.
“Phía Ðông núi Tu-di có một thiên hạ tên là Phất-vu-đãi ; lãnh thổ
tròn trịa, ngang rộng chín ngàn do-tuần. Mặt người cũng tròn, giống như
hình đất.
“Phía Tây núi Tu-di có thiên hạ tên là Câu-da-ni, địa hình như nửa
mặt trăng, ngang rộng tám ngàn do-tuần; mặt người cũng vậy, giống như
hình đất.
“Phía Nam núi Tu-di có thiên hạ tên là Diêm-phù-đề, đất đai phía Nam
hẹp, phía Bắc rộng, ngang rộng bảy ngàn do-tuần, mặt người cũng vậy,
giống như hình đất.
“Mặt Bắc núi Tu-di có ánh sáng được tạo thành do bởi vàng chiếu sáng
phương Bắc. Mặt Ðông núi Tu-di có ánh sáng tạo thành bởi bạc chiếu sáng
phương Ðông. Mặt Tây núi Tu-di có ánh sáng tạo thành bởi thủy tinh chiếu
sáng phương Tây. Mặt Nam núi Tu-di có ánh sáng tạo thành bởi lưu ly
chiếu sáng phương Nam.
“Ở Uất-đan-viết có một đại thọ chúa tên gọi là Am-bà-la, vòng thân
bảy do-tuần, cao một trăm do-tuần, cành lá tỏa ra bốn phía năm mươi
do-tuần. Cõi Phất-vu-đãi có một đại thọ, tên là Gia-lam-phù, vòng thân
bảy do-tuần, cao một trăm do-tuần, cành lá tỏa ra bốn phía năm mươi
do-tuần. Cõi Câu-da-ni có một đại thọ, tên là Cân-đề, vòng thân bảy
do-tuần, cao một trăm do-tuần, cành lá tỏa ra bốn phía năm mươi do-tuần;
dưới cây ấy, có tảng thạch ngưu tràng, cao một do-tuần. Cõi Diêm-phù-đề
có một đại thọ tên là Diêm-phù, vòng thân bảy do-tuần, cao trăm
do-tuần, cành lá tỏa ra bốn phía năm mươi do-tuần. Ðiểu vương cánh vàng
và Long vương có cây tên là Câu-lợi-thiểm-bà-la, vòng thân bảy do-tuần,
cao trăm do-tuần, cành lá tỏa ra bốn phía năm mươi do-tuần. A-tu-la
vương có cây
tên là Thiện-trú, vòng thân bảy do-tuần, cao trăm do-tuần, cành lá tỏa
ra bốn phía năm mươi do-tuần. Trời Ðao-lợi có cây tên là Trú-độ , vòng
thân bảy do-tuần, cao trăm do-tuần, cành lá tỏa ra bốn phía năm mươi
do-tuần.
“Bên núi Tu-di có núi tên là Già-đà-la , cao bốn vạn hai ngàn
do-tuần, ngang dọc bốn vạn hai ngàn do-tuần, hai bên rất rộng, nhiều màu
đan xen, do bảy báu tạo thành; núi này cách núi Tu-di tám vạn bốn ngàn
do-tuần, khoảng giữa mọc toàn hoa Ưu-bát-la, hoa Bát-đầu-ma, hoa
Câu-vật-đầu, hoa Phân-đà-lỵ, lau, tùng, trúc mọc trong đó, tỏa ra các
loại hương, mùi thơm lan khắp. Cách núi Khư-đà-la không xa, có núi tên
là Y-sa-đà-la, cao hai vạn một ngàn do-tuần, ngang dọc hai vạn một ngàn
do-tuần, hai bên rất rộng nhiều màu đan xen, bảy báu tạo thành; cách núi
Khư-đà-la bốn vạn hai ngàn do-tuần, khoảng giữa mọc toàn hoa Ưu-bát-la,
hoa Bát-đầu-ma, hoa Câu-vật-đầu, hoa Phân-đà-lỵ; lau, tùng, trúc mọc
trong đó, tỏa ra các loại hương, mùi thơm lan khắp. Cách núi Y-sa-đà-la
không xa, có núi tên là Thọ-cự-đà-la, cao một vạn hai ngàn do-tuần,
ngang dọc một vạn hai ngàn do-tuần, hai bên rất rộng, nhiều màu đan xen,
bảy báu tạo thành; cách núi Y-sa-đà-la hai vạn một ngàn do-tuần, khoảng
giữa mọc thuần bốn loài hoa tạp; lau, tùng, trúc cũng mọc trong đó, tỏa
ra các loại hương, mùi thơm lan khắp. Cách núi Thọ-cự-đà-la không xa,
có núi tên là Thiện kiến, cao sáu ngàn do-tuần, ngang dọc sáu ngàn
do-tuần, hai bên rất rộng, nhiều màu đan xen, bảy báu tạo thành, cách
núi Thọ-cự-đà-la một vạn hai ngàn do-tuần, khoảng giữa mọc toàn bốn loại
tạp hoa; lau, tùng, trúc cũng mọc trong đó, tỏa ra các loại hương, mùi
hương xông khắp.
“Cách núi Thiện kiến không xa, có núi tên là Mã thực, cao ba ngàn
do-tuần, ngang dọc ba ngàn do-tuần, hai bên rất rộng, nhiều màu đan xen,
bảy báu tạo thành; cách núi Thiện kiến sáu ngàn do-tuần, ở khoảng giữa
mọc toàn bốn loại tạp hoa; lau, tùng, trúc cũng mọc trong đó, tỏa ra các
loại hương, mùi thơm lan khắp. Cách núi Mã thực không xa, có núi tên là
Ni-dân-đà-la, cao một ngàn hai trăm do-tuần, ngang dọc một ngàn hai
trăm do-tuần, bảy báu tạo thành; cách núi Mã thực ba ngàn do-tuần, ở
khoảng giữa mọc toàn bốn loại tạp hoa; lau, tùng, trúc cũng mọc trong
đó, tỏa ra các loại hương, mùi thơm lan khắp. Cách núi Ni-dân-đà-la
không xa, có núi tên là Ðiều phục, cao sáu trăm do-tuần, ngang dọc sáu
trăm do-tuần, hai bên rất rộng, nhiều màu đan xen, bảy báu tạo thành;
cách
núi Ni-dân-đà-la một ngàn hai trăm do-tuần, khoảng giữa mọc toàn bốn
loại tạp hoa; lau, tùng, trúc cũng mọc trong đó, tỏa ra các loại hương,
mùi thơm lan khắp. Cách núi Ðiều phục không xa, có núi tên là Kim cang
vi, cao ba trăm do-tuần, ngang dọc ba trăm do-tuần; hai bên rất rộng,
nhiều màu đan xen, bảy báu tạo thành; cách núi Ðiều phục sáu trăm
do-tuần, khoảng giữa mọc toàn bốn loại tạp hoa; lau, tùng, trúc cũng mọc
trong đó, tỏa ra các loại hương mùi thơm lan khắp.
“Cách núi Ðại kim cang không xa, có biển lớn, bờ phía Bắc của biển
lớn có cây đại thọ vương tên là Diêm-phù, vòng thân bảy do-tuần, cao một
trăm do-tuần, cành lá tỏa ra bốn phía năm mươi do-tuần, khoảng đất
trống hai bên lại có khu rừng tên là Am-bà-la, ngang dọc năm mươi
do-tuần; lại có khu rừng tên là Diêm-bà, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại
có khu rừng tên là Sa-la, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng
tên là Ða-la, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là
Na-đa-la, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là Nam, ngang
dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là Nữ , ngang dọc năm mươi
do-tuần; lại có khu rừng tên là Tán-na, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại
có khu rừng tên là Chiên-đàn, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu
rừng tên
là Khư-châu-la, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là
Ba-nại-bà-la, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là Tỳ-la,
ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là Hương nại, ngang dọc
năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là Lê, ngang dọc năm mươi do-tuần;
lại có khu rừng tên là An-thạch-lưu , ngang dọc năm mươi do-tuần; lại
có khu rừng tên là Cam, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên
là Ha-lê-lặc, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là
Tỳ-hê-lặc, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là A-ma-lặc,
ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là A-ma-lê, ngang dọc
năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là Nại, ngang dọc năm mươi
do-tuần; lại có khu rừng tên là Cam-giá, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại
có khu
rừng tên là Vi, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là Trúc,
ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là Xá-la, ngang dọc năm
mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là Xá-la-nghiệp, ngang dọc năm mươi
do-tuần; lại có khu rừng tên là Mộc qua, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại
có khu rừng tên Ðại mộc qua, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu
rừng tên là Giải thoát hoa, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng
tên là Chiêm-bà, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là
Bà-la-la, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là Tu-ma
-na, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là Bà-sư, ngang dọc
năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên Ða-la-lê, ngang dọc năm mươi
do-tuần; lại có khu rừng tên là Già-da, ngang dọc năm mươi
do-tuần; lại có khu rừng tên là Bồ-đào, ngang dọc năm mươi do-tuần.
“Qua khỏi đó thì đất trống. Trong khoảng đất trống ấy lại có ao hoa,
ngang dọc năm mươi do-tuần. Lại có ao hoa Bát-đầu-ma, ao hoa
Câu-vật-đầu, ao hoa Phân-đà-lỵ; rắn độc đầy trong đó. Mỗi ao ngang dọc
năm mươi do-tuần.
“Qua khỏi đó, đất trống. Trong khoảng đất trống ấy có biển lớn tên là
Uất-thiền-na. Dưới biển này có con đường của Chuyển luân thánh vương,
rộng mười hai do-tuần; sát hai bên đường có bảy lớp tường, bảy lớp lan
can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây. Các trang hoàng chung quanh đều do
bảy báu tạo thành. Khi Chuyển luân thánh vương Chuyển luân thánh vương
ra đời trên cõi Diêm-phù-đề thì nước tự nhiên rút đi, đường ấy hiện ra.
“Cách biển không xa, có núi tên là Kim bích. Trong núi có tám vạn cái
hang. Tám vạn tượng vương sống ở trong hang ấy. Thân chúng thuần trắng;
đầu có nhiều màu; miệng có sáu ngà, giữa các răng có trám vàng.
“Qua khỏi núi Kim bích rồi, có núi tên là Tuyết sơn, ngang dọc năm
trăm do-tuần, sâu năm trăm do-tuần, phía Ðông và Tây nhập vào biển. Ở
giữa núi Tuyết có núi báu, cao hai mươi do-tuần.
“Doi đất núi Tuyết trồi lên một trăm do-tuần, trên đảnh núi ấy có ao
A-nậu-đạt, ngang dọc năm mươi do-tuần; nước ao trong mát, lóng sạch
không cáu bẩn; có bảy bậc bờ thềm, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới giăng,
bảy lớp hàng cây, nhiều loại màu sắc khác lạ, do bảy báu tạo thành. Lan
can thì trụ vàng, tay nắm bạc; trụ bạc, tay nắm vàng; trụ lưu ly, tay
nắm thủy tinh; trụ thủy tinh, tay nắm lưu ly; trụ xích châu, tay nắm mã
não; trụ mã não, tay nắm xích châu; trụ xa cừ, tay nắm bằng các báu.
Lưới vàng, linh bạc; lưới bạc, linh vàng; lưới lưu ly, linh thủy tinh;
lưới thủy tinh, linh lưu ly; lưới xa cừ, linh bằng bảy báu. Cây Ða-la
vàng, gốc vàng, nhánh vàng, lá bạc, quả bạc; cây Ða-la bạc, gốc bạc,
nhánh bạc, lá vàng, quả vàng; cây thủy tinh, gốc, nhánh thủy tinh,
hoa, quả lưu ly; cây xích châu, gốc, nhánh xích châu, lá mã não, hoa,
quả mã não; cây xa cừ, gốc, nhánh xa cừ, hoa, quả bằng các báu. Bên cạnh
ao A-nậu-đạt có vườn cảnh, ao tắm, các hoa tích tụ, các loại cây lá hoa
quả đều tốt tươi; các loại hương thơm, lan tỏa bốn phương, các loài
chim lạ cùng cất tiếng hót họa nhau buồn bã. Dưới đáy ao A-nậu-đạt cát
vàng đầy ắp, bốn phía ao đều có thềm bậc; bậc vàng, thềm bạc, bậc bạc,
thềm vàng; bậc lưu ly, thềm thủy tinh, bậc thủy tinh, thềm lưu ly; bậc
xích châu, thềm mã não, bậc mã não, thềm xích châu; bậc xa cừ, thềm bằng
các báu, bao bọc chung quanh đều có lan can, có bốn loài hoa: xanh,
vàng, đỏ, trắng nhiều màu đan xen; hoa như bánh xe, rễ như ổ trục xe; rễ
hoa ra nhựa màu trắng như sữa, vị ngọt như mật. Phía Ðông ao A-nậu-đạt
có sông Hằng-già, từ miệng trâu chảy ra, dẫn theo năm trăm con sông,
chảy vào biển Ðông. Phía Nam ao A-nậu-đạt, có sông Tân-đầu, từ miệng sư
tử chảy ra, dẫn theo năm trăm dòng sông chảy vào biển Nam. Phía Tây ao
A-nậu-đạt có sông Bà-xoa, từ miệng ngựa chảy ra, dẫn theo năm trăm dòng
sông nhập vào biển Tây. Phía Bắc ao A-nậu đạt có sông Tư-đà, từ miệng
voi chảy ra, dẫn theo năm trăm dòng sông chảy vào biển Bắc. Trong cung
A-nậu-đạt có nhà năm cột, Long vương A-nậu-đạt thường ở trong đó.”
Phật nói:
“Vì sao gọi là A-nậu-đạt? A-nậu-đạt nghĩa là gì? Các Long vương ở
Diêm-phù-đề này có đủ ba hoạn nạn, chỉ có A-nậu-đạt không có ba hoạn
nạn. Những gì là ba? Một là, toàn thể Long vương ở Diêm-phù-đề đều bị
gió nóng, cát nóng chạm vào thân, thiêu đốt da thịt và thiêu đốt xương
tủy làm cho khổ não; chỉ có Long vương A-nậu-đạt không có hoạn này. Hai
là, toàn thể long cung ở Diêm-phù-đề bị gió dữ thổi mạnh, thổi vào trong
cung, làm mất y báu phục sức, thân rồng lộ ra, làm cho khổ não; chỉ có
Long vương A-nậu-đạt không có hoạn nạn như thế. Ba là toàn thể Long
vương ở Diêm-phù-đề, khi ở trong cung vui chơi đều bị chim lớn cánh vàng
bay vào cung dắt đi, hoặc mới nghĩ cách muốn bắt rồng để ăn thịt; các
rồng sợ hãi, thường ôm lòng lo sầu; chỉ có Long vương A-nậu-đạt không bị
hoạn này; nếu chim cánh vàng khởi niệm muốn ở thì liền mạng chung, cho
nên gọi là A-nậu-đạt.”
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Bên phải núi Tuyết có thành tên là Tỳ-xá-ly, phía Bắc của thành ấy
có bảy núi đen. Phía Bắc của bảy núi đen có núi Hương, núi ấy thường có
tiếng âm nhạc, ca xướng, kỹ nhạc. Núi có hai hang, một hang tên là Trú,
hang thứ hai tên là Thiện trụ, do bảy báu trời tạo thành, mềm mại thơm
sạch, giống như áo trời. Diệu âm Càn-thát-bà vương cùng năm trăm
Càn-thát-bà ở trong hang Trú đó. Phía Bắc hang Thiện trú có cây đại thọ
vương Ta-la, tên là Thiện trụ, có bốn ngàn thọ vương vây quanh bốn phía.
Dưới Thiện trụ thọ vương có tượng vương, cũng tên là Thiện trụ, ở dưới
cây này, thân thể toàn trắng, bảy chỗ đầy đặn, có thể bay đi; đầu nó màu
đỏ, lông có nhiều màu; sáu ngà đều thon, giữa được trám vàng, có tám
ngàn voi vây quanh tùy tùng. Dưới tám ngàn thọ vương ấy, có tám
ngàn voi, cũng lại như thế.
“Phía Bắc thọ vương Thiện trụ có ao tắm lớn, tên là Ma-đà-diên ;
ngang dọc năm mươi do-tuần; có tám ngàn ao tắm bao bọc chung quanh, nước
ao trong mát, không có cáu bẩn, được bao quanh các bờ lũy đắp bằng bảy
báu. Ao có bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây đều do bảy
báu tạo thành: tay nắm vàng thì trụ bạc, tay nắm bạc thì trụ vàng; tay
nắm thủy tinh thì trụ lưu ly, tay nắm lưu ly thì trụ thủy tinh; tay nắm
xích châu thì trụ mã não, tay nắm mã não thì trụ xích châu; tay nắm xa
cừ thì trụ bằng các báu; dưới lưới vàng treo linh bạc, dưới lưới bạc
treo linh vàng; lưới thủy tinh treo linh lưu ly, lưới lưu ly treo linh
thủy tinh; lưới xích châu treo linh mã não, lưới mã não treo linh xích
châu; lưới xa cừ treo linh các báu. Cây vàng thì rễ vàng, nhánh vàng, lá
hoa quả bạc; cây bạc thì rễ bạc, nhánh bạc, lá hoa quả vàng; cây thủy
tinh thì rễ, nhánh thủy tinh, hoa quả lưu ly; cây lưu ly thì rễ, nhánh
lưu ly, hoa quả thủy tinh; cây xích châu thì rễ, nhánh xích châu, hoa
quả mã não; cây mã não thì rễ, nhánh mã não, hoa quả xích châu; cây xa
cừ thì rễ nhánh xa cừ, hoa, quả các báu.
“Lại nữa, dưới đáy ao ấy, cát vàng rải khắp, bọc chung quanh ao có
đường thềm cấp bằng bảy báu; thềm vàng cấp bạc, thềm bạc cấp vàng; thềm
thủy tinh cấp lưu ly, thềm lưu ly cấp thủy tinh; thềm xích châu, cấp mã
não, thềm mã não, cấp xích châu; thềm xa cừ, cấp các báu. Sát hai bên
thềm có lan can báu. Lại trong ao ấy, sanh bốn loài hoa: xanh, vàng, đỏ,
trắng nhiều màu đan xen; hoa như bánh xe, rễ như ổ trục xe. Rễ hoa ra
nhựa màu trắng như sữa, vị ngọt như mật. Vòng quanh bốn phía ao có vườn
cảnh, rừng, ao tắm, mọc đủ các loại hoa; cây cối xanh tươi, hoa quả dồi
dào, vô số các loài chim cùng nhau ca hót, cũng giống như trước. Tượng
vương Thiện trụ khi nghĩ muốn dạo chơi vào ao tắm thì liền nghĩ đến tám
ngàn voi khác. Khi ấy tám ngàn voi lại tự nghĩ: “Tượng vương Thiện
trụ đang nghĩ đến chúng ta, chúng ta nên đến chỗ tượng vương”. Bầy voi
liền đi đến đứng trước tượng vương.
“Bấy giờ, tám ngàn voi theo tượng vương Thiện trụ đến ao Ma-đà-diên.
Trong bầy voi ấy, có con cầm lọng che tượng vương, có con cầm quạt báu
quạt tượng vương; trong đó có con tấu xướng kỹ nhạc đi trước mở đường.
Tượng vương Thiện trụ vào ao tắm rửa, tấu xướng kỹ nhạc, cùng nhau vui
chơi; có con rửa vòi cho tượng vương, có con rửa miệng, gội đầu; rửa
ngà, rửa tai, rửa bụng, kỳ lưng, rửa đuôi, rửa chân; trong đó có con nhổ
gốc hoa rửa sạch dâng voi ăn, có con lấy bốn loại hoa rải trên voi.
“Tượng vương Thiện trụ tắm rửa, ăn uống, cùng nhau vui chơi xong,
liền lên bờ, đi đến đứng ở cây Thiện trụ. Tám ngàn con voi, sau đó, mới
vào ao tắm rửa, ăn uống, cùng nhau vui chơi, xong rồi trở ra, đến chỗ
tượng vương.
“Khi ấy, tượng vương cùng tám ngàn voi tùy tùng sau trước, đến chỗ
thọ vương Thiện trụ; trong đó có con cầm lọng che tượng vương; có con
cầm quạt quạt tượng vương; trong đó có con tấu xướng kỹ nhạc đi trước mở
đường. Khi tượng vương Thiện trụ đến chỗ thọ vương rồi, ngồi nằm đi
đứng tùy ý, tám ngàn voi khác ở dưới các cây, tự do ngồi nằm đi đứng tùy
ý. Trong rừng cây ấy, có cây chu vi tám tầm, có cây chu vi chín tầm,
cho đến mười tầm, mười lăm tầm, chỉ có thọ vương Ta-la của voi chúa
Thiện trụ chu vi mười sáu tầm. Khi cành lá của tám ngàn cây Ta-la rơi
rụng thì có luồng gió mát thổi bay xa ra ngoài khu rừng. Lại khi tám
ngàn voi đại tiểu tiện thì các quỷ Dạ-xoa hốt bỏ ngoài rừng.”
Phật bảo các Tỳ-kheo:
“Tượng vương Thiện trụ có đại thần lực, công đức như thế; tuy là loài súc sanh mà hưởng phước như vậy.”
PHẨM 2: UẤT-ÐAN-VIẾT
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Cõi Uất-đan-viết có nhiều núi. Bên cạnh các núi ấy, có các vườn
cảnh, ao tắm, mọc nhiều loài hoa, cây cối mát mẻ, hoa quả dồi dào, vô số
các loài chim cùng nhau hót. Lại trong các núi ấy có nhiều dòng nước;
nước ấy xuôi dòng ra biển, không chảy xiết; các loại hoa phủ trên mặt
nước, chảy bình lặng êm ả. Sát hai bên bờ, có nhiều cây cối, cành nhánh
mềm mại, hoa quả sum suê. Ðất mọc cỏ mềm xoay về bên phải, màu như đuôi
công, mùi thơm như bà-sư , mềm như áo trời. Ðất ở đó mềm; dùng chân đạp
đất, đất lún bốn tấc, dở chân lên, trở lại như cũ, mặt đất bằng như bàn
tay, không có cao thấp.
“Này Tỳ-kheo! Cõi Uất-đan-viết kia bốn phía có bốn ao A-nậu-đạt; mỗi
ao ngang dọc một trăm do-tuần. Nước ao lắng trong, không có cáu bẩn. Có
hào cùng bậc thềm bằng bảy báu chung quanh... cho đến, vô số các loài
chim cùng nhau cất tiếng hót buồn bã, giống như sự trang trí của ao
Ma-đà-diên không khác. Bốn ao lớn ấy, rộng mười do-tuần, nước sông xuôi
dòng ra biển, không có xiết; các loại hoa phủ trên mặt nước, chảy từ từ
êm ả. Sát hai bên bờ sông có nhiều cây cối, cành nhánh mềm mại, hoa quả
dồi dào. Ðất mọc cỏ mềm, xoay về phía phải, màu như đuôi công, hương như
bà-sư, mềm mại như áo trời. Ðất đó mềm mại, dùng chân đạp đất, đất lún
bốn tấc, giở chân lên, trở lại như cũ. Ðất bằng như bàn tay, không có
cao thấp. Lại đất đai kia không có ngòi rãnh, khe suối, hầm hố, gai
góc, gốc cây, cũng không có muỗi mòng, rắn, rết, ong, bò cạp, cọp, beo,
thú dữ. Ðất thuần châu báu, không có đất cát; âm dương điều độ, bốn mùa
thuận hòa, chẳng lạnh chẳng nóng, không có các sự não hoạn. Ðất đai thấm
ướt, bụi dơ không dậy, như dầu bôi trên đất, không có bụi bay. Trăm thứ
cây cỏ thường mọc, không có mùa Ðông rét mướt, mùa Hạ nóng bức. Cây cối
tốt tươi; hoa trái xum xuê. Ðất mọc cỏ mềm, xoay về phía phải, màu như
lông công, hương như bà-sư, mềm như áo trời. Ðất ở đó mềm mại; dùng chân
đạp đất, đất lún bốn tấc, dở chân lên lại, trở lại như cũ. Ðất bằng như
bàn tay, không có chỗ cao, chỗ thấp.
“Cõi ấy thường có lúa thơm tự nhiên, chẳng gieo trồng mà tự mọc,
không có vỏ trấu, như đóa hoa trắng, giống như thức ăn trời Ðao-lợi, đầy
đủ các vị. Cõi ấy luôn có nồi, vạc tự nhiên; có ngọc ma-ni tên là Diệm
quang được đặt dưới nồi nấu. Khi cơm chín thì ánh sáng tắt, chẳng cần
lửa củi, không nhọc sức người. Cõi ấy có cây tên là Khúc cung, lá cây
dày đặc chồng lên nhau theo thứ lớp, trời mưa không dột. Ðàn ông, đàn bà
cư ngụ dưới cây đó. Lại có cây hương cao bảy mươi dặm, hoa quả đầy
cành. Khi quả ấy chín, vỏ nó tự nứt, tự nhiên xuất ra các loại hương.
Hoặc có cây cao sáu mươi dặm, hoặc năm mươi dặm, bốn mươi dặm; cây nhỏ
nhất cao năm dặm, hoa quả đầy cành. Khi quả ấy chín, vỏ nó tự nứt, tự
nhiên hương tỏa.
“Lại có cây Y cao bảy mươi dặm, hoa quả đầy cành; khi quả ấy chín vỏ
tự nứt ra, tuôn ra các loại y phục; hoặc có cây cao sáu mươi dặm, năm
mươi, bốn mươi, nhỏ nhất là năm dặm, hoa quả đầy cành, tuôn ra các loại y
phục. Lại có cây trang nghiêm, cao bảy mươi dặm, hoa quả đầy cành; khi
quả ấy chín, vỏ tự nứt ra, tuôn ra các thứ đồ trang nghiêm thân thể;
hoặc có cây cao sáu mươi dặm, năm mươi dặm, đều đầy cành hoa quả, tuôn
ra đủ các đồ trang nghiêm thân thể. Lại có cây hoa man cao bảy mươi
dặm, hoa quả đầy cành; khi quả ấy chín, vỏ tự nứt ra, xuất ra các loại
tràng hoa; hoặc có cây cao sáu mươi dặm, năm mươi, bốn mươi dặm, cây nhỏ
nhất cao năm dặm, hoa quả cũng đầy cành, xuất ra các loại tràng hoa.
Lại có cây khí, cao bảy mươi dặm, hoa quả đầy cành. Khi quả
ấy chín vỏ tự nứt ra. Xuất ra các khí cụ; hoặc có cây sáu mươi dặm, năm
mươi, bốn mươi, cây nhỏ nhất cao năm dặm, hoa quả đều đầy cành, xuất ra
các loại khí cụ. Lại có cây quả cao bảy mươi dặm, hoa quả đầy cành; khi
quả ấy chín, vỏ tự nứt ra, xuất ra các loại quả; hoặc có cây cao sáu
mươi dặm, năm mươi, bốn mươi, cây nhỏ nhất cao năm dặm, hoa quả đều đầy
cành, xuất ra các loại quả. Lại có cây nhạc khí cao bảy mươi dặm, hoa
quả đầy cành; quả ấy khi chín, vỏ tự nứt ra, xuất ra các loại nhạc khí,
hoặc có cây cao sáu mươi dặm, năm mươi, bốn mươi, cây nhỏ nhất cao năm
dặm, đều đầy cành hoa quả, xuất ra các loại nhạc khí.
“Cõi ấy có ao tên là Thiện kiến, ngang dọc một trăm do-tuần, nước ao
trong vắt, không có cáu bẩn. Các bên ao được xây lát bằng hào bảy báu.
Bốn mặt quanh ao có bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây. cho
đến, vô số các loài chim cùng nhau ca hót, cũng giống như trước.
“Phía Bắc ao Thiện kiến có cây tên là Am-bà-la, vòng thân bảy dặm,
cao một trăm dặm, cành lá tỏa ra bốn phía năm mươi dặm. Phía Ðông của ao
Thiện kiến phát xuất sông Thiện đạo, rộng một do-tuần, nước sông chảy
chậm, không có dòng xoáy, có nhiều loại hoa phủ trên mặt nước; sát hai
bên bờ cây cối tốt tươi, cành nhánh mềm mại, hoa quả đầy cành; đất mọc
cỏ mềm, xoay về phía phải, màu như lông công, hương như bà-sư, mềm như
áo trời; đất ở đó mềm mại, khi đạp chân xuống, đất lún bốn tấc, dở chân
lên, trở lại như cũ; đất bằng như bàn tay, không có cao thấp.
“Lại nữa, trong sông ấy, có các thuyền báu. Nhân dân ở nơi ấy khi
muốn vào sông tắm rửa vui chơi, cởi y phục để trên bờ. Lên thuyền ra
giữa dòng; nô đùa vui vẻ xong, lên bờ gặp y phục thì mặc, lên trước mặc
trước, lên sau mặc sau, chẳng tìm lại y phục cũ. Sau đó, đi đến cây
hương. Cây cong mình xuống; những người ấy lấy các loại tạp hương để xoa
trên mình. Rồi đến cây y phục. Cây cong mình xuống; những người ấy lấy
các loại y phục, tùy ý mặc vào. Tiếp đến, đi đến cây trang nghiêm, cây
cong mình xuống, những người ấy lấy các thứ trang nghiêm để tự trang
sức. Xong, đến cây hoa man; cây cong mình xuống, những người ấy lấy các
thứ tràng hoa, để đội trên đầu. Rồi đến cây khí, cây cong mình xuống;
những người ấy lấy các loại khí vật báu; lấy khí vật báu xong, tiếp
theo,
đến cây quả, cây cong mình xuống, những người ấy hái các quả đẹp, hoặc
có người ăn nuốt, có người ngậm, có người vắt nước uống. Kế tiếp, đến
cây nhạc khí; cây cong mình xuống, những người ấy lấy các loại nhạc khí,
chơi đàn, đánh trống và dùng âm thanh vi diệu hòa với tiếng đàn mà đi
đến khu vườn, tùy ý vui chơi, hoặc một ngày, hai ngày cho đến bảy ngày,
sau đó lại đi, không có chỗ nhất định.
“Phía Nam ao Thiện kiến, phát xuất sông Diệu thể. Phía Tây ao Thiện
kiến, phát xuất sông Diệu vị. Phía Bắc ao Thiện kiến, phát xuất sông
Quang ảnh, cũng giống như trên. Phía Ðông ao Thiện kiến có khu vườn tên
là Thiện kiến, ngang dọc một trăm do-tuần; vòng quanh bốn bên khu vườn
có bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây, nhiều màu đan xen
bảy báu tạo thành. Bốn phía vườn ấy có bốn cửa lớn, lan can bao quanh,
đều do bảy báu tạo thành; trong vườn sạch sẽ, không có gai góc, đất đai
bằng phẳng, không có ngòi rãnh khe suối, hầm hố, đồi gò, cũng không có
muỗi mòng, ruồi, rệp, rận, rắn rết, ong, bò cạp, hổ báo, ác thú; đất
toàn các báu, không có cát, âm dương điều độ, bốn mùa thuận hòa, chẳng
lạnh chẳng nóng, không có các hoạn nạn; đất đai nhuận thấm, không có bụi
bặm, như có dầu xoa đất, đi bụi không bốc lên, hằng trăm loài cỏ thường
mọc, không có Ðông rét Hạ bức; cây cối tươi tốt, hoa quả đầy cành; đất
mọc cỏ mềm, xoay về phía phải, màu như lông công, hương như bà-sư, mềm
như áo trời; đất đai mềm mại, khi đạp chân xuống, đất lún bốn tấc, dở
chân lên, đất lại như cũ.
“Vườn ấy thường mọc lúa thơm tự nhiên, không có vỏ trấu, trắng như
đóa hoa, đầy đủ các vị, như cơm trời Ðao-lợi. Vườn ấy thường có nồi chõ
tự nhiên; có ngọc ma-ni, tên là Diệm quang đặt dưới nồi chõ; khi cơm
chín, ánh sáng tắt, chẳng cần lửa củi, chẳng nhọc công người. Vườn ấy có
cây tên là khúc cung, lá chồng lên nhau theo thứ lớp, trời mưa không
dột. Các nam nữ ấy cư ngụ ở đó. Lại có cây hương, cao bảy mươi dặm, hoa
quả đầy cành; khi quả ấy chín, vỏ tự nứt ra, xuất ra các loại hương, có
cây cao sáu mươi dặm, năm mươi, bốn mươi, cho đến cao năm dặm, hoa quả
đầy cành, xuất ra các loài hương... cho đến cây khí, cũng giống như
trên.
“Nhân dân ở cõi ấy đến vườn ấy vui chơi giải trí, một ngày, hai
ngày... cho đến bảy ngày. Vườn Thiện kiến ấy không người bảo vệ, tùy ý
dạo chơi, sau đó lại đi.
“Phía Nam ao Thiện kiến có khu vườn tên là Ðại thiện kiến, phía Tây
ao Thiện kiến có khu vườn tên là Ngu lạc ; phía Bắc ao Thiện kiến có khu
vườn tên là Ðẳng hoa, cũng giống như thế.
“Ở cõi ấy, vào nửa đêm, cuối đêm, Long vương A-nậu-đạt thường thường
vào lúc thích hợp khởi mây lành cùng khắp thế giới rồi mưa nước ngọt
xuống, giống như khi vắt sữa bò; nước đủ tám vị, thấm nhuận khắp nơi;
nước không đọng lại, đất không bùn lầy. Giống như thợ làm tràng hoa dùng
nước rưới hoa, khiến không khô héo, thấm ướt tốt tươi. Khi ấy, ở cõi đó
vào lúc gần sáng không có mây che, bầu trời trong vắt; biển nổi gió
mát, trong lành hiu hiu, chạm nhẹ vào người, toàn thân sảng khoái.
“Cõi ấy trù mật, nhân dân sung túc. Nếu khi cần ăn thì dùng gạo thơm
tự nhiên bỏ vào trong chõ, dùng ngọc Diệm quang để ở dưới chõ; cơm tự
nhiên chín, ánh sáng ngọc tự tắt. Các người đi đến, tự do ăn cơm. Người
ăn không đứng dậy thì cơm không hết; người ăn đứng dậy thì cơm cũng hết.
Cơm ấy tinh khiết như đóa hoa trắng, đầy đủ mùi vị như cơm cõi trời
Ðao-lợi. Người ăn cơm đó không có các bệnh, khí lực dồi dào, nhan sắc
tươi vui, không có gầy còm.
“Lại ở cõi ấy, thân thể con người như nhau, hình mạo giống nhau,
không thể phân biệt. Dáng người trẻ trung, như người khoảng hai mươi
tuổi ở Diêm-phù-đề. Người cõi ấy, răng họ bằng đều, trắng sạch, kín sát
không hở; tóc màu xanh biếc, không có cáu bẩn; tóc xõa xuống bằng tám
ngón tay, ngang vai thì dừng, không dài không ngắn. Người ở cõi đó nếu
khi khởi tâm dục thì nhìn chăm chăm nữ nhân rồi bỏ đi; người nữ ấy theo
sau vào trong vườn. Nếu nữ nhân và người nam kia là cha, mẹ hoặc liên hệ
trong cốt nhục, không phải là người nên hành dục thì cây không cong
xuống che lại, thì họ tự chia tay. Nếu chẳng phải cha, mẹ và nhiều liên
hệ đến cốt nhục, đúng là đối tượng hành dâm thì cây cong xuống che phủ
thân họ, tùy ý hưởng lạc, một ngày, hai ngày... hoặc đến bảy ngày, khi
ấy
mới thôi. Người nữ ấy mang thai; bảy hoặc tám ngày thì sanh. Sanh ra con
trai hay con gái, cũng mang đặt ở ngã tư đường, đầu trục lộ giao thông,
bỏ đó rồi đi. Các người đi đường, đi ngang qua bên nó, đưa ngón tay cho
nó mút, ngón tay chảy ra sữa ngọt, nuôi lớn thân bé. Qua bảy ngày rồi,
bé ấy trưởng thành, bằng với người lớn; nam thì theo nhóm nam, nữ thì
theo nhóm nữ.
“Người cõi ấy khi mạng chung, không ai khóc lóc, trang nghiêm tử thi,
đặt ở ngã tư đường, bỏ đó rồi đi. Có loài chim tên là Ưu-úy thiền-già
gắp tử thi ấy để ở phương khác.
“Lại nữa, người ở cõi ấy khi đại tiểu tiện, đất liền nẻ ra; đại tiểu
tiện rồi, đất khép trở lại. Nhân dân cõi ấy không lệ thuộc sự tham
luyến, cũng không cất chứa, thọ mạng có hạn định; chết rồi sanh lên
trời. Vì sao người cõi ấy thọ mạng luôn có hạn định? Ðời trước người cõi
ấy tu mười hạnh thiện, khi thân hoại mạng chung sanh vào cõi
Uất-đan-viết, thọ mạng ngàn tuổi, chẳng hơn chẳng kém. Vì thế, người cõi
ấy thọ mạng như nhau.
“Lại nữa, người sát sanh đọa vào đường ác; người không sát sanh sanh
vào nẻo thiện. Kẻ trộm cắp, tà dâm, hai lưỡi, ác khẩu, nói dối, nói thêu
dệt, tham lam, ganh ghét, tà kiến đều đọa vào đường ác. Người không
trộm cắp, không tà dâm, không hai lưỡi, không ác khẩu, không nói dối,
không nói thêu dệt, không tham lam, không ganh ghét, không tà kiến thì
khi thân hoại mạng chung sanh cõi Uất-đan-viết, thọ mạng ngàn năm, chẳng
hơn chẳng kém. Vì vậy, người ở cõi kia thọ mạng bằng nhau. Lại nữa,
tham lam keo kiệt chẳng thường bố thí thì chết đọa đường ác; tâm thoáng
không keo thường hành bố thí sanh chốn thiện. Có người bố thí cho
Sa-môn, Bà-la-môn và bố thí cho người bần cùng, ăn xin, bệnh ghẻ, khốn
khổ, cho họ y phục, thức ăn uống, xe cộ, tràng hoa, hương thơm, giường
chõng, phòng xá; lại tạo lập tháp miếu, đèn đuốc cúng dường, thì người
ấy khi mạng chung sanh vào cõi Uất-đan-viết, thọ mạng ngàn tuổi, chẳng
hơn chẳng kém, vì vậy, người cõi kia thọ mạng bằng nhau. Vì sao gọi
người Uất-đan-viết là hơn hết? Vì nhân dân cõi ấy chẳng thọ thập thiện
nhưng toàn bộ hành động của họ tự nhiên hợp với thập thiện, khi thân
hoại mạng chung, sanh vào cõi lành. Vì vậy, người ở đó được khen là
Uất-đan-viết hơn hết. Uất-đan-viết, ý nghĩa như thế nào? Ðối với ba cõi
kia, cõi này là tối thắng, tối thượng cho nên gọi là Uất-đan-viết.
PHẨM 3: CHUYỂN LUÂN THÁNH VƯƠNG
Phật nói với các Tỳ-kheo:
“Thế gian có Chuyển luân thánh vương, thành tựu bảy báu, có bốn thần đức.
“Những gì là bảy báu mà Chuyển luân thánh vương thành tựu? Một, báu
bánh xe vàng; hai, báu voi trắng; ba, báu ngựa xanh; bốn, báu thần châu;
năm, báu ngọc nữ; sáu, báu cư sĩ; bảy, báu chủ binh.
“Chuyển luân thánh vương thành tựu báu bánh xe vàng như thế nào?
Nếu Chuyển luân thánh vương hiện trong cõi đất Diêm-phù-đề; khi ấy,
vua Quán đảnh thuộc dòng Sát-lỵ, vào ngày rằm trăng tròn, tắm gội bằng
nước thơm, rồi lên điện cao, cùng với thể nữ hưởng thụ hoan lạc. Bảo vật
là bánh xe trời bằng vàng bỗng nhiên xuất hiện trước mặt. Bánh xe có
ngàn căm, với màu sắc sáng chói, được làm bằng vàng trời, do thợ trời
chế tạo, không phải người đời làm được. Ðường kính bánh xe là bốn
trượng. Khi nhìn thấy bánh xe, Chuyển luân Thánh vương Chuyển luân thánh
vương thầm nghĩ: Ta từng nghe từ các bậc tiên túc, kỳ cựu nói rằng: Nếu
vua Sát-lỵ quán đảnh, vào ngày rằm lúc trăng đầy, tắm gội bằng nước
thơm, lên ngồi trên Pháp điện, với thể nữ vây quanh. Bánh xe vàng tự
nhiên xuất hiện trước mặt. Bánh xe có ngàn căm, với màu sắc sáng chói,
được làm bằng vàng trời, do thợ trời chế tạo, không phải người đời làm
được. Ðường kính bánh xe là bốn trượng. Bấy giờ được gọi là Chuyển luân
thánh vương. Nay bánh xe này xuất hiện, há không phải là điều ấy chăng?
Ta nay hãy thử bảo vật là bánh xe này.
“Rồi Chuyển luân vương bèn triệu tập bốn binh chủng, hướng về bảo vật
bánh xe vàng, bày vai phải, quỳ gối phải xuống đất, lấy tay phải sờ
bánh xe vàng mà nói rằng: Ngươi hãy nhắm hướng Ðông, đúng như pháp mà
chuyển, chớ có trái qui tắc thông thường. Bánh xe liền chuyển về phương
Ðông. Khi ấy Chuyển luân vương liền dẫn bốn binh chủng đi theo sau. Phía
trước bảo vật bánh xe vàng có bốn vị thần dẫn đường. Bánh xe ngừng chỗ
nào, vua đình giá chỗ đó. Bấy giờ các Tiểu quốc vương thấy Ðại vương
đến, lấy bát vàng đựng đầy thóc bạc; bát bạc đựng đầy thóc vàng đi đến
chỗ Ðại vương, cúi đầu bạch rằng: Lành thay, Ðại vương! Nay, ở phương
Ðông này, đất đai phong phú, vui tươi, có nhiều trân bảo, nhân dân đông
đúc, tâm chí nhân ái, hòa thuận, từ hiếu, trung thuận. Cúi nguyện Thánh
vương hãy ở đây mà trị chính. Chúng tôi sẽ gần gũi hầu hạ, cung cấp
những thứ cần dùng. Khi ấy, Chuyển luân vương nói với các Tiểu vương:
Thôi, thôi! Này các hiền, các người như vậy là đã cúng dường ta rồi.
Nhưng hãy theo chánh pháp mà cai trị giáo hóa, chớ để thiên lệch; không
để quốc nội có hành vi phi pháp. Tự mình không sát sanh; khuyên bảo
người khác không sát sanh, trộm cướp, tà dâm, hai lưỡi, ác khẩu, nói
dối, thêu dệt, tham lam, tật đố, tà kiến. Ðó gọi là sự cai trị của ta
vậy.
“Các Tiểu vương sau khi nghe lời dạy, liền đi theo Ðại vương, tuần hành các nước. Cho đến tận cùng bờ biển phía Ðông.
“Sao đó, lần lượt đi về phương Nam, phương Tây, phương Bắc. Bất cứ
chỗ nào mà bánh xe lăn đến, các Quốc vương ở đó đều dâng hiến quốc thổ;
cũng như các Tiểu vương ở phương Ðông vậy.
“Tất cả đất đai có trong Diêm-phù-đề này, màu mỡ, phong phú, sản xuất
nhiều trân bảo, những nơi có rừng, có nước trong sạch, bánh xe đều lăn
khắp; ấn định biên giới, vẽ bản đồ, Ðông Tây mười hai do-tuần, Nam Bắc
mười do-tuần. Vào ban đêm, các thần ở trong đó xây dựng thành quách.
Thành có bảy lớp, với bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây,
những trang hoàng chung quanh, đều được làm bằng bảy báu. cho đến vô số
các loài chim cùng họa nhau mà hót. Thành được xây xong, bánh xe vàng
lại xuất hiện trong thành, qui định địa giới Ðông Tây bốn do-tuần, Nam
Bắc hai do-tuần. Vào ban đêm, các thần ở trong đó xây dựng cung điện.
Tường cung có bảy lớp, được làm bằng bảy báu. cho đến vô số các loài
chim cùng họa nhau mà hót, như đã kể trên.
“Cung điện được dựng xong, khi ấy bảo vật bánh xe vàng trụ giữa hư
không, ngay phía trước cung điện, hoàn toàn không chuyển động. Chuyển
luân vương phấn khởi nói: Nay bảo vật bánh xe vàng này thật sự là điềm
lành cho ta. Ta nay thật sự là Chuyển luân thánh vương.
“Ðó là sự thành tựu bánh xe vàng.
“Voi trắng được thành tựu như thế nào? Chuyển luân thánh vương, vào
buổi sáng sớm, ngồi trên chánh điện. Tự nhiên voi trắng bỗng xuất hiện
trước mặt. Lông của nó thuần trắng, bảy chỗ bằng phẳng, có khả năng phi
hành. Ðầu của có nhiều màu; sáu ngà thon dài được cẩn bằng vàng ròng.
Thấy thế vua liền nghĩ thầm: Con voi này khôn. Nếu khéo huấn luyện, có
thể cưỡi. Bèn cho huấn luyện thử, đầy đủ các kỹ năng. Khi ấy, Chuyển
luân vương muốn thử voi, bèn cưỡi lên nó, vào buổi sáng sớm, xuất thành,
đi quanh khắp bốn biển. Cho đến giờ ăn trưa thì trở về. Chuyển luân
vương phấn khởi nói: Bảo vật voi trắng này thật sự là một điềm lành cho
ta. Ta nay thật sự là Chuyển luân thánh vương.
“Ðó là sự thành tựu báu voi.
“Thế nào là sự thành tựu ngựa xanh của Chuyển luân vương? Khi ấy,
Chuyển luân thánh vương, vào buổi sáng sớm, ngồi tại chánh điện, tự
nhiên bảo vật là ngựa bỗng xuất hiện trước mặt. Màu nó xanh thẫm, bờm và
đuôi đỏ . Thấy thế, vua liền nghĩ thầm: Con ngựa này khôn. Nếu khéo
huấn luyện, có thể cưỡi. Bèn cho huấn luyện thử, đầy đủ các kỹ năng. Khi
ấy, Chuyển luân vương muốn thử ngựa, bèn cưỡi lên nó, vào buổi sáng
sớm, xuất thành, đi quanh khắp bốn biển. Cho đến giờ ăn trưa thì trở về.
Chuyển luân vương phấn khởi nói: Bảo vật ngựa xanh này thật sự là một
điềm lành cho ta. Ta nay thật sự là Chuyển luân thánh vương.
“Ðó là sự thành tựu ngựa xanh.
“Báu thần châu được thành tựu như thế nào? Chuyển luân Thánh vương,
vào buổi sáng sớm, ngồi trên chánh điện. Tự nhiên thần châu bỗng xuất
hiện trước mặt. Màu chất trong suốt, không có tỳ vết. Sau khi thấy, vua
tự nghĩ: Châu này thật tuyệt vời. Nếu có ánh sáng, có thể rọi cung nội.
Rồi Chuyển luân thánh vương muốn thử hạt châu này, bèn triệu tập bốn
binh chủng. Ðặt bảo châu trên cây phướn cao. Trong lúc đêm tối, cầm cây
phướn xuất thành. Ánh sáng của hạt châu này rọi đến một do-tuần. Những
người ở trong thành đều thức dậy làm việc, cho rằng bây giờ là ban ngày.
Chuyển luân vương khi ấy phấn khởi nói: Nay thần châu này thật sự là
điềm lành cho ta. Ta nay thật sự là Chuyển luân thánh vương.
“Ðó là sự thành tựu báu thần châu.
“Báu ngọc nữ được thành tựu như thế nào? Khi ấy, báu ngọc nữ bỗng
nhiên xuất hiện, nhan sắc thung dung, diện mạo đoan chánh; không dài,
không vắn; không thô, không nhỏ; không trắng, không đen; không cương,
không nhu; mùa đông thì thân ấm, mùa hè thì thân mát. Từ các lỗ chân
lông khắp mình phát ra mùi hương Chiên-đàn; miệng phát ra mùi hương của
hoa Ưu-bát-la; nói năng dịu dàng; cử động khoan thai; đứng dậy trước
(vua) nhưng ngồi xuống sau (vua), không mất nghi tắc. Chuyển luân thánh
vương sau khi thấy, tâm không mê đắm, không chút mơ tưởng, huống hồ gần
gũi. Chuyển luân vương sau khi thấy, phấn khởi mà nói: Báu ngọc nữ này
thật sự là điềm lành cho ta. Ta nay thật sự là Chuyển luân thánh vương.
“Ðó là sự thành tựu báu ngọc nữ.
“Báu cư sĩ được thành tựu như thế nào? Khi ấy, người đàn ông cư sĩ
bỗng nhiên tự xuất hiện; kho báu tự nhiên, tài sản vô lượng. Cư sĩ do
phước báu đời trước có cặp mắt có thể nhìn thấu suốt các hầm mỏ dưới
lòng đất; biết rõ hết thảy có chủ hay vô chủ. Kho nào có chủ, ông có thể
giữ gìn hộ. Kho nào vô chủ, ông lấy lên cho vua tiêu dùng. Rồi thì, báu
cư sĩ đi đến tâu vua: Ðại vương, cần cung cấp thứ gì, xin đừng lo lắng.
Tôi tự mình có thể giải quyết.
“Khi ấy, Chuyển luân thánh vương muốn thử báu cư sĩ, bèn ra lệnh sửa
soạn thuyền để du ngoạn thủy, bảo cư sĩ rằng: Ta cần bảo vật vàng, ngươi
hãy đưa nhanh đến cho. Báu cư sĩ tâu rằng: Ðại vương đợi một chút; cần
phải lên bờ đã. Vua lại hối thúc: Ta nay đang cần dùng. Ngươi hãy mang
đến liền cho ta. Khi báu cư sĩ bị vua ra nghiêm lệnh, bèn quỳ mọp trên
thuyền, dùng tay mặt thọc xuống nước. Khi ông rút tay lên thì một cái
bình báu từ trong nước cũng lên theo. Giống như con sâu leo cây. Báu cư
sĩ kia cũng vậy. Khi rút bàn tay lên khỏi nước thì bình báu cũng lên
theo, để đầy cả thuyền. Rồi ông tâu vua: Vừa rồi vua cần bảo vật để
dùng. Mà cần bao nhiêu? Chuyển luân Thánh vương Chuyển luân thánh vương
khi ấy nói với cư sĩ: Thôi, thôi! Ta không cần dùng gì. Vừa rồi,
ta chỉ muốn thử mà thôi. Ngươi nay như thế là đã cúng dường ta rồi. Cư
sĩ nghe vua nói như vậy, liền đem bảo vật trả lại trong nước. Khi ấy,
Chuyển luân Thánh vương Chuyển luân thánh vương phấn khởi nói rằng: Báu
cư sĩ này thật sự là điềm lành của ta. Ta nay thật sự là Chuyển luân
thánh vương.
“Ðó là sự thành tựu báu cư sĩ.
“Báu chủ binh được thành tựu như thế nào? Khi ấy, báu chủ binh bỗng
nhiên xuất hiện, đủ trí mưu, hùng mãnh, sách lược sáng suốt, quyết đoán;
đi ngay đến chỗ vua, tâu rằng: Ðại vương, cần chinh phạt chỗ nào, xin
đừng lo. Tôi có thể đảm trách. Rồi Chuyển luân thánh vương muốn thử báu
chủ binh, bèn tập hợp bốn binh chủng, bảo rằng: Ngươi nay hãy điều binh.
Chưa tập họp thì tập họp lại. Ðã tập họp thì giải tán. Chưa nghiêm, hãy
làm cho nghiêm. Ðã nghiêm, hãy cởi mở. Chưa đi, hãy khiến đi. Ðã đi,
hãy khiến dừng. Báu chủ binh nghe vua nói xong, bèn điều động bốn binh
chủng, Chưa tập họp thì tập họp lại. Ðã tập họp thì giải tán. Chưa
nghiêm, làm cho nghiêm. Ðã nghiêm, thì cởi mở. Chưa đi, thì khiến đi. Ðã
đi, thì khiến dừng. Khi ấy Chuyển luân Thánh vương Chuyển luân
thánh vương phấn khởi nói rằng: Báu chủ binh này thật sự là điềm lành
của ta. Ta nay thật sự là Chuyển luân thánh vương.
“Ðó là sự thành tựu báu chủ binh.
“Thế nào là bốn thần đức? Một là không ai bì kịp về tuổi thọ, không
yểu số. Hai, không ai bì kịp về thân thể cường tráng, không bệnh hoạn.
Ba, không ai bì kịp về nhan mạo đoan chánh. Bốn, không ai bì kịp về sự
giàu có, kho tàng châu báu đầy dẫy.
“Ðó là Chuyển luân thánh vương thành tựu bảy báu và bốn thần đức.
“Vào một lúc, rất lâu về sau, Chuyển luân thánh vương ra lệnh ngự giá
xuất du ở hậu viên, bèn bảo người đánh xe: Ngươi hãy đánh xe đi cho
khéo. Ta muốn quan sát rõ nhân dân trong quốc thổ có an lạc, không tai
họa gì chăng.
“Bấy giờ nhân dân trong nước đứng dọc các con đường, nói với người
đánh xe rằng: Ông cho xe đi chậm lại. Chúng tôi muốn nhìn ngắm rõ uy
nhan của Thánh vương.
“Chuyển luân thánh vương thương yêu chăm sóc nhân dân như cha yêu
con. Quốc dân mến mộ vua cũng như con trông lên cha. Có những gì trân
quý đều đem cống vua, tâu rằng: Xin nguyện hạ cố thọ nhận, tùy ý sử
dụng. Khi ấy vua trả lời: Thôi đủ rồi, các người! Ta tự mình có đủ tài
bảo. Các người hãy tự thọ dụng của mình.
“Khi Chuyển luân thánh vương cai trị Diêm-phù-đề này, cõi đất ấy bằng
phẳng, không có gai góc, hầm hố, gò nổng; cũng không có muỗi mòng, ruồi
nhặng, ong, bò cạp, rắn rết, sâu độc, đá cát, sạn sỏi; tất cả lặn mất.
Vàng, bạc, báu ngọc hiện lên mặt đất. Bốn mùa điều hòa, không nóng,
không lạnh. Ðất ấy mềm mại, không có bụi bẩn. Như đất được bôi dầu, sạch
sẽ, trơn láng, không có bụi bẩn. Khi Chuyển luân Thánh vương Chuyển
luân thánh vương cai trị ở đời, cõi đất cũng như vậy. Từ đất tuôn ra các
dòng suối, trong sạch, không bao giờ cạn, sanh loại cỏ mềm mại, mùa
đông vẫn xanh tươi. Cây cối sầm uất, hoa trái xum xuê. Ðất sanh cỏ mềm,
màu như đuôi lông công, mùi hương hoa bà-sư, mềm mại như lụa trời. Khi
đạp chân xuống đất; đất lõm xuống bốn tấc. Khi dở chân lên, đất trở lại
như cũ, không có chỗ khuyết rỗng. Có loại lúa tẻ mọc tự nhiên, không có
vỏ trấu, đủ các mùi vị. Bấy giờ có cây hương, hoa trái xum xuê. Khi trái
chín, trái tự nhiên nứt, tỏa ra mùi hương tự nhiên; hương thơm sực nức.
Lại có cây vải, hoa trái xum xuê. Khi trái chín, vỏ nó tự nứt ra, cho
ra các loại vải khác nhau. Lại có cây trang sức, hoa trái xum xuê. Khi
trái chín, vỏ nó tự nứt ra, cho ra các đồ trang sức khác nhau. Lại có
cây tràng hoa, hoa trái xum xuê. Khi trái chín, vỏ nó tự nứt ra, cho ra
các loại tràng hoa khác nhau. Lại có cây dụng cụ, hoa trái xum xuê. Khi
trái chín, vỏ nó tự nứt ra, cho ra các thứ dụng cụ khác nhau. Lại có cây
nhạc cụ, hoa trái xum xuê. Khi trái chín, vỏ nó tự nứt ra, cho ra các
loại nhạc cụ khác nhau.
“Khi Chuyển luân thánh vương cai trị ở đời, Long vương A-nậu-đạt ,
vào lúc giữa đêm và cuối đêm, nổi lên đám mây lớn dày đặc, giăng bủa
khắp cả thế giới, trút xuống cơn mưa lớn. Như trong khoảng thời gian vắt
sữa bò; mưa xuống thứ nước có tám vị, thấm ướt khắp nơi. Ðất không đọng
nước, cũng không bùn sình, thấm nhuần, đẫm ướt, sanh trưởng các loại cỏ
cây. Cũng như thợ hớt tóc, rưới nước tràng hoa, khiến hoa tươi thắm,
không để héo úa. Những cơn mưa phải thời thấm nhuần cũng như vậy.
“Lại nữa, bấy giờ vào lúc giữa đêm và cuối đêm, bầu trời trong sáng,
tịnh không chút mây, từ biển nổi cơn gió mát, trong sạch mát dịu, chạm
đến thân thể khiến sanh khoan khoái.
“Khi Thánh vương cai trị, trong cõi Diêm-phù-đề này ngũ cốc dồi dào,
nhân dân đông đúc, tài bảo phong phú, không thiếu thốn thứ gì.
“Ðương thời, Chuyển luân thánh vương trị nước bằng Chánh pháp, không
có dua vạy, tu mười hành vi thiện. Lúc bấy giờ, nhân dân cũng tu chánh
kiến, đủ mười hành vi thiện.
“Một thời gian lâu, rất lâu về sau, vua nhuốm bệnh nặng mà mạng
chung. Cũng như một người do sung sướng mà ăn hơi nhiều, thân thể có hơi
không thích hợp, cho nên mạng chung, sanh lên cõi trời. Khi ấy, báu
ngọc nữ, báu cư sĩ, báu chủ binh, cùng nhân dân trong nước tấu các kỹ
nhạc, làm lễ tẩn táng thân vua. Rồi báu ngọc nữ, báu cư sĩ, báu chủ binh
và sĩ dân trong nước, tắm gội thân thể vua bằng nước thơm, quấn quanh
bằng năm trăm tấm lụa kiếp-bối; theo thứ lớp mà quấn. Rồi khiêng thi thể
vua đặt vào quan tài bằng vàng, rưới lên dầu thơm, bọc bên ngoài cỗ
quách bằng sắt; rồi lại dùng một cỗ quách bằng gỗ bao ngoài bằng lớp
vải. Chất các củi thơm, phủ lên nhiều lớp vải. Sau đó thì hỏa táng. Ở
ngã tư đường dựng tháp bảy báu, dọc ngang một do-tuần, xen kẽ nhiều màu
sắc
được tạo thành bởi bảy báu. Ở bốn mặt tháp, mỗi mặt có một cửa, bao
quanh bằng lan can được làm bằng bảy báu. Khoảng đất trống chung quanh
bốn mặt tháp dọc ngang năm do-tuần. Có bảy lớp tường bao quanh vườn, với
bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây. Tường bằng vàng, cửa
bằng bạc; tường bằng bạc, cửa bằng vàng. Tường lưu ly, cửa thủy tinh;
tường thủy tinh, cửa lưu ly. Tường xích châu, cửa mã não; tường mã não,
cửa xích châu. Tường xa cừ, cửa bằng các loại báu.
“Về lan can, thanh ngang bằng vàng, thanh đứng bằng bạc; thanh ngang
bằng bạc, thanh đứng bằng vàng. Thanh ngang thủy tinh, thanh đứng lưu
ly; thanh ngang lưu ly, thanh đứng thủy tinh. Thanh ngang xích châu,
thanh đứng mã não; thanh ngang mã não, thanh đứng xích châu. Thanh ngang
bằng xa cừ, thanh đứng bằng các thứ báu khác.
“Dưới lớp lưới bằng vàng treo linh bằng bạc, dưới lưới bạc treo linh
vàng. Dưới lưới lưu ly treo linh thủy tinh, dưới lưới thủy tinh treo
linh lưu ly. Dưới lưới xích châu treo linh mã não, dưới lưới mã não treo
linh xích châu. Dưới lưới xa cừ treo linh bằng các thứ báu khác.
“Cây bằng vàng thì lá, hoa, trái bằng bạc. Cây bạc thì lá, hoa, trái
vàng. Cây lưu ly, hoa lá thủy tinh; cây thủy tinh, hoa lá lưu ly. Cây
xích châu, hoa lá mã não; cây mã não, hoa lá xích châu. Cây xa cừ, hoa
lá bằng các thứ báu khác.
“Bốn vách tường của vườn lại có bốn cửa, bao quanh bằng lan can. Trên
tường đều có lầu các, đài báu. Bốn mặt tường có các vườn cây, suối, hồ
tắm, sinh nhiều loại hoa khác nhau; cây cối sầm uất, hoa trái xum xuê,
các loại hương thơm sực nức. Nhiều giống chim lạ ca hót điệu buồn. Khi
tháp được dựng xong, báu ngọc nữ, báu cư sĩ, báu điển binh và sĩ dân cả
nước đều đến cúng dường tháp này. Họ bố thí cho những người nghèo khốn,
cần ăn thì cho ăn; cần mặc thì cho mặc. Voi, ngựa, xe cộ, các thứ cần
dùng đều được chu cấp, tùy ý mà cho.
“Công đức oai thần của Chuyển luân thánh vương, sự tích là như vậy.”
PHẨM 4: ÐỊA NGỤC
Phật bảo các Tỳ-kheo:
“Bên ngoài của bốn châu thiên hạ này, có tám ngàn thiên hạ bao quanh.
Lại có biển lớn bao quanh tám ngàn thiên hạ. Kế đó có núi Ðại Kim cang
bao bọc biển lớn. Bên ngoài núi Ðại kim cang này lại có núi Ðại kim
cang thứ hai. Giữa hai núi này là một cảnh giới mờ mịt, tối tăm; mặt
trời, mặt trăng, các vị thần, trời dù có uy lực cũng không thể dùng ánh
sáng soi chiếu đến đó được.
“Ở nơi này có tám địa ngục lớn, mỗi địa ngục lớn có mười sáu địa ngục
nhỏ. Ðịa ngục lớn thứ nhất gọi là Tưởng. Thứ hai là địa ngục Hắc thằng.
Thứ ba là địa ngục Ðôi áp. Thứ tư là địa ngục Khiếu hoán. Thứ năm là
địa ngục Ðại khiếu hoán. Thứ sáu là địa ngục Thiêu chích . Thứ bảy là
địa ngục Ðại thiêu chích . Thứ tám là địa ngục Vô gián.
“Trong địa ngục Tưởng có mười sáu ngục nhỏ ; mỗi địa ngục nhỏ ngang
dọc năm trăm do-tuần. Ngục nhỏ thứ nhất là Hắc sa, hai là Phất thỉ, ba
là Ngũ bách đinh, bốn là Cơ, năm là Khát, sáu là một Ðồng phủ, bảy là Ða
đồng phủ, tám là Thạch ma, chín là Nùng huyết, mười là Lượng hỏa, mười
một là Hôi hà, mười hai là Thiết hoàn, mười ba là Cân phủ, mười bốn là
Sài lang, mười lăm là Kiếm thọ, mười sáu là Hàn băng.
“Vì sao gọi là địa ngục Tưởng? Vì chúng sanh ở trong đó, trên tay của
chúng mọc móng sắt; móng này vừa dài vừa bén. Chúng thù hận nhau, luôn
có ý tưởng độc hại, dùng móng tay cào cấu lẫn nhau, chạm tay vào chỗ nào
là chỗ đó thịt rớt xuống, tưởng là đã chết; có cơn gió lạnh thổi đến,
da thịt sinh ra trở lại, giây lát chúng sống lại, đứng dậy, tự mình có ý
tưởng rằng: Ta nay đã sống lại. Chúng sanh khác nói: Ta có ý tưởng
ngươi đang sống. Vì sự tưởng này cho nên gọi là địa ngục Tưởng.
“Lại nữa, chúng sanh ở trong địa ngục Tưởng này, lúc nào cũng nghĩ
đến sự độc hại, phá hại lẫn nhau. Tay họ cầm một loại đao kiếm tự nhiên,
vừa nhọn vừa bén, đâm chém lẫn nhau, lóc da xẻ thịt, bằm nát thân thể
rớt xuống đất và họ tưởng mình đã chết, nhưng bỗng một cơn gió lạnh thổi
đến, da thịt sanh ra lại, làm cho họ sống lại đứng dậy, tự nghĩ và nói:
Ta nay đã sống lại. Chúng sanh khác nói: Ta cũng nghĩ là ngươi đã sống
lại. Vì lý do đó nên gọi là địa ngục Tưởng.
“Lại nữa, những chúng sanh ở trong địa ngục Tưởng đó, lúc nào cũng ôm
trong lòng ý tưởng độc hại; chúng quấy phá lẫn nhau. Tay chúng cầm một
loại đao kiếm tự nhiên, vừa nhọn vừa bén, đâm chém lẫn nhau, lóc da xẻ
thịt, thân thể rã rời dưới đất, tưởng là đã chết, nhưng một cơn gió lạnh
thổi đến, da thịt sanh ra lại, giây lát sống lại, đứng dậy, tự có ý
tưởng rằng: Ta nay đã sống lại. Chúng sanh khác nói: Ta có ý tưởng ngươi
đang sống. Vì lý do đó nên gọi là địa ngục Tưởng.
“Lại nữa, địa ngục Tưởng là nơi mà những chúng sanh lúc nào cũng ôm
lòng độc hại, quấy phá lẫn nhau. Tay chúng cầm một loại đao kiếm, vừa
nhọn vừa bén, đâm chém lẫn nhau, lóc da xẻ thịt và tưởng là đã chết,
nhưng bỗng một cơn gió lạnh thổi đến, da thịt sanh ra lại, giây lát sống
lại đứng dậy, tự có ý tưởng rằng: Ta nay đã sống lại. Chúng sanh khác
nói: Ta có ý tưởng ngươi đang sống. Vì lý do đó nên gọi là địa ngục
Tưởng.
“Lại nữa, địa ngục Tưởng là nơi mà những chúng sanh lúc nào cũng ôm ý
tưởng độc hại, quấy phá lẫn nhau. Tay chúng cầm một loại dao bóng dầu,
vừa nhọn vừa bén, đâm chém lẫn nhau, lóc da xẻ thịt, tưởng là đã chết,
nhưng bỗng một cơn gió lạnh thổi đến, da thịt sanh ra lại, giây lát sống
lại, đứng dậy, tự có ý tưởng rằng: Ta nay đã sống lại. Chúng sanh khác
nói: Ta có ý tưởng ngươi đang sống. Vì lý do đó nên gọi là địa ngục
Tưởng.
“Lại nữa, địa ngục Tưởng là nơi mà những chúng sanh lúc nào cũng ôm ý
tưởng độc hại, quấy phá lẫn nhau. Tay chúng cầm một loại dao nhỏ, vừa
nhọn vừa bén, đâm chém lẫn nhau, lóc da xẻ thịt, tưởng là đã chết, nhưng
bỗng một cơn gió lạnh thổi đến, da thịt sanh ra lại, giây lát sống lại,
đứng dậy, tự mình có ý tưởng rằng: Ta nay đã sống lại. Chúng sanh khác
nói: Ta có ý tưởng ngươi đang sống. Vì lý do đó nên gọi là địa ngục
Tưởng.
“Những chúng sanh ở trong đó, sau khi chịu khổ lâu, ra khỏi địa ngục
Tưởng, hoảng hốt chạy càn để tự cứu mình. Nhưng vì tội quá khứ lôi kéo,
nên bất ngờ lại đến địa ngục Hắc sa. Bấy giờ, có một cơn gió nóng dữ dội
bốc lên, thổi cát đen nóng dính vào thân nó, khiến toàn thân đều đen,
giống như đám mây đen. Cát nóng đốt da, hết thịt, vào tận xương. Sau đó,
trong thân tội nhân có một ngọn lửa đen bộc phát, đốt cháy quanh thân
rồi vào bên trong, chịu các khổ não, bị thiêu nướng, cháy nám. Vì nhân
duyên tội, nên chịu khổ báo này. Nhưng vì tội chưa hết, nên khiến cho
tội nhân không chết được.
“Sau một thời gian, chịu khổ khá lâu ở trong đó, nó ra khỏi địa ngục
Hắc sa, hoảng hốt chạy càn, để tự cứu mình. Nhưng vì tội quá khứ lôi
kéo, nên bất ngờ lại đến địa ngục Phất thỉ. Trong địa ngục này có những
hòn sắt là phân sôi tự nhiên đầy dẫy trước mặt, đuổi bức tội nhân phải
ôm hòn sắt nóng, đốt cháy thân và tay, đến đầu và mặt tội nhân; không
đâu là không bị đốt cháy; lại khiến cho tội nhân bốc hòn sắt bỏ vào
miệng, đốt cháy cả môi, lưỡi, từ yết hầu đến bụng, từ trên đến dưới đều
bị cháy tiêu hết. Có một loài trùng mỏ sắt ăn da thịt, tận cả xương tủy,
đau đớn nhức nhối, lo sợ vô cùng. Nhưng vì tội chưa hết, nên khiến cho
tội nhân không chết được.
“Sau một thời gian, chịu khổ lâu ở trong địa ngục Phất thỉ, tội nhân
ra khỏi địa ngục này, hoảng hốt chạy càn, để tự cứu mình, không ngờ lại
đến địa ngục Thiết đinh. Sau khi đã vào đó, ngục tốt đánh tội nhân cho
té xuống, nằm mọp trên sắt nóng, căng thẳng thân thể nó ra, dùng đinh
đóng tay, đóng chân, đóng vào tim. Toàn thân bị đóng hết thảy năm trăm
cái đinh. Nó đau đớn nhức nhối, kêu la rên xiết. Nhưng vì tội chưa hết,
nên khiến cho tội nhân không chết được.
“Sau một thời gian, chịu khổ lâu, tội nhân ra khỏi địa ngục Thiết
đinh, hoảng hốt chạy càn, để tự cứu mình, không ngờ lại đến địa ngục Cơ.
Ngục tốt đến hỏi: Các người đến đây muốn điều gì? Tội nhân đáp: Tôi đói
quá. Tức thì ngục tốt bắt tội nhân quăng lên bàn sắt nóng, căng thân
thể ra, dùng móc câu cạy miệng cho mở ra, rồi lấy hòn sắt nóng bỏ vào
trong miệng, đốt cháy môi lưỡi, từ cổ cho đến bụng, chạy tuốt xuống
dưới, không chỗ nào không đốt cháy, đau rát nhức nhối, khóc la rên xiết.
Nhưng vì tội chưa hết, nên khiến cho tội nhân không chết được.
“Sau một thời gian, chịu khổ lâu, tội nhân ra khỏi địa ngục Cơ, hoảng
hốt chạy càn, để tự cứu mình, không ngờ lại đến địa ngục Khát. Ngục tốt
liền hỏi: Các ngươi đến đây, muốn cầu điều gì? Tội nhân đáp: Tôi khát
quá. Ngục tốt liền bắt tội nhân quăng lên bàn sắt nóng, căng thân thể ra
rồi dùng móc câu cạy miệng tội nhân ra, lấy nước đồng sôi rót vào trong
miệng đốt cháy môi, lưỡi, từ cổ cho đến bụng, suốt từ trên xuống dưới,
không chỗ nào không đốt cháy, đau rát nhức nhối, khóc la rên xiết. Nhưng
vì tội chưa hết, nên khiến cho tội nhân không chết được.
“Sau một thời gian, chịu khổ lâu, tội nhân ra khỏi địa ngục Khát,
hoảng hốt chạy càn, để tự cứu mình, không ngờ lại đến địa ngục một Ðồng
phúc. Ngục tốt trợn mắt giận dữ, nắm chân tội nhân ném vào trong vạc
đồng, theo nước sôi sùng sục, trồi lên hụp xuống, từ đáy đến miệng, rồi
từ miệng cho đến đáy, hoặc ở giữa vạc, cả thân thể bị nấu nhừ. Cũng như
nấu đậu, hạt đậu tùy theo nước sôi, trào lên lộn xuống, các hạt đậu cả
trong ngoài đều được nấu nhừ. Tội nhân trồi lên sụp xuống trong vạc dầu
sôi cũng như vậy. Kêu gào bi thảm, hàng vạn độc hại cùng đến; nhưng vì
tội chưa hết, nên khiến cho tội nhân không chết được.
“Sau một thời gian, chịu khổ lâu, tội nhân ra khỏi địa ngục một Ðồng
phúc, hoảng hốt chạy càn, để tự cứu mình, nhưng bị tội đời trước lôi
kéo, bất ngờ lại rơi vào địa ngục Ða đồng phúc. Ðịa ngục này ngang dọc
năm trăm do-tuần. Ngục tốt trợn mắt giận dữ, nắm chân tội nhân ném vào
trong vạc đồng, theo nước sôi sùng sục, trồi lên hụp xuống, từ đáy đến
miệng, rồi từ miệng cho đến đáy, hoặc ở giữa vạc, cả thân thể bị nấu
nhừ. Cũng như nấu đậu, hạt đậu tùy theo nước sôi, trào lên lộn xuống,
các hạt đậu cả trong ngoài đều được nấu nhừ. Tội nhân trồi lên sụp xuống
trong vạc dầu sôi cũng như vậy, tùy theo nước sôi mà trồi lên sụp
xuống, từ miệng vạc cho đến đáy vạc, rồi từ đáy cho đến miệng, hoặc tay
chân nổi lên, hoặc lưng bụng nổi lên, hoặc đầu mặt nổi lên. Ngục tốt
dùng
lưỡi câu móc để trong vạc đồng khác. Nó kêu khóc thảm thiết, đau đớn
nhức nhối. Nhưng vì tội chưa hết, nên khiến cho tội nhân không chết
được.
“Sau một thời gian, chịu khổ lâu, tội nhân ra khỏi địa ngục Ða đồng
phúc, hoảng hốt chạy càn, để tự cứu mình, nhưng bị tội đời trước lôi
kéo, không ngờ lại rơi vào địa ngục Thạch ma. Ðịa ngục này ngang dọc năm
trăm do-tuần. Ngục tốt thịnh nộ, bắt tội nhân quăng lên tảng đá nóng,
căng tay chân ra, dùng đá tảng nóng lớn đè trên thân tội nhân, mài tới
mài lui làm cho xương nát vụn, máu mủ chảy ra, đau đớn nhức nhối, khóc
la thảm thiết. Nhưng vì tội chưa hết, nên khiến cho tội nhân không chết
được.
“Sau một thời gian, chịu khổ lâu, tội nhân ra khỏi địa ngục Thạch ma,
hoảng hốt chạy càn, để tự cứu mình, nhưng bị tội đời trước lôi kéo,
không ngờ lại rơi vào địa ngục Nùng huyết. Ðịa ngục này ngang dọc năm
trăm do-tuần. Trong địa ngục này tự nhiên có máu mủ nóng sôi sục trào
vọt. Tội nhân ở trong đó chạy Ðông, chạy Tây, bị máu mủ sôi nóng luộc
chín toàn thân, đầu, mặt, tay, chân, tất cả đều nát nhừ. Tội nhân còn
phải ăn máu mủ nóng, miệng, môi đều bị bỏng, từ cổ cho đến bụng, suốt
trên xuống dưới không chỗ nào không nát nhừ, đau đớn nhức nhối, không
thể chịu nổi. Nhưng vì tội chưa hết, nên khiến cho tội nhân không chết
được.
“Sau một thời gian, chịu khổ lâu, tội nhân ra khỏi địa ngục Nùng
huyết, hoảng hốt chạy càn, để tự cứu mình, nhưng bị tội đời trước lôi
kéo, không ngờ lại rơi vào địa ngục Lượng hỏa. Ðịa ngục này ngang dọc
năm trăm do-tuần. Trong địa ngục này có một đống lửa lớn, tự nhiên xuất
hiện trước mặt, lửa cháy hừng hực. Ngục tốt hung dữ, bắt tội nhân tay
cầm cái đấu bằng sắt, để đong đống lửa ấy. Khi họ đong lửa, thì lửa đốt
cháy tay chân và cả toàn thân, họ đau đớn vô cùng, kêu la thảm thiết.
Nhưng vì tội chưa hết, nên khiến cho tội nhân không chết được.
“Sau một thời gian, chịu khổ lâu, tội nhân ra khỏi địa ngục Lượng
hỏa, hoảng hốt chạy càn, để tự cứu mình, nhưng bị tội đời trước lôi kéo,
không ngờ lại rơi vào địa ngục Hôi hà. Ðịa ngục này ngang dọc năm trăm
do-tuần, sâu năm trăm do-tuần. Tro sôi sùng sục, độc khí xông lên phừng
phực, các dòng xoáy vỗ nhau, âm vang thật đáng sợ, từ đáy lên bên trên
có gai sắt dọc ngang với mũi nhọn dài tám tấc. Bên bờ sông lại có một
loại dao kiếm dài, có cả ngục tốt, sài lang. Hai bên bờ sông mọc những
đao kiếm dài, nhánh, lá, hoa, trái đều là đao kiếm, vừa nhọn vừa bén, cỡ
tám tấc, đứng bên là những ngục tốt, sài lang. Trên bờ sông có rừng mà
cây là gươm với cành, lá, hoa, trái đều là đao kiếm, mũi nhọn tám tấc.
Tội nhân vào trong sông, tùy theo lượn sóng lên xuống, mà trồi lên
hụp xuống. Toàn thân đều bị gai sắt đâm thủng từ trong ra ngoài, da thịt
nát bét, máu mủ dầm dề, đau đớn muôn chiều, kêu la thảm thiết. Nhưng vì
tội chưa hết, nên khiến cho tội nhân không chết được.
“Sau một thời gian chịu khổ lâu, tội nhân ra khỏi địa ngục Hôi hà,
lên được trên bờ, nhưng ở trên bờ lại có nhiều gươm giáo sắc bén đâm
thủng toàn thân, tay chân bị thương tổn. Bấy giờ quỷ sứ hỏi tội nhân:
Các ngươi đến đây muốn cầu điều chi? Tội nhân đáp: Chúng tôi đói quá.
Ngục tốt liền bắt tội nhân quăng lên sắt nóng, căng thân thể ra rồi dùng
móc câu cạy miệng tội nhân ra, lấy nước đồng sôi rót vào, cháy bỏng
môi, lưỡi, từ cổ đến bụng, suốt trên xuống dưới, không chỗ nào không
rục. Lại có loài lang sói răng nanh vừa dài vừa bén đến cắn tội nhân, ăn
thịt khi tội nhân đang sống. Rồi thì, tội nhân bị sông tro đun nấu, bị
gai nhọn đâm thủng, bị rót nước đồng sôi vào miệng và bị sài lang ăn
thịt xong, thì lại leo lên rừng kiếm; khi leo lên rừng kiếm thì bị đao
kiếm
chỉa xuống; khi tuột xuống rừng kiếm thì bị đao kiếm chỉa lên, khi tay
nắm thì cụt tay, chân dẫm lên thì cụt chân; mũi nhọn đâm thủng toàn thân
từ trong ra ngoài, da thịt rơi xuống, máu mủ đầm đìa, chỉ còn xương
trắng, gân cốt liên kết với nhau. Bấy giờ, trên cây kiếm có một loại quạ
mỏ sắt đến mổ nát đầu và xương để ăn não của tội nhân. Nó đau đớn nhức
nhối kêu la thảm thiết. Nhưng vì tội chưa hết, nên khiến cho tội nhân
không chết được, lại bị trở lại địa ngục Hôi hà. Tội nhân này theo lượn
sóng lên xuống, mà trồi lên sụp xuống, gươm giáo đâm thủng toàn thân
trong ngoài, da thịt tan nát, máu mủ đầm đìa, chỉ còn xương trắng trôi
nổi bên ngoài. Bấy giờ, có một cơn gió lạnh thổi đến làm cho da thịt
phục hồi, giây lát nó đứng dậy đi, hoảng hốt chạy càn, để tự cứu mình,
nhưng vì tội quá khứ lôi kéo, tội nhân lại không ngờ sa vào địa ngục
Thiết hoàn. Ðịa ngục này ngang dọc năm trăm do-tuần. Khi tội nhân vào
đây, thì tự nhiên có những hòn sắt nóng hiện ra trước mặt. Ngục quỷ
cưỡng bức tội nhân nắm bắt, tay chân rã rời, toàn thân lửa đốt, đau đớn
kêu la thảm, muôn vàn khổ độc dồn đến chết. Nhưng vì tội chưa hết, nên
khiến cho tội nhân không chết được.
“Sau một thời gian chịu khổ lâu, tội nhân ra khỏi địa ngục Thiết
hoàn, hoảng hốt chạy càn, để tự cứu mình; nhưng vì bị tội quá khứ lôi
kéo, tội nhân bất ngờ lại sa vào địa ngục Cân phủ. Ðịa ngục này ngang
dọc năm trăm do-tuần. Khi tội nhân vào địa ngục này, ngục tốt hung dữ,
bắt tội nhân để trên bàn sắt nóng, dùng búa rìu bằng sắt nóng chặt thân
thể, tay, chân, cắt tai, xẻo mũi, làm cho đau đớn nhức nhối, kêu la thảm
thiết; nhưng vì tội chưa hết, nên họ không chết được.
“Sau một thời gian chịu khổ lâu, tội nhân ra khỏi địa ngục Cân phủ,
hoảng hốt chạy càn, để tự cứu mình; nhưng vì bị tội quá khứ lôi kéo, tội
nhân không ngờ lại sa vào địa ngục Sài lang. Ðịa ngục này ngang dọc năm
trăm do-tuần. Khi tội nhân vào địa ngục này, thì có bầy lang sói tranh
nhau cắn xé tội nhân, làm cho da thịt nhầy nhụa, xương gãy, thịt rơi,
máu chảy đầm đìa, làm đau đớn muôn vàn, kêu la thảm thiết; nhưng vì tội
cũ chưa hết, nên họ không chết được.
“Sau một thời gian chịu khổ lâu, tội nhân ra khỏi địa ngục Sài lang,
hoảng hốt chạy càn, mong cầu cứu hộ; nhưng vì bị tội quá khứ lôi kéo,
tội nhân bất ngờ lại sa vào địa ngục Kiếm thọ. Ðịa ngục này ngang dọc
năm trăm do-tuần. Khi tội nhân vào địa ngục này, thì có một cơn gió mãnh
liệt, thổi lá cây bằng gươm dao rớt trên thân thể tội nhân, hễ chạm vào
tay thì cụt tay, dính vào chân thì cụt chân, thân thể, đầu mặt không
đâu là không bị thương hoại. Có một loại quạ mỏ sắt, đứng trên đầu mổ
đôi mắt tội nhân, làm cho đau đớn muôn vàn, kêu la thảm thiết; nhưng vì
tội cũ chưa hết, nên không chết được.
“Sau một thời gian chịu khổ lâu, tội nhân ra khỏi địa ngục Kiếm thọ,
hoảng hốt chạy càn, mong cầu cứu hộ; nhưng vì bị tội quá khứ lôi kéo,
tội nhân bất ngờ lại sa vào địa ngục Hàn băng. Ðịa ngục này ngang dọc
năm trăm do-tuần. Khi tội nhân vào địa ngục này, thì có một cơn gió lạnh
buốt, thổi đến làm cho thân thể bị lạnh cóng, máu huyết đông đặc, da
thịt nứt nẻ, rớt ra từng mảnh, làm họ đau đớn vô cùng, kêu la thảm
thiết. Sau đó thì mạng chung.”
Phật bảo các Tỳ-kheo:
“Ðịa ngục lớn Hắc thằng có mười sáu địa ngục nhỏ bao bọc chung quanh,
mỗi địa ngục ngang dọc năm trăm do-tuần. Vì sao gọi là địa ngục Hắc
thằng? Vì ở đó các ngục tốt bắt tội nhân quăng lên bàn sắt nóng, căng
thân hình ra rồi dùng sợi dây sắt kéo ra cho thẳng, rồi dùng búa bằng
sắt nóng xẻ theo đường sợi dây, xẻ tội nhân kia thành trăm ngàn đoạn.
Giống như thợ mộc dùng dây kẻ vào cây rồi dùng búa bén theo đường mực mà
bổ ra thành trăm ngàn đoạn, thì cách hành hạ tội nhân ở đây cũng như
vậy, đau đớn vô cùng, không thể diễn tả hết được. Nhưng vì tội cũ chưa
hết, nên tội nhân không thể chết được. Vì thế nên gọi là địa ngục Hắc
thằng.
“Lại nữa, ngục tốt ở địa ngục Hắc thằng bắt tội nhân quăng lên bàn
sắt nóng, căng thân hình ra, dùng dây sắt nóng kéo ra cho thẳng, dùng
cưa để cưa tội nhân. Giống như người thợ mộc dùng dây mực kẻ trên thân
cây, rồi dùng cưa để cưa cây, thì cách hành hạ tội nhân ở đây cũng như
vậy, đau đớn vô cùng, không thể diễn tả hết được. Nhưng vì tội cũ chưa
hết, nên tội nhân không thể chết được. Vì thế gọi là địa ngục Hắc thằng.
“Lại nữa, ngục tốt ở địa ngục Hắc thằng bắt tội nhân quăng lên bàn
sắt nóng, căng thân thể ra, dùng dây sắt nóng để trên thân tội nhân, làm
cho da thịt bị thiêu đốt, tiêu xương chảy tủy đau đớn vô cùng, không
thể diễn tả hết được. Nhưng vì tội cũ chưa hết, nên tội nhân không thể
chết được. Vì thế gọi là địa ngục Hắc thằng.
“Lại nữa, ngục tốt ở địa ngục Hắc thằng dùng vô số dây sắt nóng treo
ngang, rồi bắt tội nhân đi giữa những sợi dây này, lúc đó lại có cơn gió
lốc nổi lên, thổi những sợi dây sắt nóng quấn vào thân, đốt cháy da
thịt, tiêu xương chảy tủy đau đớn vô cùng, không thể diễn tả hết được.
Nhưng vì tội cũ chưa hết, nên tội nhân không thể chết được. Vì thế gọi
là địa ngục Hắc thằng.
“Lại nữa, ngục tốt ở trong địa ngục Hắc thằng buộc tội nhân mặc áo
bằng dây sắt nóng, đốt cháy da thịt, tiêu xương chảy tủy đau đớn vô
cùng, không thể diễn tả hết được. Nhưng vì tội cũ chưa hết, nên tội nhân
không thể chết được. Vì thế gọi là địa ngục Hắc thằng.
“Sau thời gian chịu khổ lâu, tội nhân ra khỏi địa ngục Hắc thằng,
hoảng hốt chạy càn, mong cầu cứu hộ; nhưng vì bị tội quá khứ lôi kéo,
tội nhân bất ngờ lại sa vào địa ngục Hắc sa. cho đến địa ngục Hàn băng.
Sau đó thì tội nhân mạng chung.”
Phật bảo các Tỳ-kheo:
“Ðịa ngục lớn Ðôi áp có mười sáu địa ngục nhỏ bao bọc chung quanh;
mỗi ngục nhỏ ngang dọc năm trăm do-tuần. Vì sao gọi là địa ngục Ðôi áp?
Vì trong ngục đó có núi đá lớn, từng cặp đối nhau. Khi tội nhân vào giữa
thì hai hòn núi tự nhiên khép lại, ép thân thể tội nhân, xương thịt nát
vụn, xong rồi trở lại vị trí cũ, giống như hai thanh củi cọ vào nhau,
khi cọ xong dang ra, thì cách trị tội nhân của địa ngục này cũng như
vậy, đau đớn vô cùng, không thể diễn tả hết được. Nhưng vì tội cũ chưa
hết, nên tội nhân không thể chết được. Vì vậy nên gọi là địa ngục Ðôi
áp.
“Lại nữa, ở địa ngục Ðôi áp, có voi sắt lớn, toàn thân bốc lửa, vừa
kêu rống, vừa chạy đến dày xéo thân thể tội nhân, dẫm đi dẫm lại, làm
cho thân thể bị nghiền nát, máu mủ tuôn chảy, đau đớn muôn vàn, kêu la
thảm thiết. Nhưng vì tội cũ chưa hết, nên tội nhân không thể chết được.
Vì vậy nên gọi là địa ngục Ðôi áp.
“Lại nữa, các ngục tốt ở địa ngục Ðôi áp, bắt tội nhân đặt lên bàn đá
mài, rồi lấy đá mài mà mài, làm cho xương thịt vụn nát, máu mủ chảy dầm
dề, đau đớn vô cùng, kêu la thảm thiết. Nhưng vì tội cũ chưa hết, nên
tội nhân không thể chết được. Vì vậy nên gọi là địa ngục Ðôi áp.
“Lại nữa, các ngục tốt ở địa ngục Ðôi áp, bắt tội nhân nằm trên tảng
đá lớn, rồi lấy một tảng đá khác đè lên, làm cho xương thịt vụn nát, máu
mủ chảy đầm đìa, đau đớn nhức nhối, kêu la thảm thiết. Nhưng vì tội cũ
chưa hết, nên tội nhân không thể chết được. Vì vậy nên gọi là địa ngục
Ðôi áp.
“Lại nữa, các ngục tốt ở địa ngục Ðôi áp, bắt tội nhân nằm trong các
cối sắt, rồi dùng chày sắt để giã tội nhân, từ đầu đến chân, làm cho
xương thịt vụn nát, máu mủ chảy đầm đìa, đau đớn nhức nhối, kêu la thảm
thiết. Nhưng vì tội cũ chưa hết, nên tội nhân không thể chết được. Vì
vậy nên gọi là địa ngục Ðôi áp.
“Sau thời gian chịu khổ lâu, tội nhân ra khỏi địa ngục Ðôi áp, hoảng
hốt chạy càn, mong cầu cứu hộ; nhưng vì bị tội quá khứ lôi kéo, tội nhân
bất ngờ lại sa vào địa ngục Hắc sa. cho đến địa ngục Hàn băng, rồi sau
đó thì tội nhân mạng chung.”
Phật bảo các Tỳ-kheo:
“Ðịa ngục lớn Khiếu hoán có mười sáu địa ngục nhỏ bao quanh; mỗi ngục
nhỏ ngang dọc năm trăm do-tuần. Vì sao gọi là địa ngục Khiếu hoán? Vì
các ngục tốt trong ngục này bắt tội nhân bỏ vào trong vạc lớn, với nước
nóng sôi sục, nấu nhừ tội nhân, khiến chúng kêu la gào thét, đau đớn
nhức nhối, muôn vàn độc hại. Nhưng vì tội cũ chưa hết, nên tội nhân
không thể chết được. Vì vậy nên gọi là địa ngục Khiếu hoán.
“Lại nữa, ngục tốt ở địa ngục Khiếu hoán bắt tội nhân bỏ vào trong vò
sắt lớn, dùng nước nóng sôi sục, nấu nhừ tội nhân, khiến chúng đau đớn
vô cùng, kêu la thảm thiết. Nhưng vì tội cũ chưa hết, nên tội nhân không
thể chết được. Vì vậy nên gọi là địa ngục Khiếu hoán.
“Lại nữa, ngục tốt ở địa ngục Khiếu hoán bắt tội nhân bỏ vào trong
nồi sắt lớn, dùng nước nóng sôi sục, nấu nhừ tội nhân, khiến họ đau đớn
vô cùng, kêu la thảm thiết. Nhưng vì tội cũ chưa hết, nên tội nhân không
thể chết được. Vì thế nên gọi là địa ngục Khiếu hoán.
“Lại nữa, ngục tốt ở địa ngục Khiếu hoán bắt tội nhân ném vào trong
nồi nhỏ, dùng nước nóng sôi sục, nấu nhừ tội nhân, khiến chúng đau đớn
vô cùng, kêu la thảm thiết. Nhưng vì tội cũ chưa hết, nên tội nhân không
thể chết được. Vì vậy nên gọi là địa ngục Khiếu hoán.
“Lại nữa, ngục tốt ở địa ngục Khiếu hoán bắt tội nhân bỏ lên trên cái
nồi hầm, hầm đi hầm lại, khiến cho kêu gào, la thét, đau đớn vô cùng.
Nhưng vì tội cũ chưa hết, nên tội nhân không thể chết được. Vì vậy nên
gọi là địa ngục Khiếu hoán.
“Sau thời gian chịu khổ lâu, tội nhân ra khỏi địa ngục này, hoảng hốt
chạy càn, mong cầu cứu hộ; nhưng vì bị tội quá khứ lôi kéo, tội nhân
không ngờ lại sa vào địa ngục Hắc sa. cho đến địa ngục Hàn băng và sau
đó thì tội nhân mạng chung.”
Phật bảo các Tỳ-kheo:
“Ðịa ngục Ðại khiếu hoán lớn có mười sáu địa ngục nhỏ bao quanh; mỗi
ngục nhỏ ngang dọc năm trăm do-tuần. Vì sao gọi là địa ngục Ðại khiếu
hoán? Vì các ngục tốt trong ngục này bắt tội nhân bỏ vào trong nồi sắt
lớn, dùng nước nóng sôi sục, nấu nhừ tội nhân, khiến chúng kêu la gào
thét, khóc lóc thảm thiết, đau đớn vô cùng. Nhưng vì tội cũ chưa hết,
nên tội nhân không thể chết được. Vì vậy nên gọi là địa ngục Ðại khiếu
hoán.
“Lại nữa, ngục tốt ở địa ngục Ðại khiếu hoán bắt tội nhân bỏ vào
trong vò sắt lớn, dùng nước sôi sùng sục, nấu nhừ tội nhân, khiến họ đau
đớn vô cùng. Nhưng vì tội cũ chưa hết, nên tội nhân không thể chết
được. Vì vậy nên gọi là địa ngục Ðại khiếu hoán.
“Lại nữa, ngục tốt ở địa ngục Ðại khiếu hoán bắt tội nhân bỏ vào
trong vạc sắt, dùng nước sôi sùng sục, nấu nhừ tội nhân, khiến chúng đau
đớn vô cùng. Nhưng vì tội cũ chưa hết, nên tội nhân không thể chết
được. Vì vậy nên gọi là địa ngục Ðại khiếu hoán.
“Lại nữa, ngục tốt ở địa ngục Ðại khiếu hoán bắt tội nhân bỏ vào
trong nồi nhỏ, dùng nước sôi sùng sục, nấu nhừ tội nhân, khiến chúng đau
đớn vô cùng. Nhưng vì tội cũ chưa hết, nên tội nhân không thể chết
được. Vì vậy nên gọi là địa ngục Ðại khiếu hoán.
“Lại nữa, ngục tốt ở địa ngục Ðại khiếu hoán, bắt tội nhân ném lên
trên chảo lớn, rồi trở qua trở lại tội nhân, khiến kêu la gào thét, kêu
la lớn, đau đớn vô cùng. Nhưng vì tội cũ chưa hết, nên tội nhân không
thể chết được. Vì vậy nên gọi là địa ngục Ðại khiếu hoán.
“Sau thời gian chịu khổ lâu, tội nhân ra khỏi địa ngục này, hoảng hốt
chạy càn, mong cầu cứu hộ; nhưng vì bị tội quá khứ lôi kéo, tội nhân
bất ngờ lại sa vào địa ngục Hắc sa. cho đến địa ngục Hàn băng, rồi sau
đó thì tội nhân mạng chung.”
Phật bảo các Tỳ-kheo:
“Ðịa ngục lớn Thiêu chích, có mười sáu địa ngục nhỏ bao bọc chung
quanh. Vì sao gọi là địa ngục lớn Thiêu chích? Vì các ngục tốt trong địa
ngục đó bắt tội nhân vào trong thành sắt. Thành này bốc cháy, cả trong
lẫn ngoài đều đỏ rực, thiêu nướng tội nhân, da thịt tiêu tan, đau đớn vô
cùng kêu la thảm thiết. Nhưng vì tội cũ chưa hết, nên tội nhân không
thể chết được. Vì vậy gọi là địa ngục Thiêu chích.
“Lại nữa, ngục tốt ở địa ngục này, bắt tội nhân bỏ vào trong nhà sắt,
rồi cho nhà này bốc cháy, trong ngoài đều đỏ rực, thiêu nướng tội nhân,
da thịt tiêu tan, đau đớn vô cùng, kêu la thảm thiết. Nhưng vì tội cũ
chưa hết, nên tội nhân không thể chết được. Vì vậy nên gọi là địa ngục
Thiêu chích.
“Lại nữa, ngục tốt ở địa ngục này, bắt tội nhân bỏ vào trên lầu sắt,
rồi cho lầu bốc cháy, trong ngoài đỏ rực, thiêu nướng tội nhân, da thịt
tiêu tan, đau đớn vô cùng, kêu la thảm thiết. Nhưng vì tội cũ chưa hết,
nên tội nhân không thể chết được. Vì vậy nên gọi là địa ngục Thiêu
chích.
“Lại nữa, ngục tốt ở địa ngục này, bắt tội nhân bỏ vào trong lò gốm
sắt lớn, rồi cho lò này cháy, trong ngoài đỏ rực, thiêu nướng tội nhân,
da thịt tiêu tan, đau đớn vô cùng, kêu la thảm thiết. Nhưng vì tội cũ
chưa hết, nên tội nhân không thể chết được. Vì vậy nên gọi là địa ngục
Thiêu chích.
“Lại nữa, ngục tốt ở địa ngục này, bắt tội nhân bỏ vào trong nồi hầm
lớn, rồi cho nồi này bốc cháy, trong ngoài đều đỏ rực, thiêu nướng tội
nhân, da thịt tiêu tan, đau đớn vô cùng, kêu la thảm thiết. Nhưng vì tội
cũ chưa hết, nên tội nhân không thể chết được. Vì vậy nên gọi là địa
ngục Thiêu chích.
“Sau thời gian chịu khổ lâu, tội nhân ra khỏi địa ngục này, hoảng hốt
chạy càn, mong cầu cứu hộ; nhưng vì bị tội quá khứ lôi kéo, tội nhân
bất ngờ lại sa vào địa ngục Hắc sa. cho đến địa ngục Hàn băng và sau đó
thì tội nhân mạng chung.”
Phật bảo các Tỳ-kheo:
“Ðịa ngục Ðại thiêu chích có mười sáu địa ngục nhỏ bao bọc chung
quanh; mỗi ngục nhỏ ngang dọc năm trăm do-tuần. Vì sao gọi là địa ngục
Ðại thiêu chích? Vì các ngục tốt trong địa ngục này, bắt tội nhân vào
trong thành sắt, rồi cho thành này bốc cháy, cả trong lẫn ngoài đều đỏ
rực, thiêu nướng tội nhân, thiêu nướng nhiều lần, da thịt tiêu tan, đau
đớn vô cùng, kêu la thảm thiết. Nhưng vì tội cũ chưa hết, nên tội nhân
không thể chết được. Vì vậy nên gọi là địa ngục Ðại thiêu chích.
“Lại nữa, ngục tốt ở địa ngục này, bắt tội nhân bỏ vào trong nhà sắt,
rồi cho nhà này bốc cháy, trong ngoài đều đỏ rực, thiêu nướng tội nhân,
thiêu nướng nhiều lần, da thịt tiêu tan, khiến họ đau đớn vô cùng, kêu
la thảm thiết. Nhưng vì tội cũ chưa hết, nên tội nhân không thể chết
được. Vì vậy nên gọi là địa ngục Ðại thiêu chích.
“Lại nữa, ngục tốt ở địa ngục này, bắt tội nhân bỏ vào trên lầu sắt,
rồi cho lầu bốc cháy, trong ngoài đỏ rực, thiêu nướng tội nhân, thiêu
nướng nhiều lần, da thịt tiêu tan, đau đớn vô cùng, kêu la thảm thiết.
Nhưng vì tội cũ chưa hết, nên tội nhân không thể chết được. Vì vậy nên
gọi là địa ngục Ðại thiêu chích.
“Lại nữa, ngục tốt ở địa ngục này, bắt tội nhân bỏ vào trong lò gốm
sắt lớn, rồi cho lò này bốc cháy, trong ngoài đều đỏ rực, thiêu nướng
tội nhân, thiêu nướng nhiều lần, da thịt tiêu tan, đau đớn vô cùng, kêu
la thảm thiết. Nhưng vì tội cũ chưa hết, nên tội nhân không thể chết
được. Vì vậy nên gọi là địa ngục Ðại thiêu chích.
“Lại nữa, ở địa ngục này, thiêu nướng nhiều lần, tự nhiên có hầm lửa
lớn, lửa cháy phừng phừng, hai bên bờ hầm có núi lửa lớn. Các ngục tốt ở
đây bắt tội nhân ghim vào trên chĩa sắt, rồi dựng đứng trong lửa đỏ,
làm cho thân thể bị thiêu nướng, thiêu nướng nhiều lần, da thịt tiêu
tan, đau đớn vô cùng, kêu la thảm thiết. Nhưng vì tội cũ chưa hết, nên
tội nhân không thể chết được. Vì vậy nên gọi là địa ngục Ðại thiêu
chích.
“Sau thời gian chịu khổ lâu, tội nhân ra khỏi địa ngục này, hoảng hốt
chạy càn, mong cầu cứu hộ; nhưng vì bị tội quá khứ lôi kéo, tội nhân
bất ngờ lại sa vào địa ngục Hắc sa. cho đến địa ngục Hàn băng và sau đó
thì tội nhân mạng chung.”
Phật bảo các Tỳ-kheo:
“Ðịa ngục lớn Vô gián, có mười sáu địa ngục nhỏ bao bọc chung quanh,
mỗi địa ngục ngang dọc năm trăm do-tuần. Vì sao gọi là địa ngục lớn Vô
gián? Vì các ngục tốt trong địa ngục này, bắt tội nhân lột da từ đầu đến
chân, rồi dùng da ấy cột thân tội nhân vào bánh xe lửa, rồi cho xe lửa
chạy đi chạy lại trên nền sắt nóng, làm cho thân thể nát tan, da thịt
rời ra từng mảnh, khiến đau đớn vô cùng kêu la thảm thiết. Nhưng vì tội
cũ chưa hết, nên tội nhân không thể chết được. Vì vậy nên gọi là địa
ngục Vô gián.
“Lại nữa, ở địa ngục này, có thành sắt lớn, bốn mặt thành lửa cháy dữ
dội, ngọn lửa từ Ðông lan sang Tây, ngọn lửa từ Tây lan sang Ðông, ngọn
lửa từ Nam lan đến Bắc, ngọn lửa từ Bắc lan đến Nam, ngọn lửa từ trên
lan xuống dưới, ngọn lửa từ dưới lan lên trên, lửa cháy vòng quanh,
không có một chỗ nào trống. Tội nhân ở trong đây cứ chạy Ðông chạy Tây,
toàn thân bị thiêu nướng, da thịt cháy nám, đau đớn vô cùng, kêu la thảm
thiết. Nhưng vì tội cũ chưa hết, nên tội nhân không thể chết được. Vì
vậy nên gọi là địa ngục Vô gián.
“Lại nữa, ở địa ngục Vô gián này có thành bằng sắt, lửa cháy hừng
hực, tội nhân bị lửa đốt thân, da thịt tiêu tan, đau đớn vô cùng, kêu la
thảm thiết. Nhưng vì tội cũ chưa hết, nên tội nhân không thể chết được.
Vì vậy nên gọi là địa ngục Vô gián.
“Lại nữa, tội nhân ở địa ngục Vô gián này, sau thời gian chịu khổ
lâu, thì cửa mở và tội nhân liền chạy về hướng cửa mở, trong khi chạy
thì các bộ phận của thân đều bốc lửa, cũng như chàng lực sĩ tay cầm bó
đuốc lớn bằng cỏ, chạy ngược gió, lửa ấy cháy phừng phực, thì khi tội
nhân chạy lửa cũng bộc phát như vậy. Khi chạy đến gần cửa, thì tự nhiên
cửa khép lại. Tội nhân bò càng, nằm phục trên nền sắt nóng, toàn thân bị
thiêu nướng, da thịt tiêu tan, đau đớn vô cùng, như muôn thứ độc cùng
kéo đến một lúc. Nhưng vì tội cũ chưa hết, nên tội nhân không thể chết
được. Vì vậy nên gọi là địa ngục Vô gián. “Lại nữa, tội nhân ở địa ngục
Vô gián này, những gì mà mắt thấy, chỉ thấy toàn là màu ác; những gì
tai nghe, toàn là âm thanh ác; những gì mũi ngửi, toàn là mùi thối ác;
những gì thân xúc chạm, toàn là những sự đau đớn; những gì ý nhớ, chỉ
nghĩ điều ác. Lại nữa, tội nhân ở nơi đây, trong khoảnh khắc búng tay,
không có một giây phút nào là không khổ. Vì vậy nên gọi là địa ngục Vô
gián.
“Sau thời gian chịu khổ lâu, tội nhân ra khỏi địa ngục này, hoảng hốt
chạy càn, mong cầu cứu hộ; nhưng vì bị tội quá khứ lôi kéo, tội nhân
bất ngờ lại sa vào địa ngục Hắc sa. cho đến địa ngục Hàn băng lạnh và
sau đó thì tội nhân mạng chung.”
Bấy giờ Ðức Thế Tôn liền nói bài kệ:
- Thân làm nghiệp bất thiện,
- Miệng, ý cũng bất thiẹn,
- Ðều vào địa ngục Tưởng,
- Sợ hãi, lông dựng đứng.
- Ý ác đối cha mẹ,
- Phật và hàng Thanh văn,
- Thì vào ngục Hắc thằng,
- Khổ đau không thể tả.
- Chỉ tạo ba nghiệp ác,
- Không tu ba hạnh lành,
- Thì vào ngục Ðôi áp,
- Khổ đau nào tả được.
- Ôm lòng sân độc hại,
- Sát sanh máu nhơ tay,
- Tạo linh tinh hạnh ác,
- Vào địa ngục Khiếu hoán.
- Thường tạo những tà kiến,
- Bị lưới ái phủ kín;
- Tạo hạnh thấp hèn này,
- Vào ngục Ðại khiếu hoán.
- Thường làm việc thiêu nướng,
- Thiêu nướng các chúng sanh;
- Sẽ vào ngục Thiêu chích,
- Bị thiêu nướng luôn luôn.
- Từ bỏ nghiệp thiện quả,
- Quả thiện, đạo thanh tịnh;
- Làm các hạnh tệ ác,
- Vào ngục Ðại thiêu chích.
- Tạo tác tội cực nặng,
- Tất sinh nghiệp đường ác;
- Vào địa ngục Vô gián,
- Chịu tội không thể tả.
- Ngục Tưởng và Hắc thằng,
- Ðôi áp, hai Khiếu hoán;
- Thiêu chích, Ðại thiêu chích,
- Vô gián là thứ tám.
- Tám địa ngục lớn này,
- Hoàn toàn rực màu lửa;
- Tai họa do ác xưa,
- Có mười sáu ngục nhỏ.
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Giữa hai ngọn núi Ðại kim cương kia có cơn gió lớn trỗi lên, tên là
Tăng-khư. Nếu như ngọn gió này thổi đến bốn châu thiên hạ và tám mươi
ngàn thiên hạ khác, thì gió sẽ thổi đại địa này và các danh sơn cùng
chúa Tu-di bay khỏi mặt đất từ mười dặm cho đến trăm dặm, tung lên bay
liệng giữa trời; tất cả thảy đều vỡ vụn. Giống như tráng sĩ tay nắm một
nắm trấu nhẹ tung lên giữa hư không. Dưới ngọn gió lớn kia, giả sử thổi
vào thiên hạ này, cũng giống như vậy. Vì có hai ngọn núi Ðại kim cương
ngăn chận ngọn gió ấy, nên gió không đến được. Này Tỳ-kheo, nên biết,
hai ngọn núi Ðại kim cương này có rất nhiều lợi ích và cũng do nghiệp
báo của chúng sanh chiêu cảm nên.
“Lại nữa, gió ở khoảng giữa hai núi này nóng hừng hực; nếu như gió
này thổi đến bốn châu thiên hạ, thì những chúng sanh trong đó và những
núi non, biển cả, sông ngòi, cây cối, rừng rậm đều sẽ bị cháy khô. Cũng
như giữa cơn nắng mùa hè, cắt một nắm cỏ non để ngay dưới mặt trời, cỏ
liền khô héo, thì ngọn gió kia cũng như vậy; nếu ngọn gió đó thổi đến
thế giới này, thì sức nóng đó sẽ tiêu rụi tất cả. Vì có hai ngọn núi Kim
cương này ngăn chận được ngọn gió đó, nên không thể đến đây được. Các
Tỳ-kheo, nên biết, ngọn núi Kim cương này có rất nhiều lợi ích và cũng
do nghiệp báo của chúng sanh chiêu cảm nên vậy.
“Lại nữa, gió giữa hai núi này hôi thối, bất tịnh, tanh tưởi nồng
nặc; nếu như ngọn gió này thổi đến bốn châu thiên hạ này, thì sẽ xông
lên làm cho chúng sanh bị mù lòa. Nhưng vì có hai núi Ðại kim cương này
ngăn chận nên ngọn gió ấy không thể đến được. Tỳ-kheo, nên biết, núi Kim
cương này có rất nhiều lợi ích và cũng do nghiệp báo của chúng sanh
chiêu cảm nên vậy.
“Lại nữa, giữa hai núi này lại có mười địa ngục: một là Hậu vân, hai
là Vô vân, ba là Ha ha, bốn là Nại hà, năm là Dương minh, sáu là
Tu-càn-đề, bảy là Ưu-bát-la, tám là Câu-vật-đầu, chín là Phân-đà-lỵ,
mười là Bát-đầu-ma. Vì sao gọi là địa ngục Hậu vân? Vì tội nhân trong
ngục này tự nhiên sinh ra thân thể như đám mây dày, cho nên gọi là Hậu
vân. Vì sao gọi là Vô vân? Vì chúng sanh chịu tội trong ngục này, tự
nhiên thân thể sinh ra như một cục thịt nên gọi là Vô vân. Vì sao gọi là
Ha ha? Vì chúng sanh chịu tội trong ngục này, thường thì thân thể đau
đớn, rồi rên la ối ối!, nên gọi là Ha ha. Vì sao gọi là Nại hà? Vì chúng
sanh chịu tội trong ngục này, thường thân thể đau khổ vô cùng, không có
nơi nương tựa, nên thốt lên Sao bây giờ!, nên gọi là Nại hà! Vì sao gọi
là
Dương minh? Vì chúng sanh chịu tội trong ngục này, thường thân thể, đau
đớn vô cùng, muốn thốt lên lời nhưng lưỡi không cử động được, chỉ giống
như dê kêu, nên gọi là Dương minh. Vì sao gọi là Tu-càn-đề? Vì trong
ngục này chỉ toàn là màu đen, cũng như màu hoa Tu-càn-đề, nên gọi là
Tu-càn-đề. Vì sao gọi là Ưu-bát-la? Vì trong ngục này chỉ toàn là màu
xanh, như màu hoa Ưu-bát-la, nên gọi là Ưu-bát-la. Vì sao gọi là
Câu-vật-đầu? Vì trong ngục này toàn là màu hồng, như màu hoa
Câu-vật-đầu, nên gọi là Câu-vật-đầu. Vì sao gọi là Phân-đà-lỵ? Vì trong
ngục này toàn là màu trắng, như màu hoa Phân-đà-lỵ, nên gọi là
Phân-đà-lỵ. Vì sao gọi là Bát-đầu-ma? Vì trong ngục này toàn là màu đỏ,
cũng như màu hoa Bát-đầu-ma, nên gọi là Bát-đầu-ma.”
Phật bảo các Tỳ-kheo:
“Thí dụ như có một cái thùng có sáu mươi bốn hộc, mỗi hộc đựng đầy
hạt mè và có một người cứ một trăm năm lấy đi một hột, như vậy cho đến
hết. Thời gian này vẫn chưa bằng thời gian chịu tội trong địa ngục Hậu
vân. Chúng sanh hai mươi tuổi ở địa ngục Hậu vân bằng một tuổi ở địa
ngục Vô vân; chúng sanh hai mươi tuổi ở địa ngục Vô vân bằng chúng sanh
một tuổi ở địa ngục Ha ha; chúng sanh hai mươi tuổi ở địa ngục Ha ha,
bằng chúng sanh một tuổi ở địa ngục Nại hà; chúng sanh hai mươi tuổi ở
địa ngục Nại hà, bằng chúng sanh một tuổi ở địa ngục Dương minh; chúng
sanh hai mươi tuổi ở địa ngục Dương minh bằng một tuổi ở ngục Tu-càn-đề;
chúng sanh hai mươi tuổi ở địa ngục Tu-càn-đề, bằng một tuổi ở địa ngục
Ưu-bát-la; chúng sanh hai mươi tuổi ở địa ngục Ưu-bát-la, bằng
một tuổi ở địa ngục Câu-vật-đầu; chúng sanh hai mươi tuổi ở địa ngục
Câu-vật-đầu, bằng một tuổi ở địa ngục Phân-đà-lỵ; chúng sanh hai mươi
tuổi ở địa ngục Phân-đà-lỵ, bằng môt tuổi ở địa ngục Bát-đầu-ma; chúng
sanh hai mươi tuổi ở địa ngục Bát-đầu-ma, thì gọi là một trung kiếp; hai
mươi trung kiếp thì gọi là một đại kiếp.
“Trong địa ngục Bát-đầu-ma lửa cháy hừng hực, dù tội nhân còn cách
ngọn lửa khoảng trăm do-tuần cũng đã bị lửa thiêu nướng; nếu cách tội
nhân sáu mươi do-tuần, thì hai tai bị điếc, không còn nghe gì cả; nếu
cách năm mươi do-tuần, thì đôi mắt bị mù lòa, không còn thấy gì cả.
Tỳ-kheo Cù-ba-lê dùng tâm độc ác, hủy báng Tôn giả Xá-lợi-phất và
Mục-kiền-liên, nên sau khi mạng chung phải đọa vào địa ngục Bát-đầu-ma
này.”
Bấy giờ, vị Phạm vương liền nói bài kệ:
- Phàm con người ở đời,
- Búa rìu từ cửa miệng;
- Sở dĩ giết chết mình,
- Là do lời nói độc.
- Người đáng chê thì khen,
- Người đáng khen thì chê;
- Miệng làm theo nghiệp ác.
- Thân phải chịu tội ấy.
- Mánh lới cướp của cải,
- Tội ấy cũng còn nhẹ;
- Nếu hủy báng Thánh hiền,
- Thì tội ấy rất nặng.
- Vô vân, tuổi trăm ngàn,
- Hậu vân, tuổi bốn mốt;
- Hủy Thánh mắc tội này,
- Do tâm, miệng làm ác.
Ðức Phật bảo các Tỳ-kheo:
“Vị Phạm thiên đã nói bài kệ như vậy, đó là lời nói chân chánh, được
Ðức Phật ấn khả. Vì sao? Vì nay Ta là Ðấng Như Lai, Chí Chân, Ðẳng
Chánh Giác, cũng nói ý nghĩa như vậy:
- Phàm con người ở đời,
- Búa rìu từ cửa miệng;
- Sở dĩ giết chết mình,
- Là do lời nói độc.
- Người đáng chê thì khen,
- Người đáng khen thì chê;
- Miệng làm theo nghiệp ác.
- Thân phải chịu tội ấy.
- Mánh lới cướp của cải,
- Tội ấy cũng còn nhẹ;
- Nếu hủy báng Thánh hiền,
- Thì tội ấy rất nặng.
- Vô vân, tuổi trăm ngàn,
- Hậu vân, tuổi bốn mốt;
- Hủy Thánh mắc tội này,
- Do tâm, miệng làm ác”.
Ðức Phật bảo các Tỳ-kheo:
“Về phía nNam cõi Diêm-phù-đề, trong núi Ðại kim cương có cung điện
của vua Diêm-la, chỗ vua cai trị ngang dọc sáu ngàn do-tuần. Thành này
có bảy lớp, với bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây và vô số
các loài chim cùng nhau ca hót líu lo, cũng lại như vậy. Tại chỗ vua
Diêm-la cai trị, ngày đêm ba thời đều có vạc đồng lớn, tự nhiên xuất
hiện trước mặt. Nếu vạc đồng đã xuất hiện ở trong cung thì nhà vua cảm
thấy sợ hãi, liền bỏ ra ngoài cung; nếu vạc đồng xuất hiện ngoài cung
thì vua cảm thấy sợ hãi, liền bỏ vào trong cung. Có ngục tốt to lớn bắt
vua Diêm-la nằm trên bàn sắt nóng, dùng móc sắt cạy miệng cho mở ra rồi
rót nước đồng sôi vào, làm cháy bỏng môi, lưỡi từ cổ đến bụng, thông
suốt xuống dưới, không chỗ nào không chín nhừ. Sau khi chịu tội xong,
nhà
vua cùng thể nữ vui đùa. Các vị đại thần ở đây lại cũng cùng hưởng phúc
báo như vậy.”
Ðức Phật bảo các Tỳ-kheo:
“Có ba vị sứ giả. Những gì là ba? Một là già, hai là bệnh, ba là
chết. Nếu có chúng sanh nào thân làm ác, miệng nói lời ác, ý nghĩ điều
ác, thì sau khi qua đời bị đọa vào địa ngục. Lúc này, ngục tốt dẫn tội
nhân đến chỗ vua Diêm-la. Ðến nơi rồi, thưa rằng: Ðây là người Thiên sứ
cho đòi. Vậy xin Ðại vương hỏi cung hắn. Vua Diêm-la hỏi người bị tội:
Ngươi không thấy sứ giả thứ nhất sao? Người bị tội đáp: Tôi không thấy.
Vua Diêm-la nói tiếp: Khi nhà ngươi còn ở trong loài người, có thấy
người nào già nua, đầu bạc, răng rụng, mắt lờ, da thịt nhăn nheo, lưng
còm chống gậy, rên rỉ mà đi, hay thân thể run rẩy, vì khí lực hao mòn;
ngươi có thấy người này không? Người bị tội đáp: Có thấy. Vua Diêm-la
nói tiếp: Tại sao ngươi không tự nghĩ rằng mình cũng sẽ như vậy? Người
kia
đáp: Vì lúc đó tôi buông lung, không tự hay biết được. Vua Diêm-la nói:
Ngươi buông lung không tu tập thân, miệng và ý, bỏ ác mà làm lành. Nay
Ta sẽ cho ngươi biết cái khổ của sự buông lung. Vua lại nói tiếp: Nay
ngươi phải chịu tội, không phải là lỗi của cha mẹ, không phải là lỗi của
anh em, cũng không phải là lỗi của Thiên đế, cũng không phải là lỗi của
tổ tiên, cũng không phải là lỗi của hàng tri thức, đầy tớ, sứ giả; cũng
không phải là lỗi của Sa-môn, Bà-la-môn. Chính ngươi làm ác, nên chính
ngươi phải chịu tội.
“Bấy giờ, vua Diêm-la cho hỏi tội nhân về vị Thiên sứ thứ nhất xong,
lại hỏi về Thiên sứ thứ hai: Thế nào, nhà ngươi có thấy vị Thiên sứ thứ
hai không? Ðáp rằng: Không thấy. Vua lại hỏi: Khi nhà ngươi còn ở trong
loài người, ngươi có thấy kẻ bị bệnh tật, khốn đốn, nằm lăn lóc trên
giường, thân thể lăn lộn trên phẩn dãi hôi thối, không thể đứng dậy
được; cần phải có người đút cơm cho; đau nhức từng lóng xương, nước mắt
chảy, rên rỉ, không thể nói năng được; ngươi có thấy người như thế
chăng? Tội nhân đáp: Có thấy. Vua Diêm-la nói tiếp: Tại sao nhà ngươi
không tự nghĩ: rồi đây ta cũng sẽ bị tai hoạn như vậy? Tội nhân đáp: Vì
khi ấy buông lung tôi không tự hay biết được. Vua Diêm-la nói tiếp: Vì
chính ngươi buông lung, nên không thể tu tập thân, miệng và ý, không bỏ
việc ác mà làm điều lành. Nay ta sẽ cho ngươi biết thế nào là cái khổ
của sự buông lung. Vua lại nói: Nay ngươi phải chịu tội, không phải là
lỗi của cha mẹ, không phải là lỗi của anh em, cũng không phải là lỗi của
Thiên đế, cũng không phải là lỗi của tổ tiên, cũng không phải là lỗi
của hàng tri thức, đầy tớ, sứ giả, cũng không phải là lỗi của Sa-môn,
Bà-la-môn. Chính ngươi làm ác, nên chính ngươi phải chịu tội.
“Khi vua Diêm-la hỏi người bị tội về Thiên sứ thứ hai xong, bấy giờ
lại hỏi về Thiên sứ thứ ba: Thế nào, nhà ngươi không thấy vị Thiên sứ
thứ ba chứ? Ðáp: Không thấy. Vua Diêm-la hỏi tiếp: Khi còn làm người,
ngươi có thấy người chết, thân hư hoại, mạng chung, các giác quan đều bị
diệt hẳn, thân thể ngay đơ cũng như cây khô, vứt bỏ ngoài gò mả để cho
cầm thú ăn thịt, hoặc để trong quan tài, hoặc dùng lửa thiêu đốt chăng?
Tội nhân đáp: Có thấy. Vua Diêm-la nói tiếp: Tại sao nhà ngươi không tự
nghĩ: rồi đây ta cũng sẽ bị chết như người đó không khác gì? Người bị
tội đáp: Vì khi ấy buông lung tôi không tự hay biết được. Vua Diêm-la
nói tiếp: Vì chính ngươi buông lung, nên không thể tu tập thân, miệng và
ý, không cải đổi việc ác mà thực hành điều thiện. Nay ta sẽ cho
ngươi biết thế nào là cái khổ của sự buông lung. Vua lại nói: Nay ngươi
phải chịu tội, không phải là lỗi của cha mẹ, không phải là lỗi của anh
em, cũng không phải là lỗi của Thiên đế, cũng không phải là lỗi của tổ
tiên, cũng không phải là lỗi của hàng tri thức, đầy tớ, sứ giả, cũng
không phải là lỗi của Sa-môn, Bà-la-môn. Chính ngươi làm ác, nên chính
ngươi phải chịu tội. Bấy giờ, vua Diêm-la hỏi về Thiên sứ thứ ba xong,
bèn giao lại cho ngục tốt. Khi đó ngục tốt liền dẫn đến địa ngục lớn.
Ðịa ngục lớn này ngang dọc một trăm do-tuần, sâu một trăm do-tuần.”
Bấy giờ Ðức Thế Tôn liền nói bài kệ:
- Bốn hướng có bốn cửa,
- Ngõ ngách đều như nhau;
- Dùng sắt làm tường ngục,
- Trên che võng lưới sắt;
- Dùng sắt làm nền ngục,
- Tự nhiên lửa bốc cháy;
- Ngang dọc trăm do-tuần,
- Ðứng yên không lay động.
- Lửa đen phừng phực cháy,
- Dữ dội khó mà nhìn;
- Có mười sáu ngục nhỏ,
- Lửa cháy do ác hạnh.
Ðức Phật bảo các Tỳ-kheo:
“Khi ấy vua Diêm-la tự nghĩ: Cchúng sanh ở thế gian, vì mê lầm không ý
thức, nên thân làm ác, miệng nói lời ác, ý nghĩ điều ác. Do đó sau khi
lâm chung, ít có ai không chịu khổ này. Nếu như những chúng sanh ở thế
gian, sửa đổi điều ác, sửa thân, miệng, ý để thực hành theo điều lành,
thì sau khi lâm chung sẽ được an vui như hàng chư Thiên vậy. Sau khi ta
lâm chung được sinh vào trong cõi người, nếu gặp được Ðức Như Lai, thì
sẽ ở trong Chánh pháp, cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo,
đem lòng tin trong sạch để tu hành Phạm hạnh thanh tịnh. Những điều cần
làm đã làm xong, đã đoạn trừ sanh tử, tự mình tác chứng ngay trong hiện
tại, không còn tái sinh.”
Bấy giờ, Ðức Thế Tôn đọc bài kệ:
- Tuy là thấy Thiên sứ,
- Nhưng vẫn còn buông lung;
- Người ấy thường âu lo,
- Sanh vào nơi ti tiện.
- Nếu người có trí tuệ,
- Khi gặp thấy Thiên sứ,
- Gần gũi pháp Hiền thánh,
- Mà không còn buông lung.
- Thấy thụ sinh mà sợ,
- Do sanh, già, bệnh, chết.
- Không thụ sinh, giải thoát,
- Hết sanh, già, bệnh, chết.
- Người đó được an ổn.
- Hiện tại chứng vô vi,
- Ðã vượt qua lo sợ,
- Chắc chắn nhập Niết-bàn.
PHẨM 5: LONG ÐIỂU
Ðức Phật bảo các Tỳ-kheo:
“Có bốn loại rồng. Những gì là bốn? Một, sanh ra từ trứng; hai, sanh
ra từ bào thai; ba, sanh ra từ nơi ẩm thấp; bốn, sanh ra từ hóa sinh. Ðó
là bốn loại rồng.
“Có bốn loại Kim sí điểu. Những gì là bốn? Một, sinh ra từ trứng;
hai, sinh ra từ bào thai; ba, sinh ra từ nơi ẩm thấp; bốn, sinh ra từ
hóa sinh. Ðó là bốn loại Kim sí điểu.
“Ở dưới đáy nước đại dương có cung điện của vua rồng Ta-kiệt, ngang
dọc là tám vạn do-tuần. Tường cung điện có bảy lớp với bảy lớp lan can,
bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây, chung quanh trang hoàng bằng bảy thứ
báu,. cho đến vô số các loài chim cùng nhau ca hót líu lo, lại cũng như
vậy.
“Giữa hai ngọn núi chúa Tu-di cùng núi Khư-đà-la có hai cung điện
của vua rồng Nan-đà và Bạt-nan-đà. Mỗi cung điện ngang dọc sáu mươi
do-tuần. Tường cung điện có bảy lớp với bảy lớp lan can, bảy lớp lưới,
bảy lớp hàng cây, chung quanh trang hoàng bằng bảy thứ báu... cho đến,
vô số các loài chim ca hót líu lo, lại cũng như vậy.
“Phía Bắc bờ đại dương có một cây lớn tên là Cứu-la-thiểm-ma-la. Loại
cây này cả vua rồng và Kim sí điểu cũng có, gốc cây to bảy do-tuần, cao
trăm do-tuần, tàn cây phủ chung quanh năm mươi do-tuần. Phía Ðông
của cây lớn này có cung điện của loài vua rồng sinh ra từ trứng và cung
điện của loài Kim sí điểu sinh ra từ trứng. Mỗi cung điện ngang dọc là
sáu ngàn do-tuần, tường của cung điện có bảy lớp, bảy lớp lan can, bảy
lớp lưới, bảy lớp hàng cây, chung quanh trang hoàng bằng bảy thứ báu,.
cho đến, vô số các loài chim ca hót líu lo, lại cũng như vậy.
“Phía Nam của cây lớn này có cung điện của loài vua rồng sinh ra từ
thai và cung điện của loài Kim sí điểu sinh ra từ thai. Mỗi cung điện
ngang dọc là sáu ngàn do-tuần; tường của cung điện có bảy lớp, bảy lớp
lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây, chung quanh trang hoàng bằng
bảy thứ báu,. cho đến, vô số các loài chim ca hót líu lo, lại cũng như
vậy.
“Phía Tây của cây lớn này có cung điện của loài vua rồng sinh ra từ
nơi ẩm thấp và cung điện của loài Kim sí điểu sinh ra từ nơi ẩm thấp.
Mỗi cung điện ngang dọc sáu ngàn do-tuần; tường của cung điện có bảy
lớp, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây, chung quanh trang
hoàng bằng bảy thứ báu,. cho đến, vô số các loài chim ca hót líu lo, lại
cũng như vậy.
“Phía Bắc của cây lớn này có cung điện của loài vua rồng sinh ra từ
hóa sinh và cung điện của loài Kim sí điểu sinh ra từ hóa sinh. Mỗi cung
điện ngang dọc là sáu ngàn do-tuần; tường của cung điện có bảy lớp, bảy
lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây, chung quanh trang hoàng
bằng bảy thứ báu,. cho đến, vô số các loài chim ca hót líu lo, lại cũng
như vậy.
“Khi nào loài Kim sí điểu sinh ra từ trứng, nếu muốn bắt loài rồng để
ăn, thì từ nhánh phía Ðông của cây Cứu-la-thiểm-ma-la bay xuống, dùng
đôi cánh quạt nước đại dương; khi nước rẽ ra hai bên rộng hai trăm
do-tuần, mới bắt loài rồng cũng sinh ra từ trứng để ăn một cách tùy ý tự
tại. Nhưng không thể bắt loài rồng được sinh ra từ thai, từ nơi ẩm
thấp, từ hóa sinh được.
“Khi nào loài Kim sí điểu sinh ra từ thai, nếu muốn bắt loài rồng
sinh ra từ trứng để ăn, thì từ nhánh phía Ðông cây này bay xuống, dùng
đôi cánh quạt nước đại dương; khi nước rẽ ra hai bên rộng hai trăm
do-tuần, mới bắt loài rồng sinh ra từ trứng để ăn một cách tùy ý tự tại.
Khi nào loài Kim sí điểu sinh ra từ thai muốn ăn loài rồng sinh ra từ
thai, thì từ nhánh phía Nam của cây này bay xuống và dùng đôi cánh quạt
nước đại dương; khi nước rẽ ra hai bên rộng bốn trăm do-tuần, mới bắt
loài rồng cũng sinh ra từ thai để ăn một cách tùy ý tự tại. Nhưng không
thể bắt loài rồng sinh ra từ ẩm thấp, từ hóa sinh được.
“Khi nào loài Kim sí điểu sinh ra từ nơi ẩm thấp, nếu muốn bắt loài
rồng sinh ra từ trứng để ăn, thì từ nhánh phía Ðông bay xuống, dùng đôi
cánh quạt nước đại dương; khi nước rẽ ra hai bên rộng hai trăm do-tuần,
mới bắt loài rồng sinh ra từ trứng để ăn một cách tùy ý tự tại. Khi nào
loài Kim sí điểu sinh ra từ nơi ẩm thấp, nếu muốn bắt loài rồng sinh ra
từ thai để ăn, thì từ nhánh phía Nam cây này bay xuống, dùng đôi cánh
quạt nước đại dương; khi nước rẽ ra hai bên rộng bốn trăm do-tuần, thì
bắt loài rồng sinh ra từ thai để ăn một cách tùy ý tự tại. Khi nào loài
Kim sí điểu sinh ra từ nơi ẩm thấp muốn ăn loài rồng sinh ra từ nơi ẩm
thấp, thì từ nhánh phía Tây của cây này bay xuống và dùng đôi cánh quạt
nước đại dương; khi nước rẽ ra hai bên rộng tám trăm do-tuần, thì
bắt loài rồng cũng sinh ra từ nơi ẩm thấp để ăn một cách tùy ý tự tại.
Nhưng không thể bắt loài rồng sinh ra từ hóa sinh được.
“Khi nào loài Kim sí điểu sinh ra từ biến hóa, nếu muốn bắt loài rồng
sinh ra từ trứng để ăn, thì từ nhánh phía Ðông bay xuống, dùng đôi cánh
quạt nước đại dương; khi nước rẽ ra hai bên rộng hai trăm do-tuần, thì
bắt loài rồng sinh ra từ trứng để ăn một cách tùy ý tự tại. Khi nào loài
Kim sí điểu sinh ra từ biến hóa, nếu muốn bắt loài rồng sinh ra từ thai
để ăn, thì từ nhánh phía Nam cây này bay xuống, dùng đôi cánh quạt nước
đại dương; khi nước rẽ ra hai bên rộng bốn trăm do-tuần, thì bắt loài
rồng sinh ra từ thai để ăn một cách tùy ý tự tại. Khi nào loài Kim sí
điểu sinh ra từ biến hóa muốn ăn loài rồng sinh ra từ nơi ẩm thấp, thì
từ nhánh phía Tây của cây này bay xuống và dùng đôi cánh quạt nước đại
dương; khi nước rẽ ra hai bên rộng tám trăm do-tuần, thì bắt loài
rồng sinh ra từ nơi ẩm thấp để ăn. Khi nào Kim sí điểu sinh ra từ biến
hóa, nếu muốn ăn loài rồng sinh ra từ biến hóa, thì từ nhánh phía Bắc
cây này bay xuống, dùng đôi cánh quạt nước đại dương; khi nước rẽ ra hai
bên rộng một ngàn sáu trăm do-tuần, thì bắt loài rồng sanh ra từ biến
hóa để ăn một cách tùy ý tự tại. Ðó là loài rồng bị loài Kim sí điểu ăn
thịt.
“Tuy nhiên có những loại rồng lớn mà loài Kim sí điểu không thể ăn
thịt được. Ðó là: Vua rồng Ta-kiệt-la, Nan-đà, Bạt-nan-đà, Y-na-bà-la,
Ðề-đầu-lại-tra, Thiện-kiến, A-lô, Ca-câu-la, Ca-tỳ-la, A-ba-la,
A-nậu-đạt, Thiện-trú, Ưu-diệm-ca-bà-đầu, Ðắc-xoa-ca. Ðó là các loài vua
rồng lớn không bị loài Kim sí điểu bắt ăn thịt.”
Ðức Phật bảo các Tỳ-kheo:
“Nếu có chúng sanh nào thọ trì giới rồng, tâm ý nghĩ đến loài rồng,
đầy đủ pháp của rồng, thì sẽ sinh về trong loài rồng. Nếu có chúng sanh
nào trì giới Kim sí điểu, tâm ý nghĩ đến loài Kim sí điểu, đầy đủ pháp
của Kim sí điểu, thì sẽ sinh về trong loài Kim sí điểu. Hoặc có chúng
sanh trì giới của thỏ, tâm ý nghĩ về loài thỏ, cắt ; đầy đủ pháp của
thỏ, thì sẽ sinh vào loài thỏ, cắt. Hoặc có chúng sanh trì giới của chó,
hoặc trì giới của trâu, hoặc trì giới của nai, hoặc trì giới câm, hoặc
trì giới Ma-ni-bà-đà , hoặc trì giới lửa, hoặc trì giới mặt trăng, hoặc
trì giới mặt trời, hoặc trì giới nước, hoặc trì giới cúng dường lửa,
hoặc trì pháp khổ hạnh ô uế. Những người ấy nghĩ rằng: Ta trì pháp câm
này, pháp Ma-ni-bà-đà, pháp lửa, pháp mặt trăng, mặt trời, pháp nước,
pháp cúng dường lửa, các pháp khổ hạnh; ta trì công đức này là để sinh
lên cõi Trời. Ðây là những thứ tà kiến.”
Phật dạy:
“Ta nói những người tà kiến này chắc chắn sẽ đi vào hai nơi: Hoặc
sinh vào địa ngục, hay sinh vào hàng súc sanh. Nếu có Sa-môn, Bà-la-môn
nào có những lý luận như vầy, những quan điểm như vầy: Ngã và thế gian
là thường còn, đây là thật, ngoài ra đều hư dối, hoặc Ngã và thế gian là
vô thường, đây là thật, ngoài ra đều hư dối, hoặc Ngã và thế gian vừa
thường vừa là vô thường, đây là thật ngoài ra đều hư dối, hoặc Ngã và
thế gian chẳng phải thường cũng chẳng phải vô thường, đây là thật ngoài
ra đều hư dối; Ngã và thế gian là hữu biên, đây là thật ngoài ra đều hư
dối, hoặc Ngã và thế gian là vô biên, đây là thật ngoài ra đều hư dối,
hoặc Ngã và thế gian vừa hữu biên vừa vô biên, đây là thật ngoài ra đều
hư dối, hoặc Ngã và thế gian chẳng phải hữu biên cũng chẳng phải vô
biên, đây là thật ngoài ra đều hư dối; Thân tức mạng, đây là thật ngoài
ra đều hư dối hoặc Thân khác mạng khác, đây là thật ngoài ra đều hư dối,
hoặc Chẳng phải có mạng chẳng phải không mạng, đây là chắc thật ngoài
ra đều là hư dối; hoặc Không mạng không thân, đây là thật ngoài ra đều
là hư dối.
“Hoặc có người nói: Có cái chết của đời khác như vậy, đây là thật
ngoài ra đều là hư dối. Có người nói: Không có cái chết của đời khác như
vậy, đây là thật ngoài ra đều là hư dối. Hoặc có người nói: Vừa có cái
chết đời khác như vậy và không có cái chết đời khác như vậy, đây là thật
ngoài ra đều hư dối. Lại có người nói: Chẳng phải có chẳng phải không
cái chết đời khác như vậy, đây là thật ngoài ra đều hư dối.
“Nếu Sa-môn, Bà-la-môn nào có những lý luận như vầy, những kiến giải
như vầy: Thế gian là thường, đây là lời nói chắc thật ngoài ra đều hư
dối, những người ấy hành với kiến chấp về ngã, kiến chấp về thân, kiến
chấp về mạng, kiến chấp về thế gian, cho nên nói rằng: Ngã và thế gian
là thường. Những ai chủ trương là vô thường, những người ấy hành với
kiến chấp về ngã, kiến chấp về mạng, kiến chấp về thân, kiến chấp về thế
gian cho nên nói rằng: Ngã và thế gian là vô thường. Những ai chủ
trương là vừa thường vừa vô thường, những người ấy hành với kiến chấp về
ngã, kiến chấp về mạng, kiến chấp về thân, kiến chấp về thế gian, cho
nên nói rằng: Thế gian vừa thường vừa vô thường. Những ai chủ trương
rằng chẳng phải thường cũng chẳng phải vô thường, những người ấy hành
với kiến chấp về ngã, có kiến chấp về mạng, có kiến chấp về thân, có
kiến chấp về thế gian, cho nên nói rằng: Ngã và thế gian chẳng phải
thường chẳng phải vô thường.
“Những ai chủ trương thế gian là hữu biên, những người ấy hành với
kiến chấp về ngã, kiến chấp về mạng, kiến chấp về thân, kiến chấp về thế
gian, cho nên nói rằng: Mạng là hữu biên; thân là hữu biên; thế gian là
hữu biên. Từ lúc mới thụ thai cho đến khi bị vứt bỏ nơi gò mả, thì
những gì thuộc về thân bốn đại đều chuyển di như vậy tối đa cho đến bảy
đời. Khi các hành thân, mạng đã hết thì ngã nhập vào thanh tịnh tụ, cho
nên nói rằng: Ngã là có biên. Những người chủ trương ngã và thế gian là
vô biên, những người này hành với kiến chấp về ngã, kiến chấp về mạng,
kiến chấp về thân, kiến chấp về thế gian, cho nên nói rằng: Mạng là vô
biên, thân là vô biên, thế gian là vô biên. Từ lúc mới thụ thai cho đến
khi bị vứt bỏ nơi gò mả, những gì thuộc về thân bốn đại đều chuyển
di như vậy tối đa cho đến bảy đời. Khi các hành thân, mạng đã hết thì
ngã nhập thanh tịnh tụ, cho nên nói rằng: Ngã và thế gian là vô biên.
Những ai chủ trương thế gian này vừa hữu biên vừa vô biên, những người
ấy hành với kiến chấp về ngã, kiến chấp về mạng, kiến chấp về thân, kiến
chấp về thế gian, cho nên nói rằng: Mạng vừa hữu biên vừa vô biên. Từ
lúc mới thụ thai cho đến khi bị vứt bỏ nơi gò mả, những gì thuộc về thân
bốn đại đều chuyển di như vậy tối đa cho đến bảy đời. Khi các hành
thân, mạng đã hết thì ngã nhập thanh tịnh tụ, cho nên nói rằng: Ngã vừa
hữu biên vừa vô biên. Những ai chủ trương ngã và thế gian là không phải
hữu biên không phải vô biên, những người ấy hành với kiến chấp về ngã,
kiến chấp về mạng, kiến chấp về thân, kiến chấp về thế gian, cho nên
nói rằng: Mạng và thân chẳng phải hữu biên chẳng phải vô biên. Từ lúc
mới thụ thai cho đến khi bị vứt bỏ nơi gò mả, những gì thuộc về thân bốn
đại đều chuyển di như vậy tối đa cho đến bảy đời. Khi các hành thân,
mạng đã hết thì ngã nhập thanh tịnh tụ, cho nên nói rằng: Ngã chẳng phải
hữu biên chẳng phải là vô biên.
“Những người chủ trương mạng tức là thân, thì đối với thân này có
kiến chấp về mạng; đối với thân khác, có kiến chấp về mạng, cho nên nói
rằng: Mạng tức là thân. Những người chủ trương mạng khác với thân, thì
đối với thân này có kiến chấp về mạng, đối với thân khác không có kiến
chấp về mạng, cho nên nói rằng: Mạng khác với thân. Những ai chủ trương
mạng chẳng phải có, chẳng phải không, thì đối với thân này không có kiến
chấp về mạng, đối với thân khác lại có kiến chấp về mạng, cho nên nói
rằng: Chẳng phải có, chẳng phải không. Những ai chủ trương không có
thân, mạng, thì đối với thân này họ không có kiến chấp về mạng, cho nên
nói rằng: Không có mạng, không có thân.
“Có người bảo: Có cái chết của đời khác như vậy, vì thấy hiện tại có
thân mạng và đời sau cũng có thân mạng du hành, cho nên họ bảo rằng: Có
cái chết đời khác như vậy. Có người bảo: Không có cái chết của đời khác
như vậy, vì người này bảo đời hiện tại có mạng, nhưng đời sau không có
mạng, cho nên nói rằng: Không có cái chết của đời khác như vậy. Có người
bảo: Vừa có cái chết của đời khác như vậy, vừa không có cái chết của
đời khác như vậy, vì người ấy bảo đời hiện tại mạng bị đoạn diệt, đời
sau mạng du hành, cho nên nói rằng: Vừa có mạng của đời khác như vậy,
không có mạng của đời khác như vậy. Có người bảo: Chẳng phải có, chẳng
phải không cái chết của đời khác như vậy, vì người ấy bảo thân, mạng
hiện tại bị đoạn diệt; thân, mạng đời sau bị đoạn diệt, cho nên
bảo rằng: Chẳng phải có, chẳng phải không cái chết của đời khác như
vậy.”
Bấy giờ, Ðức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Lâu xa về thời quá khứ có vị vua tên là Kính Diện. Một hôm nhà vua
tập họp những người mù lại một chỗ và hỏi: Này những người mù từ khi mới
sinh, các ngươi có biết con voi không? Họ đáp: Tâu đại vương, chúng tôi
không biết! Nhà vua lại hỏi: Các ngươi có muốn biết hình loại con voi
ra sao không? Họ đáp: Muốn biết. Bấy giờ nhà vua ra lệnh cho người hầu
dắt con voi đến và bảo những người mù này dùng tay của mình sờ thử.
Trong đó có người sờ trúng vòi voi, thì vua nói rằng đấy là con voi; có
người sờ trúng ngà voi, có người sờ trúng tai voi, có người sờ trúng đầu
voi, có người sờ trúng lưng voi, có người sờ trúng bụng voi, có người
sờ trúng bắp đùi voi, có người sờ trúng chân voi, có người sờ trúng bàn
chân voi, có người sờ trúng đuôi voi, thì vua cứ theo chỗ sờ được
của họ mà bảo: Ðó là con voi.
“Rồi vua Kính Diện liền ra lệnh dắt voi lui và hỏi những người mù:
Voi giống như cái gì? Trong những người mù này, người sờ trúng vòi thì
bảo voi giống như cái càng xe bị cong; người sờ trúng ngà thì bảo voi
giống như cái chày; người sờ trúng tai thì bảo voi giống như cái nia;
người sờ trúng đầu thì bảo voi giống như cái vạc; người sờ trúng lưng
thì bảo voi giống như gò đất; người sờ trúng bụng thì bảo voi giống như
bức tường; người sờ trúng bắp đùi thì bảo voi giống như gốc cây; người
sờ trúng cái chân thì bảo voi giống như trụ cột; người sờ trúng bàn chân
thì bảo voi giống như cái cối; người sờ trúng đuôi thì bảo voi giống
như cây chổi. Họ tranh cãi nhau về việc đúng sai, người này bảo như vậy,
người kia bảo không phải như vậy, vân vân và vân vân không dứt, đưa đến
việc đấu tranh nhau. Lúc ấy nhà vua thấy vậy, hoan hỷ cười to. Rồi thì,
vua Kính Diện nói bài tụng:
- Những người mù tụ tập,
- Tranh cãi tại nơi này,
- Thân voi vốn một thể,
- Tưởng khác sinh thị phi”.
Phật bảo các Tỳ-kheo:
“Các dị học ngoại đạo lại cũng như vậy; không biết Khổ đế, không biết
Tập đế, Tận đế và Ðạo đế, sinh ra những kiến giải khác nhau, tranh chấp
thị phi với nhau, họ tự cho mình là đúng, nên đưa đến mọi việc tranh
tụng. Nếu có Sa-môn, Bà-la-môn nào có thể biết như thật về Khổ thánh đế,
Khổ tập thánh đế, Khổ diệt thánh đế và Khổ xuất yếu thánh đế, những vị
ấỵ sẽ tự tư duy và khéo cùng nhau hòa hợp, cùng một lãnh thọ, cùng một
Thầy học, như nước với sữa, thì pháp Phật mới rực rỡ, sống an lạc lâu
dài.”
Bấy giờ Ðức Thế Tôn nói bài kệ:
- Nếu người không biết khổ,
- Không biết chỗ khổ sinh;
- Lại cũng không biết khổ,
- Sẽ diệt tận ở đâu;
- Lại cũng không thể biết,
- Con đường diệt khổ tập;
- Thì mất tâm giải thoát,
- Tuệ giải thoát cũng mất;
- Không thể biết gốc khổ,
- Nguồn sanh, già, bệnh, chết.
- Nếu biết thật về khổ,
- Biết nhân sinh ra khổ;
- Cũng biết rõ khổ kia,
- Sẽ diệt tận nơi nào;
- Lại hay khéo phân biệt,
- Con đường diệt khổ tập;
- Thì được tâm giải thoát,
- Tuệ giải thoát cũng vậy.
- Người này chấm dứt được,
- Cội gốc của khổ ấm;
- Hết sanh, già, bệnh, chết,
- Nguồn gốc của thọ, hữu.”
Này các Tỳ-kheo, cho nên các Thầy nên siêng cầu phương tiện tư duy về
Khổ thánh đế, Khổ tập thánh đế, Khổ diệt thánh đế và Khổ xuất yếu thánh
đế.
PHẨM
6: A-TU-LUÂN
Phật bảo các Tỳ-kheo:
“Trong đáy nước biển lớn ở phía Bắc của núi Tu-di, có một thành của
La-ha A-tu-luân, bề ngang rộng khoảng tám vạn do-tuần, thành của nó có
bảy lớp, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây, trang điểm
chung quanh đều bằng bảy thứ báu tạo thành. Chiều cao của thành là ba
ngàn do-tuần, rộng hai ngàn do-tuần. Cửa thành của nó cao một ngàn
do-tuần, rộng cũng một ngàn do-tuần. Thành vàng thì cửa bạc, thành bạc
thì cửa vàng,. cho đến, vô số các loài chim cùng nhau ríu rít cũng lại
như trên. Tiểu thành, chỗ ngự trị của vị vua A-tu-luân này ở ngay trong
thành lớn có tên là Luân-thâu-ma-bạt-tra , dọc ngang sáu vạn do-tuần.
Thành của nó gồm bảy lớp, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng
cây, trang điểm chung quang bằng bảy thứ báu tạo thành. Thành cao ba
ngàn
do-tuần, rộng hai ngàn do-tuần. Cửa thành của nó cao hai ngàn do-tuần,
rộng một ngàn do-tuần. Thành vàng thì cửa bạc, cửa bạc thì thành vàng,.
cho đến, vô số các loài chim cùng nhau ríu rít cũng lại như trên.
“Ở trong thành này, xây dựng riêng nhà hội nghị có tên là
Thất-thi-lợi-sa, bảy lớp tường hào, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy
lớp hàng cây, trang điểm chung quanh bằng bảy thứ báu tạo thành. Nền nhà
hội nghị hoàn toàn dùng bằng xa cừ; cột nhà, sà nhà hoàn toàn đều dùng
bảy báu. Chu vi những trụ cột ở chính giữa một ngàn do-tuần, cao một vạn
do-tuần. Ở dưới những trụ cột này có tòa Chánh pháp, dọc ngang bảy trăm
do-tuần, đều dùng bảy báu chạm trổ mà thành. Nhà này có bốn cửa, được
bao quanh bằng bảy lớp đình thềm lan can, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới,
bảy lớp hàng cây, trang hoàng chung quanh bằng bảy báu,. cho đến, các
loài chim cùng nhau ríu rít, cũng lại như đã kể.
“Ở phía Bắc nhà hội nghị này có cung điện A-tu-luân, dọc ngang một
vạn do-tuần. Cung điện có bảy lớp tường, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới,
bảy lớp hàng cây, trang hoàng chung quanh bằng bảy báu, cho đến, vô số
các loài chim cùng nhau ríu rít, cũng như đã kể.
“Phía Ðông nhà hội nghị này có một khu rừng vườn tên là Sa-la, dọc
ngang một vạn do-tuần. Vườn có bảy lớp tường, bảy lớp lan can, bảy lớp
lưới, bảy lớp hàng cây, trang hoàng chung quanh bằng bảy báu,. cho đến,
vô số các loài chim cùng nhau ríu rít, cũng lại như đã kể.
“Phía Nam nhà hội nghị này có một khu vườn rừng tên là Cực diệu, dọc ngang một vạn do-tuần như vườn Sa-la.
“Phía Tây nhà hội nghị có một khu vườn rừng tên là Thiểm-ma, dọc ngang một vạn do-tuần cũng như vườn rừng Ta la.
“Phía Bắc nhà hội nghị này có một khu vườn rừng, tên là Nhạc lâm, bề ngang một vạn do-tuần cũng như vườn rừng Sa-la.
“Giữa hai khu vườn Sa-la và Cực diệu có cây Trú độ, thấp là bảy
do-tuần, cao thì một trăm do-tuần, cành lá vươn ra bốn phía cỡ năm mươi
do-tuần, cây có bảy lớp bờ tường, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp
hàng cây, trang hoàng chung quanh bằng bảy báu,. cho đến, vô số các
loài chim cùng nhau ríu rít, cũng lại như đã kể. Lại nữa, giữa hai khu
vườn Thiểm-ma và Nhạc lâm này có ao Bạt-nan-đà, nước của nó trong mát,
không có cáu bẩn, hào báu bảy lớp, chung quanh cạnh thềm là bảy lớp lan
can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây, trang hoàng chung quanh bằng bảy
thứ báu. Ở trong ao này sinh ra bốn loài hoa, lá hoa bề ngang rộng một
do-tuần, hương thơm bay phảng phất cũng một do-tuần; rễ như ổ trục xe,
nhựa của nó lưu xuất ra có màu trắng như sữa, vị ngọt như mật và vô số
các
loài chim cùng nhau hót líu lo. Hơn nữa, bên cạnh ao này có bảy lớp đình
thềm, bảy lớp tường cửa, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng
cây, trang hoàng chung quanh bằng bảy thứ báu,. cho đến, vô số các loài
chim cùng nhau hót líu lo, cũng lại như vậy.
“Cung điện thần hạ của vua A-tu-luân, dọc ngang một vạn do-tuần, rồi
chín ngàn, tám ngàn và cho đến cung điện nhỏ nhất là một ngàn do-tuần.
Cung điện có bảy lớp tường, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng
cây, trang hoàng chung quanh bằng bảy thứ báu,. cho đến, vô số các loài
chim cùng nhau hót líu lo, cũng lại như vậy.
“Cung điện của Tiểu A-tu-luân, dọc ngang một ngàn do-tuần, rồi chín
trăm, tám trăm và cho đến cung điện cực nhỏ là một trăm do-tuần. Cung
điện có bảy lớp tường, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây,
trang hoàng chung quanh bằng bảy thứ báu,. cho đến, vô số các loài chim
cùng nhau hót líu lo, cũng lại như vậy.
“Phía Bắc nhà hội nghị có bảy đường cấp báu dẫn vào trong cung điện;
lại có đường cấp dẫn đến vườn Sa-la; có đường cấp dẫn đến vườn Cực diệu;
có đường dẫn đến vườn Thiểm-ma; có đường cấp dẫn đến vườn Nhạc lâm; có
đường cấp dẫn đến cây Trú độ; có đường cấp dẫn đến ao Bạt-nan-đà; có
đường cấp dẫn đến cung điện đại thần; có đường cấp dẫn đến cung điện của
Tiểu A-tu-luân.
“Nếu khi nào vua A-tu-luân muốn đến vườn Sa-la để ngoạn cảnh, chỉ cần
nghĩ đến vua Tỳ-ma-chất-đa A-tu-luân, thì vua Tỳ-ma-chất-đa A-tu-luân
lại tự nghĩ rằng: vua La-ha A-tu-luân đang nghĩ đến ta. Liền tự sửa soạn
trang bị, đóng ngựa vào xe báu, cùng vô số người hầu kẻ hạ vây quanh
theo sau, đến trước vua La-ha A-tu-luân, đứng một bên.
“Lại khi vua A-tu-luân lại nghĩ đến vua Ba-la-ha A-tu-luân, thì vua
Ba-la-ha A-tu-luân nghĩ rằng: Nay vua đang nghĩ đến ta. Liền tự sửa soạn
trang bị, đóng ngựa vào xe báu, cùng với vô số kẻ hầu người hạ vây
quanh theo sau đến đứng một bên trước vua La-ha.
“Khi vua A-tu-luân lại nghĩ đến vua Thiểm-ma A-tu-luân, thì vua
Thiểm-ma A-tu-luân lại tự nghĩ rằng: Hiện nay vua đang nghĩ đến ta. Liền
tự sửa soạn trang bị đóng ngựa vào xe báu, cùng vô số kẻ hầu người hạ
vây quanh theo sau, đến đứng một bên trước vua La-ha.
“Khi vua lại nghĩ đến đại thần của vua A-tu-luân, thì đại thần của
A-tu-luân lại nghĩ rằng: Nay vua đang nghĩ đến ta. Liền tự sửa soạn
trang bị đóng ngựa vào xe báu, cùng vô số kẻ hầu người hạ vây quanh theo
sau, đến đứng một bên trước vua La-ha. Lúc này, vua lại nghĩ đến Tiểu
A-tu-luân, thì Tiểu A-tu-luân lại nghĩ rằng: Nay vua đang nghĩ đến ta.
Liền tự sửa soạn trang bị cùng mọi người đến đứng một bên trước vua
La-ha.
“Lúc này, vua La-ha mình mặc áo báu, đóng ngựa vào xe báu, cùng với
vô số mọi người vây quanh trước sau đến trong rừng Sa-la, thì tự nhiên
có gió thổi cửa tự mở, tự nhiên gió thổi đất sạch, tự nhiên gió thổi hoa
rụng xuống đất, ngập đến đầu gối. Sau khi vua La-ha vào vườn này rồi,
thì cùng nhau vui đùa từ một ngày, hai ngày,. cho đến bảy ngày. Sau khi
vua đùa xong, liền trở về lại cung điện mình. Sau đó việc ngoạn cảnh đối
với vườn Cực diệu, vườn Thiểm-ma, vườn Nhạc lâm, thì cũng lại như vậy.
Lúc này, vua La-ha luôn luôn có năm Ðại A-tu-luân hầu cận và bảo vệ hai
bên: một tên là Ðề Trì, hai tên là Hùng Lực, ba tên là Võ Di, bốn tên là
Ðầu Thủ, năm tên là Tồi Phục. Năm Ðại A-tu-luân này luôn luôn hầu cận
bảo vệ hai bên. Cung điện của vua La-ha này ở dưới nước biển
lớn. Nước biển ở trên được duy trì bởi bốn thứ gió: một là trụ phong,
hai là trì phong, ba là bất động, bốn là kiên cố ; chúng giữ cho nước
biển lớn, treo ngược giữa hư không, giống như mây nổi, cách cung điện
A-tu-luân một vạn do-tuần, không bao giờ bị rớt. Oai thần, công đức và
phước báo của vua A-tu-luân là như vậy”.
PHẨM 7: TỨ THIÊN VƯƠNG
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Cách phía Ðông Tu-di sơn vương một ngàn do-tuần có thành của
Ðề-đầu-lại-tra Thiên vương, tên là Hiền thượng, dọc ngang sáu ngàn
do-tuần. Thành này có bảy lớp, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp
hàng cây, trang hoàng chung quanh bằng bảy thứ báu,. cho đến, có vô số
các loài chim cùng nhau ca hót líu lo, cũng lại như đã kể.
“Cách phía Nam Tu-di sơn vương một ngàn do-tuần có thành của
Tỳ-lâu-lặc Thiên vương, tên là Thiện kiến, dọc ngang sáu ngàn do-tuần.
Thành này có bảy lớp, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây,
trang hoàng chung quanh bằng bảy thứ báu,. cho đến, có vô số các loài
chim cùng nhau ca hót líu lo, cũng lại như vậy.
“Cách phía Tây Tu-di sơn vương một ngàn do-tuần có thành
Tỳ-lâu-bà-xoa Thiên vương, tên là Chu-la Thiện kiến, dọc ngang sáu ngàn
do-tuần. Thành có bảy lớp, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng
cây, trang hoàng chung quanh bằng bảy thứ báu,. cho đến, có vô số các
loài chim cùng nhau ca hót líu lo, cũng lại như vậy.
“Cách phía Bắc Tu-di sơn vương một ngàn do-tuần có thành của
Tỳ-sa-môn Thiên vương. Vua có ba thành: một tên là Khả úy, hai là Thiên
kính, ba là Chúng quy; mỗi thành dọc ngang sáu ngàn do-tuần. Thành này
có bảy lớp, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây, trang hoàng
chung quanh bằng bảy thứ báu,. cho đến, có vô số các loài chim cùng
nhau ca hót líu lo, cũng lại như vậy.
“Phía Bắc thành Chúng quy có vườn rừng, tên là Già-tỳ-diên-đầu, dọc
ngang bốn ngàn do-tuần, tường của vườn có bảy lớp, bảy lớp lan can, bảy
lớp lưới, bảy lớp hàng cây, trang hoàng chung quanh bằng bảy thứ báu,.
cho đến, có vô số các loài chim cùng nhau ca hót líu lo, cũng lại như
vậy. Ở quãng giữa vườn và thành có ao tên là Na-lân-ni rộng bốn mươi
do-tuần. Nước của nó lắng trong không bợn nhơ. Ven hồ được lát bằng bảy
báu làm thành mương nước; bảy lớp lan can, bảy lớp võng lưới, bảy lớp
hàng cây, trang hoàng chung quanh bằng bảy thứ báu; hoa sen xanh, vàng,
đỏ, trắng, lẫn lộn màu sắc ở trong đó, ánh sáng phản chiếu cả nửa
do-tuần, hương thơm phảng phất nghe khắp cả nửa do-tuần. Vả lại rễ của
nó lớn như ổ trục xe. Nhựa của nó lưu xuất ra màu trắng như sữa và có
vị ngọt như mật,. cho đến, có vô số các loài chim cùng nhau ca hót líu
lo, lại cũng như vậy.
“Trừ cung điện mặt trời, mặt trăng ra, cung điện của các Tứ thiên
vương, rộng độ bốn mươi do-tuần. Tường cung điện có bảy lớp với bảy lớp
lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây, trang hoàng chung quanh bằng
bảy thứ báu,. cho đến có vô số các loài chim cùng nhau ca hót líu lo,
cũng lại như vậy.
“Các cung điện này rộng bốn mươi do-tuần, hai mươi do-tuần và nhỏ
nhất bề ngang rộng năm do-tuần. Từ thành Chúng quy có đường cấp báu dẫn
đến thành Hiền thượng; lại có đường cấp dẫn đến thành Thiện kiến; lại có
đường cấp dẫn đến thành Chu-la Thiện kiến; lại có đường cấp dẫn đến
thành Khả úy, thành Thiên kính; lại có đường cấp dẫn đến vườn
Già-tỳ-diên-đầu; lại có đường cấp dẫn đến ao Na-lân-ni, lại có đường cấp
dẫn đến cung điện đại thần của Tứ thiên vương.
“Khi Tỳ-sa-môn Thiên vương muốn đến ngoạn cảnh tại vườn
Già-tỳ-diên-đầu, thì lập tức nghĩ đến Ðề-đầu-lại-tra Thiên vương;
Ðề-đầu-lại-tra Thiên vương lại nghĩ rằng: Hiện tại Tỳ-sa-môn Thiên vương
đang nghĩ đến ta. Liền tự mình sửa soạn trang bị, đóng ngựa vào xe báu,
cùng với vô số thần Kiền-đạp-hòa vây quanh trước sau, đến đứng một bên
trước Tỳ-sa-môn Thiên vương. Khi vua Tỳ-sa-môn nghĩ đến Tỳ-lâu-lặc
Thiên vương, thì Tỳ-lâu-lặc Thiên vương lại tự nghĩ rằng: Nay vua
Tỳ-sa-môn đang nghĩ đến ta. Liền tự mình sửa soạn trang bị đóng ngựa vào
xe báu, cùng với vô số thần Cứu-bàn-trà vây quanh trước sau, đến đứng
một bên trước Tỳ-sa-môn Thiên vương. Khi vua Tỳ-sa-môn nghĩ đến
Tỳ-lâu-bà-xoa, thì Tỳ-lâu-bà-xoa lại tự nghĩ rằng: Hiện tại Tỳ-sa-môn
Thiên vương đang
nghĩ đến ta. Liền tự mình sửa soạn trang bị, đóng ngựa vào xe báu, cùng
với vô số Long thần vây quanh trước sau, đến đứng một bên trước vua
Tỳ-sa-môn. Khi vua Tỳ-sa-môn nghĩ đến đại thần của Tứ thiên vương, thì
đại thần của Tứ thiên vương lại tự nghĩ rằng: Nay vua Tỳ-sa-môn đang
nghĩ đến ta. Liền tự mình sửa soạn trang bị, đóng ngựa vào xe báu, cùng
dẫn theo với vô số chư Thiên, đến đứng một bên trước Tỳ-sa-môn Thiên
vương.
“Lúc này, Tỳ-sa-môn Thiên vương liền sửa soạn trang bị, mặc y báu,
đóng ngựa vào xe báu, cùng với vô số trăm ngàn Thiên thần đến vườn
Tỳ-diên-đầu, tự nhiên có gió thổi cửa tự mở, tự nhiên có gió thổi sạch
đất, tự nhiên có gió thổi hoa rụng khắp mặt đất, ngập đến đầu gối. Nhà
vua ở trong vườn này cùng nhau vui đùa, từ một ngày, hai ngày,. cho đến
bảy ngày; sau khi ngoạn cảnh xong trở về cung điện của mình. Vua
Tỳ-sa-môn luôn luôn có năm vị đại quỷ thần hầu cận bảo vệ hai bên: một
là Bát-xà-lâu, hai là Ðàn-đà-la, ba là Hê-ma-bạt-đề, bốn là Ðề-kệ-la,
năm là Tu-dật-lộ-ma, năm vị quỷ thần này luôn luôn theo hầu bảo vệ. Oai
thần, công đức, phước báo của vua Tỳ-sa-môn là như vậy.”
PHẨM 8: ÐAO-LỢI THIÊN
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Trên đỉnh Tu-di sơn vương có thành của trời Tam thập tam. Thành dọc
ngang rộng tám vạn do-tuần; có bảy lớp với bảy lớp lan can, bảy lớp
lưới, bảy lớp hàng cây, trang hoàng chung quanh bằng bảy thứ báu. Thành
cao một trăm do-tuần, phần trên rộng sáu mươi do-tuần. Cửa thành cao sáu
mươi do-tuần, rộng ba mươi do-tuần. Cách nhau năm trăm do-tuần là có
một cái cửa; tại mỗi cửa này có năm trăm quỷ thần giữ gìn bảo vệ trời
Tam thập tam. Thành bằng vàng thì cửa bằng bạc, thành bạc thì cửa vàng.
cho đến vô số các loài chim cùng nhau ca hót bi thương, cũng lại như
vậy.
“Trong thành lớn này lại có thành nhỏ, dọc ngang rộng sáu vạn
do-tuần. Thành có bảy lớp với bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp
hàng cây, trang hoàng chung quanh bằng bảy thứ báu. Thành cao một trăm
do-tuần, rộng sáu mươi do-tuần. Cửa thành cách nhau năm trăm do-tuần,
cao sáu mươi do-tuần, rộng ba mươi do-tuần; tại mỗi cửa thành có năm
trăm quỷ thần thị vệ tại bên cửa, để giữ gìn trời Tam thập tam. Thành
bằng vàng thì cửa bằng bạc, thành bằng bạc thì cửa bằng vàng; thành bằng
thủy tinh thì cửa bằng lưu ly, thành bằng lưu ly thì cửa bằng thủy
tinh; thành bằng xích châu thì cửa bằng mã não, thành bằng mã não thì
cửa bằng xích châu; thành bằng xa cừ thì cửa bằng các thứ báu khác.
“Về lan can này: nếu lan can bằng vàng thì tam cấp bằng bạc, lan can
bằng bạc thì tam cấp bằng vàng; lan can bằng thủy tinh thì tam cấp bằng
lưu ly, lan can bằng lưu ly thì tam cấp bằng thủy tinh; lan can bằng
xích châu thì tam cấp bằng mã não, lan can bằng mã não thì tam cấp bằng
xích châu; lan can bằng xa cừ thì tam cấp bằng các thứ báu khác. Trên
những lan can này có lưới báu; dưới lưới vàng thì treo linh bạc, dưới
lưới bạc thì treo linh vàng; lưới bằng lưu ly thì treo linh bằng thủy
tinh, lưới bằng thủy tinh thì treo linh bằng lưu ly; lưới bằng xích châu
thì treo linh bằng mã não, lưới bằng mã não thì treo linh bằng xích
châu; lưới bằng xa cừ thì treo linh bằng các thứ báu khác. Về cây vàng:
nếu rễ vàng, cành vàng thì lá hoa bằng bạc ròng. Về cây bạc: nếu rễ bạc,
cành bạc thì lá hoa bằng vàng ròng. Về cây thủy tinh: nếu rễ, cành bằng
thủy tinh thì lá, hoa bằng lưu ly. Về cây lưu ly: nếu rễ, cành bằng lưu
ly thì lá hoa bằng thủy tinh. Về cây xích châu: nếu rễ, cành bằng xích
châu thì lá hoa bằng mã não. Về cây mã não: nếu rễ, cành bằng mã não thì
lá hoa bằng xích châu. Về cây xa cừ: nếu rễ, cành bằng xa cừ thì lá hoa
bằng các thứ báu khác.
“Về bảy lớp thành này: thành có bốn cửa, cửa có lan can. Trên bảy lớp
thành đều có đền đài, lầu các bao bọc chung quanh, có vườn rừng ao tắm,
sinh ra các loài hoa quý nhiều màu sắc xen lẫn nhau, cây báu thành
hàng, hoa trái tốt tươi đầy dẫy, hương thơm bay phảng phất khắp nơi làm
đẹp lòng mọi người. Có chim le, chim nhạn, uyên ương, cùng các loài chim
kỳ lạ, vô số hàng ngàn loại, cùng nhau ca hót.
“Khoảng giữa bên ngoài thành nhỏ này có cung điện của Long vương
Y-la-bát, dọc ngang rộng sáu ngàn do-tuần. Vách tường của cung điện có
bảy lớp, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây, trang hoàng
chung quanh bằng bảy thứ báu. cho đến vô số các loài chim cùng nhau ca
hót líu lo, cũng lại như vậy.
“Trong thành Thiện kiến này có Thiện pháp đường, dọc ngang một trăm
do-tuần; có bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây, trang hoàng
chung quanh bằng bảy thứ báu. Nền nhà hoàn toàn bằng vàng ròng, trên
mặt phủ lưu ly. Chu vi những cây cột trong nhà này là mười do-tuần, cao
một trăm do-tuần, dưới những trụ cột của ngôi nhà này là nơi đặt ngự tòa
của Thiên đế, bề ngang rộng độ một do-tuần, có nhiều màu sắc xen lẫn
nhau được tạo thành bởi bảy thứ báu. Ngự tòa này êm ái, mềm mại như lụa
trời và bên tả bên hữu, giáp hai bên tòa, có mười sáu chỗ ngồi.
“Pháp đường này có bốn cửa; chung quanh là lan can bằng bảy thứ báu.
Ðường cấp của ngôi nhà này dọc ngang năm trăm do-tuần, có bảy lớp cửa
ngoài, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây, trang hoàng
chung quanh bằng bảy thứ báu... cho đến, vô số các loài chim cùng nhau
ca hót líu lo, cũng lại như vậy.
“Phía Bắc ngôi nhà Thiện kiến có cung điện Ðế Thích, dọc ngang một
ngàn do-tuần; tường vách cung điện có bảy lớp với bảy lớp lan can, bảy
lớp lưới, bảy lớp hàng cây, trang hoàng chung quanh bằng bảy thứ báu...
cho đến, vô số các loài chim cùng nhau ca hót líu lo, cũng lại như vậy.
“Phía đÐông ngôi nhà Thiện kiến có vườn rừng tên là Thô sáp, ngang
rộng độ một ngàn do-tuần; tường vách cung điện có bảy lớp với bảy lớp
lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây, trang hoàng chung quanh bằng
bảy thứ báu... cho đến vô số các loài chim cùng nhau ca hót líu lo, cũng
lại như vậy. Trong vườn Thô sáp có hai ụ đá do vàng trời trang sức, một
gọi là Hiền, hai gọi là Thiện hiền, bề ngang mỗi ụ rộng năm mươi
do-tuần, đá này mềm mại, độ mềm mại của nó như vải trời.
“Phía Nam cung điện Thiện kiến có khu vườn tên là Họa lạc , ngang
rộng một ngàn do-tuần; vách tường của khu vườn có bảy lớp với bảy lớp
lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây, trang hoàng chung quanh bằng
bảy thứ báu... cho đến vô số các loài chim cùng nhau ca hót líu lo, cũng
lại như vậy. Trong vườn này có hai ụ đá bằng bảy thứ báu, một là Họa,
hai là Thiện họa, bề ngang mỗi ụ rộng độ năm mươi do-tuần, ụ đá này mềm
mại, độ mềm mại của nó như thiên y.
“Phía Tây ngôi nhà Thiện kiến có khu vườn tên là Tạp, ngang rộng một
ngàn do-tuần, bờ tường của khu vườn có bảy lớp, bảy lớp lan can, bảy lớp
lưới, bảy lớp hàng cây, trang hoàng chung quanh bằng bảy thứ báu... cho
đến vô số các loài chim cùng nhau ca hót líu lo, cũng lại như vậy.
Trong khu vườn này có hai ụ đá, một là Thiện kiến, hai là Thuận thiện
kiến, do vàng trời trang sức và do bảy báu tạo thành, bề ngang mỗi ụ
rộng độ năm mươi do-tuần, ụ đá này mềm mại và độ mềm mại của nó như
thiên y.
“Phía Bắc ngôi nhà Thiện kiến có khu vườn tên là Ðại hỷ, ngang rộng
một ngàn do-tuần, bờ tường của khu vườn có bảy lớp, bảy lớp lan can, bảy
lớp võng lưới, bảy lớp hàng cây, trang hoàng chung quanh bằng bảy thứ
báu... cho đến vô số các loài chim cùng nhau ca hót líu lo, cũng lại như
vậy. Trong vườn này có hai ụ đá, một gọi là Hỷ, hai gọi là Ðại hỷ, do
xa cừ trang sức, ngang rộng năm mươi do-tuần, ụ đá này mềm mại, độ mềm
mại của nó như thiên y.
“Ở quãng giữa vườn Thô sáp và vườn Họa nhạc có ao Nan-đà, ngang rộng
một trăm do-tuần; nước của nó lắng trong, không có một chút bợn nhơ,
chung quanh bên cạnh thềm là bảy lớp hào báu, bảy lớp lan can, bảy lớp
lưới, bảy lớp hàng cây, trang hoàng chung quanh bằng bảy thứ báu. Bốn
phía hồ này có bốn bậc thang, chung quanh lan can làm bằng bảy báu,. cho
đến có vô số các loài chim cùng nhau ca hót líu lo, lại cũng như vậy.
“Lại nữa trong ao này lại sinh ra bốn loại hoa xanh, vàng, đỏ, trắng,
hồng, xanh nhạt, nhiều màu xen lẫn nhau; bóng rợp của một lá hoa này
che một do-tuần; hương thơm phảng phất khắp một do-tuần; rễ của nó như ổ
trục xe, nhựa của nó lưu xuất ra có màu trắng như sữa, vị ngọt như mật.
Bốn phía ao này lại có những khu vườn.
“Giữa hai khu vườn Tạp và khu vườn Ðại hỷ có cây tên là Trú độ, chu
vi độ bảy do-tuần, cao một trăm do-tuần, cành lá bao trùm ra bốn phía độ
năm mươi do-tuần, ngoài cây có ngôi đình trống, bề ngang rộng năm trăm
do-tuần, bờ tường của cung điện có bảy lớp, bảy lớp lan can, bảy lớp
võng lưới, bảy lớp hàng cây, trang hoàng chung quanh bằng bảy thứ báu...
cho đến vô số các loài chim cùng nhau ca hót líu lo, cũng lại như vậy.
“Ngoài ra các cung điện khác của Ðao-lợi thiên, ngang rộng một ngàn
do-tuần, tường cung điện có bảy lớp với bảy lớp lan can, bảy lớp võng
lưới, bảy lớp hàng cây, trang hoàng chung quanh bằng bảy thứ báu... cho
đến vô số các loài chim cùng nhau ca hót líu lo, cũng lại như vậy. Những
cung điện này ngang rộng từ chín trăm, tám trăm cho đến nhỏ nhất là một
trăm do-tuần, bờ tường cung điện có bảy lớp, bảy lớp lan can, bảy lớp
võng lưới, bảy lớp hàng cây, trang hoàng chung quanh bằng bảy thứ báu...
cho đến vô số các loài chim cùng nhau ca hót líu lo, cũng lại như vậy.
Những cung điện nhỏ, ngang rộng từ một trăm do-tuần, chín mươi, tám
mươi, cho đến cực nhỏ là mười hai do-tuần, bờ tường của cung điện có bảy
lớp, bảy lớp lan can, bảy lớp võng lưới, bảy lớp hàng cây, trang
hoàng chung quanh bằng bảy thứ báu... cho đến vô số các loài chim cùng
nhau ca hót líu lo, cũng lại như vậy.
“Phía Bắc ngôi nhà Thiện kiến có hai đường cấp dẫn đến cung điện Ðế
Thích. Phía Ðông ngôi nhà Thiện kiến có hai đường cấp dẫn đến khu vườn
Thô sáp; lại có hai đường cấp dẫn đến vườn Họa lạc; lại có đường cấp dẫn
đến trong khu vườn Tạp; lại có đường cấp dẫn đến khu vườn Ðại hỷ; lại
có đường cấp dẫn đến ao Ðại hỷ ; lại có đường cấp dẫn đến cây Trú độ;
lại có đường cấp dẫn đến cung điện Tam thập tam thiên; lại có đường cấp
dẫn đến cung điện chư Thiên; lại có đường cấp dẫn đến cung điện Y-la-bát
Long vương. Nếu khi Thiên Ðế Thích muốn du ngoạn đến trong vườn Thô
sáp, liền nghĩ đến vị đại thần của trời Tam thập tam, thì đại thần Tam
thập tam thiên lại tự nghĩ rằng: Hiện nay Ðế Thích đang nghĩ đến ta.
Liền tự mình sửa soạn trang bị, đóng ngựa vào xe báu, cùng với vô số mọi
người vây quanh trước sau đến đứng một bên trước Ðế Thích. Khi Ðế Thích
nghĩ đến chư Thiên khác, thì chư Thiên nghĩ rằng: Hiện nay Ðế Thích đang
nghĩ đến ta. Liền tự mình sửa soạn trang bị, cùng với vô số chúng chư
Thiên theo nhau đến đứng một bên trước Ðế Thích. Khi Ðế Thích nghĩ đến
Y-la-bát Long vương, thì Y-la-bát Long vương lại tự nghĩ rằng: Hiện nay
Ðế Thích đang nghĩ đến ta. Long vương liền tự biến hóa thân hình ra ba
mươi ba cái đầu, mỗi cái đầu có sáu cái răng, mỗi cái răng có bảy hồ
tắm, mỗi hồ tắm có bảy hoa sen lớn, mỗi hoa sen có một trăm lá, mỗi lá
hoa có bảy ngọc nữ, ca nhạc, múa xướng, đánh trống, khảy đàn, vỗ nhịp ở
trên đó. Sau khi vị Long vương biến hóa như vậy rồi, đi đến đứng một bên
trước Ðế Thích.
“Lúc này, Thích-đề-hoàn Nhân mặc vào thân mình những đồ trang sức quý
báu cùng anh lạc, ngồi trên đầu thứ nhất của Y-la-bát Long vương, kế
đó, hai bên mỗi đầu còn có mười sáu vị Thiên vương ở trên đỉnh đầu Long
vương này, theo thứ tự mà ngồi. Bấy giờ, Thiên Ðế Thích cùng với vô số
quyến thuộc chư Thiên vây quanh đến vườn Thô sáp, tự nhiên có gió thổi
cửa tự động mở, tự nhiên có gió thổi khiến cho đất sạch; tự nhiên có gió
thổi làm những đóa hoa rơi khắp mặt đất và tích tụ hoa rụng lại ngập
đến cả đầu gối. Lúc này Thiên Ðế Thích ngồi trên hai ụ đá Hiền và Thiện
hiền theo ý thích, còn Ba mươi ba vị Thiên vương mỗi người tự theo thứ
tự mà ngồi. Lại nữa, có những chư Thiên không được phép theo hầu để đến
tham quan viên quán này, không được vào vườn để vui đùa ngũ dục. Vì
sao? Vì công đức mà họ vốn thực hành không đồng. Lại có những chư Thiên
thấy được khu vườn mà không vào được và không được cùng nhau vui đùa ngũ
dục. Vì sao? Vì công đức mà họ vốn thực hành không đồng. Lại có những
chư Thiên thấy được, vào được, nhưng không được cùng nhau vui đùa ngũ
dục. Vì sao? Vì công đức mà họ vốn thực hành không đồng. Lại có những
chư Thiên vào được, thấy được và vui đùa ngũ dục được. Vì sao? Vì công
đức mà họ vốn thực hành đồng nhau.
“Sau thời gian du hí trong vườn, chư Thiên đã tự vui ngũ dục, từ một
ngày, hai ngày, cho đến bảy ngày, họ đã cùng nhau vui đùa xong và mỗi
người tự trở về cung điện. Khi Thiên Ðế Thích du ngoạn vườn Họa lạc,
vườn Tạp, vườn Ðại hỷ cũng lại như vậy.
“Vì sao gọi là vườn Thô sáp? Vì lúc vào trong vườn này, thì thân thể
trở nên thô nhám. Vì sao gọi là vườn Họa lạc? Vì lúc vào vườn này, thì
thân thể tự nhiên có những sắc màu như vẽ dùng để vui đùa. Vì sao gọi
là vườn Tạp? Vì thường những ngày mùng tám, ngày mười bốn, ngày mười lăm
của mỗi tháng, ngoại trừ người nữ A-tu-luân, các thể nữ được thả tự do
để cùng các Thiên tử ở trong vườn này cùng du hí hỗn tạp với nhau, cho
nên gọi là vườn Tạp. Vì sao gọi là vườn Ðại hỷ? Vì lúc vào vườn này, thì
có thể vui đùa một cách hoan hỷ, cho nên gọi là Ðại hỷ. Vì sao gọi là
nhà Thiện pháp? Vì ở trên ngôi nhà này mà tư duy về pháp vi diệu, nhận
lãnh cái vui thanh tịnh, cho nên gọi là nhà Thiện pháp. Vì sao gọi là
cây Trú độ? Vì cây này có vị thần tên là Mạn-đà
thường thường tấu nhạc để tự vui đùa, cho nên gọi là Trú độ. Lại nữa,
cành nhánh của cây lớn này vươn ra bốn phía, hoa lá rậm rạp tốt tươi như
đám mây báu lớn, cho nên gọi là Trú độ.
“Hai bên tả hữu của Thích Ðề-hoàn Nhân thường có mười đại Thiên tử
theo sau để hầu hạ và bảo vệ đó là: một tên là Nhân-đà-la, hai tên là
Cù-di, ba tên là Tỳ-lâu, bốn tên là Tỳ-lâu-bà-đề, năm tên là Ðà-la, sáu
tên là Bà-la, bảy tên là Kỳ-bà, tám tên là Linh-hê-nậu, chín tên là
Vật-la, mười tên là Nan-đầu. Thích Ðề-hoàn Nhân có thần lực lớn và oai
đức như vậy.
Các loại hoa mọc trong nước mà người Diêm-phù-đề quý như: Ưu-bát-la,
Bát-đầu-ma, Câu-vật-đầu, Phân-đà-lỵ, Tu-càn-đầu, hương thơm của chúng
thanh khiết nhẹ nhàng. Cũng vậy, các loại hoa mọc ra trên đất liền; đó
là: Giải thoát hoa, Ðảm-bặc-hoa, Bà-la-đà-hoa, Tu-mạn-châu-na hoa, Bà-sư
hoa, Ðồng nữ hoa. Giống như những hoa sinh ra ở nước, ở đất liền, thì
những hoa sinh ra ở Câu-da-ni, Uất-đan-viết, Phất-vu-đãi, Long cung, Kim
sí điểu cung cũng lại như vậy. Những hoa sinh ra ở trong thủy cung của
A-tu-luân: hoa Ưu-bát-la, hoa Bát-đầu-ma, hoa Câu-vật-đầu, hoa
Phân-đà-lỵ, hương thơm của chúng nhẹ nhàng thanh khiết. Những hoa sinh
ra nơi đất liền: hoa Thù-hảo, hoa Tần-phù, hoa đại Tần-phù, hoa
Già-già-lợi, hoa đại Già-già-lợi, hoa Mạn-đà-la, hoa đại Mạn-đà-la.
Những hoa sinh
ra ở nước, ở đất liền này được Tứ thiên vương, Tam thập tam thiên,
Diễm-ma thiên, Ðâu-suất thiên, Hóa tự tại thiên, Tha hóa tự tại thiên
yêu quý cũng lại như vậy.
“Cõi Trời có mười loại pháp; đó là: một, bay đi không hạn số; hai,
bay đến không hạn số; ba, đi vô ngại; bốn, đến vô ngại; năm, thân Trời
không có da, xương, gân, mạch, máu, thịt; sáu, thân không có việc đại,
tiểu tiện bất tịnh; bảy, thân không mệt nhọc; tám, Thiên nữ không sinh
đẻ; chín, mắt Trời không nháy; mười, thân tùy thuộc vào màu sắc của ý
mình, như thích xanh thì hiện xanh, thích vàng thì vàng, đỏ, trắng và
các màu khác tùy theo ý mình mà hiện. Ðó là mười pháp của chư Thiên.
“Con người có bảy màu sắc, đó là: có người màu lửa, có người màu
xanh, có người màu vàng, có người màu đỏ, có người màu đen, có người màu
trắng. Chư Thiên, A-tu-luân cũng có bảy màu sắc như vậy.
“Các Tỳ-kheo, ánh sáng của con đom đóm không bằng đèn, nến; ánh sáng
của đèn, nến không bằng bó đuốc; ánh sáng của bó đuốc không bằng đống
lửa; ánh sáng của đống lửa không bằng ánh sáng của sắc thân, y phục, anh
lạc, thành quách, cung điện của Tứ thiên vương; ánh sáng của sắc thân, y
phục, anh lạc, thành quách, cung điện của Tứ thiên vương không bằng ánh
sáng của Tam thập tam thiên; ánh sáng của Tam thập tam thiên không bằng
ánh sáng của Diệm-ma thiên; ánh sáng của Diệm-ma thiên không bằng ánh
sáng của Ðâu-suất thiên, ánh sáng của Ðâu-suất thiên không bằng ánh sáng
của Hóa tự tại thiên; ánh sáng của Hóa tự tại thiên không bằng ánh sáng
của Tha hóa tự tại thiên; ánh sáng của Tha hóa tự tại thiên không bằng
ánh sáng của sắc thân, y phục, cung điện Phạm-ca-di thiên; ánh
sáng của sắc thân, y phục, cung điện Phạm-ca-di thiên không bằng ánh
sáng của Quang âm thiên; ánh sáng của Quang âm thiên không bằng ánh sáng
của Biến tịnh thiên; ánh sáng của Biến tịnh thiên không bằng ánh sáng
của Quả thật thiên; ánh sáng của Quả thật thiên không bằng ánh sáng của
Vô tưởng thiên; ánh sáng của Vô tưởng thiên không bằng ánh sáng của Vô
tạo thiên; ánh sáng của Vô tạo thiên không bằng ánh sáng của Vô nhiệt
thiên; ánh sáng của Vô nhiệt thiên không bằng ánh sáng của Thiện kiến
thiên; ánh sáng của Thiện kiến thiên không bằng ánh sáng của Ðại Thiện
kiến thiên; ánh sáng của Ðại Thiện kiến thiên không bằng ánh sáng của
Cứu cánh thiên; ánh sáng của Cứu cánh thiên không bằng ánh sáng của Tha
hóa tự tại thiên; ánh sáng của Tha hóa tự tại thiên không bằng ánh sáng
của Phật. Từ ánh sáng của con đom đóm đến ánh sáng của Phật, mà kết hợp
những thứ ánh sáng như vậy lại, thì cũng không bằng ánh sáng của Khổ đế,
Tập đế, Diệt đế và Ðạo đế. Cho nên, các Tỳ-kheo! Muốn tìm cầu ánh sáng,
thì phải cầu ánh sáng của Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Ðạo đế. Các ngươi
nên như vậy mà tu hành.
“Thân người ở cõi Diêm-phù-đề cao ba khuỷu tay rưỡi; y dài bảy khuỷu
tay, rộng ba khuỷu tay rưỡi. Thân người ở Cù-da-ni, Phất-vu-đãi cũng cao
ba khuỷu tay; y dài bảy khuỷu tay, rộng ba khuỷu tay rưỡi. Thân người
Uất-đan-viết cao bảy khuỷu tay; y dài mười bốn khuỷu tay, rộng bảy khuỷu
tay. Thân A-tu-luân cao một do-tuần; y dài hai do-tuần, rộng một
do-tuần, y dày sáu lạng. Thân của Tứ thiên vương cao nửa do-tuần; y dài
một do-tuần, rộng nửa do-tuần, y dày nửa lạng. Thân của Ðao-lợi thiên
cao một do-tuần; y dài hai do-tuần, rộng một do-tuần, y dày sáu lạng.
Thân của Diệm-ma thiên cao hai do-tuần; y dài bốn do-tuần, rộng hai
do-tuần, y dày ba lạng. Thân của Ðâu-suất thiên cao bốn do-tuần; y dài
tám do-tuần, rộng bốn do-tuần, y dày một lạng rưỡi. Hóa tự tại thiên cao
tám
do-tuần; y dài mười sáu do-tuần, rộng tám do-tuần, y dày một lạng. Thân
của Tha hóa tự tại thiên cao mười sáu do-tuần; y dài ba mươi hai
do-tuần, rộng mười sáu do-tuần, y dày nửa lạng. Từ chư Thiên trở lên,
mỗi nơi tùy theo thân hình của họ mà mặc y phục.
“Tuổi thọ của người Diêm-phù-đề là một trăm năm, ít ai vượt qua khỏi;
mà phần nhiều là dưới. Tuổi thọ của người Câu-da-ni là hai trăm năm, ít
ai vượt qua khỏi, mà phần nhiều là dưới. Tuổi thọ của người Phất-vu-đãi
là ba trăm năm, ít ai vượt qua khỏi, mà phần nhiều là dưới. Tuổi thọ
của người Uất-đan-viết là một ngàn năm, không có tăng hay giảm. Tuổi thọ
của ngạ quỷ là bảy vạn năm, ít ai vượt qua khỏi, mà phần nhiều là dưới.
Tuổi thọ của loài rồng và Kim sí điểu là một kiếp, hoặc có giảm đi.
Tuổi thọ của A-tu-luân là một ngàn năm của cõi trời, ít ai vượt qua
khỏi, mà phần nhiều là dưới. Tuổi thọ của Tứ thiên vương là năm trăm năm
của cõi trời, ít ai vượt qua khỏi, mà phần nhiều là dưới. Tuổi thọ của
Ðao-lợi thiên là một ngàn năm của cõi trời, ít ai vượt qua khỏi, mà
phần nhiều là dưới. Tuổi thọ của Diệm-ma thiên là hai ngàn năm của cõi
trời, ít ai vượt qua khỏi, mà phần nhiều là dưới. Tuổi thọ của Ðâu-suất
thiên là bốn ngàn năm của cõi trời, ít ai vượt qua khỏi, mà phần nhiều
là dưới. Tuổi thọ của Hóa tự tại thiên là tám ngàn năm của cõi trời, ít
ai vượt qua khỏi, mà phần nhiều là dưới. Tuổi thọ của Tha hóa tự tại
thiên là sáu ngàn năm của cõi trời, ít ai vượt qua khỏi, mà phần nhiều
là dưới. Tuổi thọ của Phạm-ca-di thiên là một kiếp, hoặc có giảm bớt.
Tuổi thọ của Quang âm thiên là hai kiếp, hoặc có giảm bớt. Tuổi thọ của
Biến tịnh thiên là ba kiếp, hoặc có giảm bớt. Tuổi thọ của Quả thật
thiên là bốn kiếp, hoặc có giảm bớt. Tuổi thọ của Vô tưởng thiên là năm
trăm kiếp, hoặc có giảm bớt. Tuổi thọ của Vô tạo thiên là một ngàn kiếp,
hoặc có giảm bớt. Tuổi thọ của Vô nhiệt thiên là hai ngàn kiếp, hoặc có
giảm bớt. Tuổi thọ của Thiện kiến thiên là ba ngàn kiếp, hoặc có giảm
bớt. Tuổi thọ của Ðại Thiện kiến thiên là bốn ngàn kiếp, hoặc có giảm
bớt. Tuổi thọ của Sắc cứu cánh thiên là năm ngàn kiếp, hoặc có giảm bớt.
Tuổi thọ của Không xứ thiên là một vạn kiếp, hoặc có giảm bớt. Tuổi thọ
của Thức xứ thiên là hai vạn một ngàn kiếp, hoặc có giảm bớt. Tuổi thọ
của Bất dụng xứ thiên là bốn vạn hai ngàn kiếp, hoặc có giảm bớt. Tuổi
thọ của Hữu tưởng vô tưởng thiên là tám vạn bốn ngàn kiếp, hoặc có giảm
bớt. Trong giới hạn ấy, được gọi là chúng sanh; trong giới hạn ấy được
gọi làlà tuổi thọ; trong giới hạn ấy được gọi là thế giới; trong giới
hạn ấy là sự luân chuyển của tập hợp uẩn, xứ, giới, qua lại trong
các cõi, sanh, già, bệnh, chết.”
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Tất cả chúng sanh do bốn loại thức ăn mà tồn tại. Một là đoàn tế
hoạt thực. Hai là xúc thực. Ba là niệm thực. Bốn là thức thực. Những
loại thức ăn này chúng sanh ăn không giống nhau. Như người cõi
Diêm-phù-đề dùng các loại cơm, bún mì, cá thịt, gọi là loại đoàn thực. Y
phục, tắm giặt, được gọi là tế hoạt thực. Người Câu-da-ni, Phất-vu-đãi
cũng ăn các loại cơm, bún mì, cá thịt được gọi là đoàn thực; y phục, tắm
giặt là tế hoạt thực. Người Uất-đan-viết thì chỉ ăn lúa gạo chín tự
nhiên, đầy đủ vị trời lấy là đoàn thực; cũng lấy y phục, tắm giặt làm tế
hoạt thực. Loài rồng, Kim sí điểu, thì ăn các con giải, con đà, con cá,
con ba-ba lấy làm đoàn thực và tắm gội, y phục làm tế hoạt thực.
A-tu-luân thì ăn đoàn thực sạch lấy làm đoàn thực và lấy tắm giặt, y
phục làm
tế hoạt thực. Tứ thiên vương, Ðao-lợi thiên, Diệm-ma thiên, Ðâu-suất
thiên, Hóa tự tại thiên, Tha hóa tự tại thiên ăn loại đoàn thực sạch lấy
làm đoàn thực và tắm giặt, y phục làm tế hoạt thực. Chư Thiên từ đây
trở lên dùng hỷ lạc thiền định làm thức ăn.
“Những chúng sanh nào dùng xúc thực? Những chúng sanh, sinh ra từ trứng dùng xúc thực.
“Những chúng sanh nào dùng niệm thực? Có chúng sanh nhờ vào niệm thực
mà được tồn tại, tăng trưởng các căn, tuổi thọ không dứt, đó là niệm
thực.
“Những chúng sanh nào dùng thức thực? Những chúng sanh ở địa ngục và cõi Vô sắc thiên, những loại chúng sanh này dùng thức thực.
“Người cõi Diêm-phù-đề dùng các thứ vàng bạc, đồ quý báu, lúa gạo,
lụa là, nô bộc để mưu sinh buôn bán mà tự nuôi sống. Người Câu-da-ni
dùng bò, dê, châu báu để trao đổi mà nuôi sống. Người Phất-vu-đãi dùng
thóc, vải, châu ngọc để trao đổi mà tự nuôi sống. Người Uất-đan-viết
tuy không dùng cách trao đổi nhưng cũng mưu sinh để tự nuôi sống.
“Người cõi Diêm-phù-đề có sự mai mối hôn nhân, con trai lấy vợ, con
gái lấy chồng. Người Câu-da-ni và người Phất-vu-đãi, cũng có mai mối hôn
nhân, con trai lấy vợ, con gái lấy chồng. Người Uất-đan-viết, thì không
có vấn đề hôn nhân, không có sự lấy chồng, lấy vợ của con trai và con
gái. Loài rồng và Kim sí điểu cùng A-tu-luân, thì cũng có hôn nhân, có
giá thú giữa con trai và con gái. Tứ thiên vương, Ðao-lợi thiên. cho đến
Tha hóa tự tại thiên cũng có hôn nhân và có giá thú giữa người nam và
người nữ. Chư Thiên từ đây trở lên không còn có nam và nữ.
“Người cõi Diêm-phù-đề, vì giữa nam và nữ giao hội nhau, thân và thân
xúc chạm nhau, nên sanh ra âm dương. Những người Câu-da-ni, người
Phất-vu-đãi, người Uất-đan-viết cũng dùng thân với thân xúc chạm nhau
nên cũng sanh ra âm dương. Các loài rồng, Kim sí điểu cũng dùng thân với
thân xúc chạm nhau nên cũng sanh ra âm dương. Loài A-tu-luân thì thân
với thân gần gũi nhau phát sanh khí mà trở thành âm dương. Tứ thiên
vương, Ðao-lợi thiên thì cũng lại như vậy. Diệm-ma thiên, thì gần gũi
nhau mà thành âm dương. Ðâu-suất thiên thì cầm tay nhau mà thành âm
dương. Hóa tự tại thiên thì nhìn kỹ nhau mà thành âm dương. Tha hóa tự
tại thiên thì láy mắt nhìn nhau mà thành âm dương. Chư Thiên từ đây trở
lên thì không còn dâm dục nữa.
“Nếu có chúng sanh nào, với thân làm ác, miệng nói lời ác, ý nghĩ
điều ác, thì sau khi thân hoại mạng chung, thức người đời diệt mất; thức
nê-lê bắt đầu sinh ra. Nhân thức nên có danh sắc. Nhân danh sắc nên có
sáu nhập. Hoặc có chúng sanh với thân làm ác, miệng nói lời ác, ý nghĩ
điều ác, thì sau khi thân hoại mạng chung, bị đọa vào trong loài súc
sanh; sau đó thức người đời bị diệt; thức súc sanh bắt đầu sinh ra; nhân
thức nên có danh sắc; nhân danh sắc nên có sáu nhập. Hoặc có chúng sanh
với thân làm ác, miệng nói lời ác, ý nghĩ điều ác, thì sau khi thân
hoại mạng chung, sẽ đọa vào trong ngạ quỷ; sau đó thức người đời bị
diệt, thức ngạ quỷ bắt đầu sinh ra; nhân thức nên có danh sắc; nhân danh
sắc nên có sáu nhập. Hoặc có chúng sanh với thân làm thiện, miệng nói
những lời thiện, ý nghĩ điều thiện, thì sau khi thân hoại mạng chung, sẽ
được sinh vào trong cõi người; sau đó thức đời trước diệt, thức loài
người bắt đầu sinh ra; nhân thức nên có danh sắc; nhân danh sắc nên có
sáu nhập.
“Hoặc có chúng sanh với thân làm thiện, miệng nói lời thiện, ý nghĩ
điều thiện, thì sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sinh về cõi Tứ thiên
vương; sau đó thức đời trước diệt; thức loài trời Tứ thiên vương bắt đầu
sinh ra; nhân thức nên có danh sắc; nhân danh sắc nên có sáu nhập.
“Lúc bắt đầu sinh ở cõi Trời, hình dạng cũng giống hệt như con nít
chừng hai, ba tuổi của cõi người này, tự nhiên hóa hiện, ngồi trên đầu
gối Trời. Vị Trời ấy liền nói: Ðây là con ta. Do quả báo của hành vi,
nên tự nhiên mà có nhận thức; liền tự nghĩ rằng: Ta do đã làm những gì,
mà nay ta sinh ra nơi này? Rồi tự nhớ lại: Ðời trước ta ở nhân gian,
thân làm việc thiện, miệng nói lời thiện, ý nghĩ điều thiện. Vì đã làm
những việc này nên nay được sanh về cõi Trời. Giả như ở đây ta mạng
chung, mà sinh vào cõi nhân gian trở lại, thì phải thanh tịnh thân,
khẩu, ý và siêng năng gấp đôi trong việc tu tập các hạnh lành. Sau khi
sinh ra chưa lâu, hài nhi tự biết đói, thì tự nhiên trước mặt hài nhi
này có đồ đựng quý, trong đó đựng thức ăn thanh tịnh của cõi Trời, tự
nhiên có,
đủ cả trăm mùi vị. Nếu phước báo nhiều thì thức ăn màu trắng. Nếu phước
báo vừa thì thức ăn có màu xanh. Còn nếu phước báo ít thì thức ăn có màu
đỏ. Ðứa trẻ này dùng tay lấy thức ăn đưa vào miệng, thức ăn tự nhiên
tiêu mất, như váng sữa được chế vào trong lửa. Khi đứa trẻ ăn xong, mới
tự cảm thấy khát, thì tự nhiên có đồ đựng quý, đựng đầy nước cam lồ. Nếu
là người có nhiều phước báo thì nước này có màu trắng; nếu người này
phước báo vừa vừa thì nước này có màu xanh; nếu là ngưới có phước báo ít
thì nước này có màu đỏ. Ðứa trẻ này lấy nước uống; nước tự động tiêu
mất như váng sữa được chế vào lửa vậy.
“Ðứa trẻ này sau khi ăn uống xong, thì thân thể cao lớn cũng như các
chư Thiên khác, liền vào trong hồ nước mà tự mình thưởng thức sự tắm gội
rửa ráy. Khi đã tự mình thưởng thức xong thì ra khỏi hồ tắm, đến dưới
cây hương. Cây hương sẽ cong xuống; nó dùng tay lấy các loại hương tự
thoa vào thân mình. Sau đó lại đến cây y-kiếp-bối. Cây cong xuống, nó
lấy các loại y mặc vào thân mình. Tiếp đến nơi cây trang nghiêm. Cây
cong xuống, nó lấy các thứ đồ trang sức, để tự trang điểm thân. Tiếp đến
cây Hoa man, cây nghiêng xuống môt bên, lấy tràng hoa đội lên đầu. Tiếp
đến cây đồ vật, cây nghiêng xuống một bên, để lấy các thứ đồ vật báu.
Tiếp đến cây có trái, cây nghiêng xuống một bên, hái trái tự nhiên, hoặc
ăn hay ngậm, hoặc lọc nước mà uống. Tiếp đến cây nhạc khí, cây
nghiêng xuống một bên, lấy nhạc khí Trời, khảy lên âm thanh trong trẻo
vi diệu hòa cùng lời ca. Khi đứa trẻ cõi Trời hướng đến các khu vườn,
thì thấy vô số Thiên nữ đang khảy đàn đánh trống ca hát nói cười với
nhau. Bấy giờ đứa trẻ cõi Trời dạo chơi thấy những cảnh như vậy, bèn
sinh lòng đắm nhiễm, nhìn Ðông mà quên Tây, nhìn Tây mà quên Ðông. Lúc
mà đứa trẻ này mới sinh, tự biết mà tự nghĩ rằng: Do hành vi gì mà nay
ta được sinh ra nơi này? Khi đang dạo chơi xem cảnh nơi kia, thì lại
quên hết ý nghĩ này. Thế rồi, liền có thể nữ theo hầu.
“Hoặc có chúng sanh với thân làm thiện, miệng nói lời thiện, ý nghĩ
điều thiện, thì sau khi thân hoại mạng chung sẽ sinh về cõi Ðao-lợi
thiên; sau đó thức đời trước diệt; thức kia bắt đầu sinh ra; nhân thức
này nên có danh sắc, nhân danh sắc nên có sáu nhập. Kẻ mới bắt đầu sinh
của cõi Trời kia, giống như đứa trẻ hai hay ba tuổi ở cõi Diêm-phù-đề,
tự nhiên biến hiện ra ở trên đầu gối của Trời và vị Trời ấy nói: Ðây là
con trai của ta. Ðây là con gái của ta. Cũng lại như đã kể trên.
“Hoặc có chúng sanh với thân, miệng, ý đều thiện, thì sau khi thân
hoại mạng chung sẽ sinh về cõi Diệm-ma thiên; kẻ mới bắt đầu sinh của
cõi trời kia, giống như đứa trẻ ba, bốn tuổi ở cõi Diêm-phù-đề này.
“Hoặc có chúng sanh với thân, miệng, ý đều thiện, sau khi thân hoại
mạng chung sẽ sinh về cõi Ðâu-suất thiên; kẻ mới sinh ở cõi Trời này,
giống như đứa trẻ bốn, năm tuổi ở thế gian này.
“Hoặc có chúng sanh với thân, miệng, ý đều thiện, sau khi thân hoại
mạng chung sẽ sinh về cõi Hóa tự tại thiên; kẻ mới sinh ở cõi trời này,
giống như đứa trẻ năm, sáu tuổi ở thế gian này.
“Hoặc có chúng sanh với thân, miệng, ý đều thiện, sau khi thân hoại
mạng chung sẽ sinh về cõi Tha hóa tự tại thiên; kẻ mới sinh ở cõi Trời
này, giống như đứa trẻ sáu, bảy tuổi ở thế gian này, cũng lại như vậy.”
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Mỗi nửa tháng có ba ngày trai, đó là: ngày mồng tám, ngày mười bốn
và ngày mười lăm. Ðó là ba ngày trai. Vì sao trong mỗi nửa tháng lấy
ngày mùng tám làm ngày trai? Vì vào ngày mồng tám của mỗi nửa tháng là
ngày Tứ thiên vương thường bảo sứ giả rằng: Các ngươi nên đi khảo sát
thế gian, xem xét mọi người, có biết hiếu thuận với cha mẹ, có kính
thuận với Sa-môn, Bà-la-môn, có tôn kính các bậc trưởng lão, có trai
giới, bố thí, có cứu giúp người nghèo thiếu hay không? Sau khi sứ giả
nghe những lời dạy này rồi, liền đi khảo sát khắp trong thiên hạ, để
biết có người hiếu thuận với cha mẹ, tôn kính Sa-môn, Bà-la-môn, kính
trọng các bậc trưởng lão, trì giới giữ trai, bố thí cho người nghèo
thiếu. Sau khi xem xét đầy đủ rồi, thấy có những người bất hiếu với cha
mẹ, bất kính
sư trưởng, không tu trai giới, không cứu giúp người nghèo thiếu, về thưa
với nhà vua rằng: Tâu Thiên vương, ở thế gian những người hiếu thuận
với cha mẹ, kính trọng sư trưởng, tịnh tu trai giới, giúp đỡ những người
nghèo thiếu thì rất ít! rất ít! Sau khi Tứ thiên vương nghe xong, sầu
lo không vui, đáp rằng: Than ôi! nếu người thế gian, có nhiều kẻ ác, bất
hiếu với cha mẹ, không kính trọng sư trưởng, không tu tập trai giới,
không giúp đỡ người nghèo thiếu! thì chúng chư Thiên sẽ tổn giảm và
chúng A-tu-luân sẽ tăng thêm. Trường hợp nếu sứ giả thấy ở thế gian mà
có người hiếu kính mẹ cha, kính trọng sư trưởng, siêng tu trai giới,
giúp đỡ người nghèo, thì trở về bạch với Thiên vương rằng: Ở thế gian có
người hiếu thuận mẹ cha, kính trọng sư trưởng, siêng tu trai giới, giúp
đỡ người nghèo thiếu. Thì Tứ thiên vương sau khi nghe xong rất là hoan
hỷ, xướng lên rằng: Lành thay! Ta đã nghe những lời tốt lành, thế gian
nếu có những người có thể hiếu thuận mẹ cha, kính trọng sư trưởng, siêng
tu trai giới, giúp đỡ những người nghèo thiếu, thì chúng chư Thiên sẽ
tăng thêm và chúng A-tu-luân sẽ giảm bớt.
“Vì sao lấy ngày mười bốn làm ngày trai? Vì ngày mười bốn là ngày mà
Tứ thiên vương bảo thái tử rằng: Ngươi nên đi khảo sát khắp thiên hạ,
xem xét mọi người, để biết có người hiếu thuận mẹ cha, kính trọng sư
trưởng, siêng tu trai giới, giúp đỡ người nghèo thiếu hay không? Sau khi
vâng lời dạy của vua xong, thái tử liền đi khảo sát thiên hạ, xem xét
mọi người, có biết hiếu thuận mẹ cha, tôn trọng sư trưởng, siêng tu trai
giới, giúp đỡ người nghèo thiếu hay không. Khi đã quán sát tất cả rồi,
nhận thấy thế gian có người không hiếu thuận mẹ cha, không kính sư
trưởng, không tu trai giới, không giúp đỡ người nghèo thiếu, trở về thưa
vua rằng: Tâu Thiên vương, ở thế gian người hiếu thuận với cha mẹ, tôn
kính sư trưởng, tu hành trai giới thanh tịnh, giúp đỡ những
người nghèo thiếu thì rất ít! rất ít! Tứ thiên vương nghe xong, sầu lo
không vui, bảo rằng: Than ôi! Nếu thế gian có nhiều kẻ ác, không hiếu
thuận mẹ cha, không tôn trọng sư trưởng, không tu tập trai giới, không
giúp đỡ những người nghèo thiếu, thì chúng chư Thiên sẽ giảm bớt, chúng
A-tu-luân sẽ tăng thêm. Nếu thái tử nhận thấy thế gian có người hiếu
thuận mẹ cha, tôn kính sư trưởng, siêng tu trai giới, giúp đỡ những
người nghèo thiếu, thì liền trở về thưa vua rằng: Tâu Thiên vương, ở thế
gian có người hiếu thuận với mẹ cha, kính trọng sư trưởng, siêng tu
trai giới, giúp đỡ những người nghèo thiếu. Tứ thiên vương nghe xong,
lòng rất vui mừng, xướng lên rằng: Lành thay! Ta nghe được những lời tốt
lành, là ở thế gian nếu có những người hiếu thuận với mẹ cha, tôn
trọng sư trưởng, siêng tu trai giới, giúp đỡ những người nghèo thiếu,
thì chúng chư Thiên sẽ tăng thêm, chúng A-tu-luân sẽ giảm bớt. Cho nên
ngày mười bốn là ngày trai.
“Vì sao lấy ngày mười lăm làm ngày trai? Vì ngày mười lăm là ngày Tứ
thiên vương đích thân tự đi khảo sát thiên hạ, xem xét mọi người ở trong
thế gian, có hiếu thuận mẹ cha, kính trọng sư trưởng, siêng tu trai
giới, giúp đỡ những người nghèo thiếu hay không? Nếu nhận thấy người thế
gian phần nhiều bất hiếu với mẹ cha, không tôn trọng sư trưởng, không
siêng trai giới, không giúp đỡ kẻ nghèo thiếu, thì Tứ thiên vương đến
điện Thiện pháp thưa với Ðế Thích: Ðại vương biết cho, chúng sanh ở thế
gian phần nhiều bất hiếu với mẹ cha, không kính trọng sư trưởng, không
tu trai giới, không giúp đỡ kẻ nghèo thiếu! Sau khi Ðế Thích và chư
Thiên Ðao-lợi nghe xong lòng buồn lo không vui nói rằng: Than ôi! Nếu
chúng sanh ở thế gian phần nhiều là ác, không hiếu thuận mẹ cha, không
tôn kính sư trưởng, không tu trai giới, không giúp kẻ nghèo thiếu, thì
chúng chư Thiên sẽ giảm bớt, chúng A-tu-luân sẽ tăng lên. Nếu Tứ thiên
vương nhận thấy thế gian có người hiếu thuận với mẹ cha, tôn kính sư
trưởng, siêng tu trai giới, giúp đỡ kẻ nghèo thiếu, thì trở về điện
Thiện pháp tâu với Ðế Thích: Người thế gian có kẻ hiếu thuận với mẹ cha,
tôn kính sư trưởng, siêng tu trai giới, giúp kẻ nghèo thiếu. Sau khi Ðế
Thích và chư Thiên Ðao-lợi nghe xong lòng rất là hoan hỷ, xướng lên
rằng: Lành thay! Nếu ở thế gian mà có kẻ hiếu thuận mẹ cha, tôn kính sư
trưởng, siêng tu trai giới, giúp kẻ nghèo thiếu, thì chúng chư Thiên sẽ
tăng, chúng A-tu-luân sẽ giảm. Cho nên lấy ngày mười lăm là ngày trai
giới. Vì lý do trên nên có ba ngày trai. Bấy giờ, Ðế Thích muốn cho chư
Thiên càng thêm hoan hỷ hơn, liền nói bài kệ:
- Thường lấy ngày mồng tám,
- Mười bốn, rằm mỗi tháng,
- Cải hóa, tu trai giới,
- Người này đồng với Ta.”
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Ðế Thích nói bài kệ này, không phải là khéo thọ, không phải là khéo
nói; Ta cũng không ấn khả. Vì sao? Vì Ðế Thích chưa dứt hết dâm dục, sân
hận, si mê, chưa thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, ưu, bi, khổ não. Ta
bảo người này chưa lìa khỏi gốc khổ. Tỳ-kheo nào của Ta, nếu lậu hoặc đã
hết, được A-la-hán, những gì cần làm đã làm xong, đã trút bỏ gánh nặng,
đã được tự lợi, đã hết kết sử các hữu, bình đẳng giải thoát, thì
Tỳ-kheo đó mới đáng nói bài kệ này:
Thường lấy ngày mồng tám,
Mười bốn, rằm mỗi tháng,
Vâng lời tu trai giới,
Người này đồng với Ta.”
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Tỳ-kheo kia nói bài kệ này mới gọi là khéo thọ, mới gọi là khéo nói,
được Ta ấn khả. Vì sao? Vì Tỳ-kheo kia đã dứt sạch dâm dục, sân hận, si
mê, đã thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, ưu, bi, khổ não. Ta bảo người
kia đã lìa khỏi gốc khổ.”
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Tất cả chỗ ở như nhà cửa của mọi người đều có quỷ thần, không có chỗ
nào là không có cả. Tất cả mọi đường sá, mọi ngã tư, hàng thịt, chợ
búa, cùng bãi tha ma đều có quỷ thần, không có chỗ nào là không có cả.
Phàm các loài quỷ thần đều tùy thuộc vào chỗ nương náu mà có tên. Như
nếu nương vào người thì gọi là người; nương vào thôn thì gọi là thôn;
nương vào thành thì gọi là thành; nương vào nước thì gọi là nước; nương
vào đất thì gọi là đất; nương vào núi thì gọi là núi, nương vào sông thì
gọi là sông.”
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Tất cả mọi loại cây cối dù là cực nhỏ như trục xe cũng đều có quỷ
thần nương tựa, không có chỗ nào là không có. Tất cả mọi người nam,
người nữ khi mới bắt đầu sinh ra đều có quỷ thần theo bên ủng hộ; nếu
khi nào họ chết thì quỷ thần giữ gìn họ, thu nhiếp tinh khí của họ, nên
người này sẽ chết ngay.”
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Giả như có Phạm-chí ngoại đạo hỏi rằng: Chư Hiền! Nếu như tất cả nam
nữ khi bắt đầu sinh ra đều có quỷ thần theo bên giữ gìn, ủng hộ; khi
người kia sắp chết, quỷ thần giữ gìn ủng hộ kia sẽ thu nhiếp tinh khí
họ, thì người này chết. Nhưng tại sao người hiện nay lại có người bị quỷ
thần quấy nhiễu, có người không bị quỷ thần quấy nhiễu? Nếu có người
hỏi câu này, thì các Thầy nên trả lời cho họ rằng: Người thế gian hành
động phi pháp, tà kiến điên đảo, tạo ra mười nghiệp ác, những người như
vậy, thì trong trăm hay ngàn mới có một thần theo bảo hộ thôi. Giống như
đàn bò, đàn dê, trong trăm hay ngàn con cũng chỉ có một người chăn giữ;
thì việc này cũng như vậy, vì hành động phi pháp, tà kiến điên đảo, tạo
ra mười nghiệp ác, nên những người như vậy, trong trăm hay ngàn
người mới có một thần bảo hộ thôi. Nếu có người nào tu hành pháp thiện,
chánh kiến, chánh tín, chánh hạnh, đầy đủ mười nghiệp thiện, chỉ một
người như vậy, thì cũng có trăm ngàn thần bảo hộ rồi. Giống như quốc
vương, đại thần của quốc vương có trăm ngàn người hộ vệ một người; thì
việc này cũng như vậy, người tu hành pháp thiện, đầy đủ mười nghiệp
thiện, như một người có trăm ngàn thần hộ vệ. Vì nhân duyên này cho nên,
người thế gian có người bị quỷ thần quấy nhiễu, có người không bị quỷ
thần quấy nhiễu.
“Người cõi Diêm-phù-đề có ba điều hơn người Câu-da-ni, đó là: một,
dõng mãnh, nhớ dai, có khả năng tạo nghiệp hành; hai, dõng mãnh, nhớ
dai, siêng tu phạm hạnh; ba, vì dõng mãnh, nhớ dai, nên Phật ra đời ở
cõi này. Do có ba điều này nên hơn người Câu-da-ni. Người Câu-da-ni có
ba điều hơn người Diêm-phù-đề, đó là: một, nhiều bò; hai, nhiều dê; ba,
nhiều châu ngọc. Do có ba điều này nên hơn người Diêm-phù-đề.
“Người Diêm-phù-đề có ba điều hơn người Phất-vu-đãi, đó là: một, dõng
mãnh, nhớ dai, có khả năng tạo ra nghiệp hành; hai, dõng mãnh, nhớ dai,
thường tu phạm hạnh; ba, dõng mãnh, nhớ dai, Phật ra đời ở cõi này. Vì
ba điều này nên hơn Phất-vu-đãi. Người Phất-vu-đãi có ba điều hơn người
Diêm-phù-đề, đó là: một, cõi này rất rộng; hai, cõi này rất lớn; ba, đất
đai cõi này rất vi diệu. Vì ba điều này nên hơn người Diêm-phù-đề.
“Người Diêm-phù-đề có ba điều hơn người Uất-đan-viết, đó là: một,
mạnh mẽ, nhớ dai, có khả năng tạo ra hành nghiệp; hai, mạnh mẽ, nhớ dai,
thường tu hành phạm hạnh; ba, mạnh mẽ, nhớ dai, Phật ra đời ở cõi này.
Ðó là ba điều hơn người Uất-đan-viết. Người Uất-đan-viết có ba điều hơn
người Diêm-phù-đề, đó là: một, không bị ràng buộc lệ thuộc; hai, không
có vật sở hữu của ngã; ba, tuổi thọ cố định là ngàn năm. Vì ba điều này
nên hơn người Diêm-phù-đề. “Người Diêm-phù-đề cũng vì ba điều trên mà
hơn đường ngạ quỷ. Ðường ngạ quỷ có ba điều hơn Diêm-phù-đề, đó là: một,
sống lâu; hai, thân to lớn; ba, người khác làm mà mình chịu. Vì ba điều
này nên hơn Diêm-phù-đề.
“Người Diêm-phù-đề cũng vì ba điều trên nên hơn loài rồng, Kim sí
điểu. Loài rồng, Kim sí điểu lại có ba điều hơn người Diêm-phù-đề, đó
là: một, sống lâu; hai, thân to lớn; ba, cung điện. Vì ba điều này nên
hơn người Diêm-phù-đề.
“Người Diêm-phù-đề vì ba điều trên nên hơn A-tu-luân. A-tu-luân lại
có ba điều hơn người Diêm-phù-đề, đó là: một, cung điện cao, rộng; hai,
cung điện trang nhiêm; ba, cung điện thanh tịnh. Vì ba điều này nên hơn
người Diêm-phù-đề.
“Người Diêm-phù-đề vì ba điều trên mà hơn Tứ thiên vương. Tứ thiên
vương lại có ba điều hơn người Diêm-phù-đề, đó là: một, sống lâu; hai,
đoan chánh; ba, an vui nhiều; vì ba điều này nên hơn người Diêm-phù-đề.
“Người Diêm-phù-đề cũng vì ba điều trên mà hơn Ðao-lợi thiên, Diệm-ma
thiên, Ðâu-suất thiên, Hóa tự tại thiên, Tha hóa tự tại thiên. Các hàng
chư Thiên này lại có ba điều hơn người Diêm-phù-đề, đó là: một, sống
lâu; hai, đoan chánh; ba, an vui nhiều.”
Phật bảo Tỳ-kheo:
- “Chúng sanh cõi Dục có mười hai loại, đó là :
- “1. Ðịa ngục.
- “2. Súc sanh.
- “3. Ngạ quỷ.
- “4. Người.
- “5. A-tu-luân.
- “6. Tứ thiên vương.
- “7. Ðao-lợi thiên.
- “8. Diệm-ma thiên.
- “9. Ðâu-suất thiên.
- “10. Hóa tự tại thiên.
- “11. Tha hóa tự tại thiên.
- “12. Ma thiên.
- “Chúng sanh cõi Sắc có hai mươi hai loại, đó là :
- “1. Phạm thân thiên.
- “2. Phạm phụ thiên.
- “3. Phạm chúng thiên.
- “4. Ðại Phạm thiên.
- “5. Quang thiên.
- “6. Thiểu quang thiên.
- “7. Vô lượng quang thiên.
- “8. Quang âm thiên.
- “9. Tịnh thiên.
- “10. Thiểu tịnh thiên.
- “11. Vô lượng tịnh thiên.
- “12. Biến tịnh thiên.
- “13. Nghiêm sức thiên.
- “14. Tiểu nghiêm sức thiên.
- “15. Vô lượng nghiêm sức thiên.
- “16. Nghiêm thắng quả thật thiên.
- “17. Vô tưởng thiên.
- “18. Vô phiền thiên.
- “19. Vô nhiệt thiên.
- “20. Thiện kiến thiên.
- “21. Ðại Thiện kiến thiên.
- “22. A-ca-nị-trá thiên.
- “Chúng sanh cõi Vô sắc có bốn loại, đó là :
- “1. Không trí thiên.
- “2. Thức trí thiên.
- “3. Vô sở hữu trí thiên.
- “4. Hữu tưởng vô tưởng trí thiên.”
- Phật bảo Tỳ-kheo:
- “Có bốn loại Ðại Thiên thần, đó là:
- “1. Ðịa thần.
- “2. Thủy thần.
- “3. Phong thần.
- “4. Hỏa thần.
Xưa kia Ðịa thần nảy sinh ra nhận thức sai lầm rằng: Trong đất không
có nước, lửa và gió. Lúc đó Ta biết rõ tâm niệm của thần đất này, liền
đến bảo rằng: Ngươi đang nảy sanh ra ý nghĩ: Trong đất không có nước,
lửa và gió phải không? Ðịa thần đáp: Trong đất quả thực không có nước,
lửa và gió. Lúc ấy Ta bảo rằng: Ngươi chớ nảy sanh ý niệm này là trong
đất không có nước, lửa và gió. Vì sao? Vì trong đất có nước, lửa và gió,
chỉ vì yếu tố đất nhiều nên lấy đất mà gọi tên.”
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Lúc ấy Ta vì Ðịa thần mà lần lượt nói pháp, để dứt trừ nhận thức sai
lầm này và chỉ bày, khuyến khích, làm cho lợi ích, làm cho hoan hỷ; nói
về thí, về giới, về sinh thiên; nói dục là bất tịnh, là ô nhiễm, là tai
họa; xuất yếu là trên hết và trình bày khai mở phạm hạnh thanh tịnh.
Lúc ấy Ta biết rõ tâm niệm Ðịa thần đã thanh tịnh, nhu nhuyến, không còn
năm ấm cái, dễ dàng khai hóa. Như pháp thường của chư Phật, Ta chỉ bày
giảng rộng về Khổ thánh đế, Khổ tập đế, Khổ diệt đế và Khổ xuất yếu
thánh đế. Bấy giờ Ðịa thần liền ngay tại chỗ xa lìa trần cấu, được mắt
pháp thanh tịnh. Ví như áo trắng sạch sẽ dễ được nhuộm màu, Ðịa thần
cũng như vậy, lòng tin đã thanh tịnh, nên được mắt pháp, không còn hồ
nghi, thấy pháp quyết định, không còn rơi vào đường ác, không theo đường
khác, thành tựu được pháp vô úy, mà bạch với Ta rằng: Nay con xin quy y
Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, suốt đời không sát sanh, không trộm cắp,
không tà dâm, không nói dối, không uống rượu, cho phép con được làm
Ưu-bà-di ở trong Chánh pháp.”
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Xưa kia, Thủy thần nảy sanh ác kiến, nói rằng: Trong nước không có
đất, lửa và gió. Lúc ấy Ðịa thần biết rõ tâm niệm Thủy thần sinh ra nhận
thức này, nên đến nói với Thủy thần rằng: Thật sự ngươi có sinh ra kiến
giải này, là trong nước không có đất, lửa và gió phải không? Ðáp rằng:
Có thật như vậy. Ðịa thần nói: Ngươi chớ sinh ra kiến giải này, là trong
nước không có đất, lửa và gió. Vì sao? Vì trong nước có đất, lửa và
gió, nhưng chỉ vì yếu tố nước nhiều quá, nên dùng yếu tố nước để gọi
tên. Bấy giờ, Ðịa thần liền vì y mà nói pháp, dứt trừ kiến giải sai lầm
này và chỉ bày, khuyến khích, làm cho lợi ích, làm cho hoan hỷ; nói về
thí, về giới, về sinh thiên; nói dục là bất tịnh, là ô nhiễm, là tai
họa; xuất yếu là trên hết và trình bày khai mở phạm hạnh thanh tịnh.
Lúc ấy Ðịa thần biết rõ tâm niệm Thủy thần đã thanh tịnh, nhu nhuyến,
không còn năm ấm cái, dễ dàng khai hóa. Như pháp thường của chư Phật,
chỉ bày giảng rộng về Khổ thánh đế, Khổ tập đế, Khổ diệt đế và Khổ xuất
yếu thánh đế. Bấy giờ Thủy thần liền ngay tại chỗ xa lìa trần cấu, được
mắt pháp thanh tịnh. Ví như áo trắng sạch sẽ dễ được nhuộm màu, Thủy
thần cũng như vậy, lòng tin đã thanh tịnh, nên được mắt pháp, không còn
hồ nghi, thấy pháp quyết định, không còn rơi vào đường ác, không theo
đường khác, thành tựu được pháp vô úy, mà bạch với Ðịa thần rằng: Nay
tôi xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, suốt đời không sát sanh,
không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu, xin nhận
tôi là Ưu-bà-di ở trong Chánh pháp.”
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Xưa kia Hỏa thần nảy sanh ra ác kiến, nói rằng: Trong lửa không có
đất, nước và gió. Lúc ấy Ðịa thần và Thủy thần biết rõ tâm niệm Hỏa thần
sinh ra nhận thức này, nên cùng nói với Hỏa thần rằng: Thật sự ngươi có
sinh ra kiến giải này phải không? Ðáp rằng: Có thật như vậy. Hai thần
nói: Ngươi chớ sinh ra kiến giải này. Vì sao? Vì trong lửa có đất, nước
và gió, nhưng chỉ vì yếu tố lửa nhiều quá, nên dùng yếu tố lửa để gọi
tên. Bấy giờ, hai vị thần Ðịa và Thủy liền vì y mà nói pháp, dứt trừ
kiến giải sai lầm này và chỉ bày, khuyến khích, làm cho lợi ích, làm cho
hoan hỷ; nói về thí, về giới, về sinh thiên; nói dục là bất tịnh, là ô
nhiễm, là tai họa; xuất yếu là trên hết và trình bày khai mở phạm hạnh
thanh tịnh. Lúc ấy hai thần biết rõ tâm niệm Hỏa thần đã thanh tịnh,
nhu nhuyến, không còn năm ấm cái, dễ dàng khai hóa. Như pháp thường của
chư Phật, chỉ bày giảng rộng về Khổ thánh đế, Khổ tập đế, Khổ diệt đế và
Khổ xuất yếu thánh đế. Bấy giờ Hỏa thần liền ngay tại chỗ xa lìa trần
cấu, được mắt pháp thanh tịnh. Ví như áo trắng sạch sẽ dễ được nhuộm
màu, Hỏa thần cũng như vậy, lòng tin đã thanh tịnh, nên được mắt pháp,
không còn hồ nghi, thấy pháp quyết định, không còn rơi vào đường ác,
không theo đường khác, thành tựu được pháp vô úy, mà bạch với hai thần
rằng: Nay tôi xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, suốt đời không sát
sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu, xin
nhận tôi là Ưu-bà-di ở trong Chánh pháp.”
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Xưa kia Phong thần nảy sanh ra nhận thức sai lầm rằng: Trong gió
không có đất, nước và lửa. Lúc ấy Ðịa thần, Thủy thần, Hỏa thần biết rõ
tâm niệm Phong thần sinh ra nhận thức này, nên đến nói rằng: Thật sự
ngươi có sinh ra kiến giải này phải không? Ðáp rằng: Có thật như vậy. Ba
vị thần nói: Ngươi chớ sinh ra kiến giải này. Vì sao? Vì trong gió có
đất, nước và lửa, nhưng chỉ vì yếu tố gió nhiều quá, nên dùng yếu tố gió
để gọi tên. Bấy giờ, ba vị thần liền vì y mà nói pháp, dứt trừ kiến
giải sai lầm này và chỉ bày, khuyến khích, làm cho lợi ích, làm cho hoan
hỷ; nói về thí, về giới, về sinh thiên; nói dục là bất tịnh, là ô
nhiễm, là tai họa; xuất yếu là trên hết và trình bày khai mở phạm hạnh
thanh tịnh. Lúc ấy ba thần biết rõ tâm niệm của Phong thần đã thanh
tịnh,
nhu nhuyến, không còn năm ấm cái, dễ dàng khai hóa. Như pháp thường của
chư Phật, chỉ bày giảng rộng về Khổ thánh đế, Khổ tập đế, Khổ diệt đế và
Khổ xuất yếu thánh đế. Bấy giờ Phong thần liền ngay tại chỗ xa lìa trần
cấu, được mắt pháp thanh tịnh. Ví như tấm vải trắng sạch sẽ dễ được
nhuộm màu, Phong thần cũng như vậy, lòng tin đã thanh tịnh, nên được mắt
pháp, không còn hồ nghi, thấy pháp quyết định, không còn rơi vào đường
ác, không theo đường khác, thành tựu được pháp vô úy, mà bạch với ba
thần rằng: Nay tôi xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, suốt đời
không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống
rượu, xin nhận tôi là Ưu-bà-di ở trong Chánh pháp.”
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Mây có bốn thứ, đó là: một là màu trắng; hai là màu đen; ba là màu
đỏ; bốn là màu hồng. Mây có màu trắng vì yếu tố đất đặc biệt nhiều; mây
có màu đen vì yếu tố nước đặc biệt nhiều hơn; mây có màu đỏ vì yếu tố
lửa đặc biệt nhiều hơn; mây có màu hồng vì yếu tố gió đặc biệt nhiều
hơn. Mây cách mặt đất từ hai mươi dặm, ba mươi dặm, bốn mươi dặm. cho
đến bốn ngàn dặm; ngoại trừ kiếp sơ, còn sau đó thì mây lên đến cõi
Quang âm thiên. Chớp có bốn loại, đó là: Chớp ở phương Ðông gọi là thân
quang; chớp ở phương Nam gọi là nan hủy; chớp ở phương Tây gọi là lưu
diễm; chớp ở phương Bắc gọi là định minh. Vì sao mây ở trong hư không có
hiện tượng ánh chớp này? Có lúc thân quang cùng nan hủy chạm nhau, có
khi thân quang cùng với lưu diễm chạm nhau, có khi thân quang cùng
với định minh chạm nhau, có khi nan hủy cùng với lưu diễm chạm nhau, có
khi nan hủy cùng với định minh chạm nhau, có khi lưu diễm cùng với định
minh chạm nhau; vì những nhân duyên này nên mây giữa hư không sinh ra
ánh chớp. Và vì sao mây ở giữa hư không lại sinh ra sấm chớp? Vì ở giữa
hư không có khi địa đại cùng với thủy đại chạm nhau, có khi địa đại cùng
với hỏa đại chạm nhau, có khi địa đại cùng với phong đại chạm nhau, có
khi thủy đại cùng với hỏa đại chạm nhau, có khi thủy đại cùng với phong
đại chạm nhau; vì những nhân duyên này mà mây giữa hư không sinh ra sấm
chớp.
“Có năm lý do mà các thầy tướng không thể tiên đoán và không thể biết
được một cách chắc chắn về mưa nên dẫn đến việc sai lầm trong lúc đoán,
đó là: một, trong mây có sấm chớp, đoán rằng sắp mưa; nhưng vì hỏa đại
nhiều nên nó thiêu hủy mây đi, vì vậy mà không mưa. Ðó là lý do thứ nhất
khiến cho các thầy tướng đoán sai lầm. Hai, trong mây có sấm chớp, đoán
rằng sắp mưa, nhưng vì phong đại nổi lên, thổi mây bay tứ tán vào trong
các núi, vì lý do này nên khiến cho các thầy tướng đoán sai lầm. Ba,
trong mây có sấm chớp, đoán rằng sắp mưa, nhưng bấy giờ Ðại A-tu-luân
đem phù vân đặt giữa biển cả, vì lý do này mà thầy tướng đoán sai lầm.
Bốn, trong mây có sấm chớp, đoán rằng sắp mưa, nhưng vì thần mây, thần
mưa đang buông lung dâm loạn, nên rốt cùng không làm mưa, vì lý do
này nên thầy tướng đoán sai lầm. Năm, trong mây có sấm chớp, đoán rằng
sắp mưa, nhưng vì mọi người trong thế gian hành động buông lung phi
pháp, làm hạnh bất tịnh, tham lam, keo kiệt, ghen ghét, kiến giải điên
đảo, nên khiến trời không mưa xuống, vì lý do này nên thầy tướng đoán
sai. Ðó là năm lý do làm cho các thầy tướng không thể biết để đoán mưa
một cách chắc chắn được.”
PHẨM
9: TAM TAI
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Có bốn sự kiện trường cửu, không lường, không giới hạn, không thể
dùng năm, tháng, ngày để mà tính kể được. Bốn sự kiện, đó là: Một, ở thế
gian có những thứ tai nạn khởi lên từ từ; khi thế giới này tan hoại,
trung gian là một khoảng thời gian trường cửu, không lường, không giới
hạn, không thể dùng năm, tháng, ngày để mà tính kể được. Hai, sau khi
thế giới này tan hoại rồi, thì trung gian là một khoảng trống vắng mênh
mông, không có thế giới; thời gian này là mịt mù trường cửu, không thể
dùng số lượng năm, tháng, ngày để mà tính được. Ba, khi trời đất mới bắt
đầu khởi hướng nhắm đến sự hình thành tựu, thì khoảng thời gian này là
trường cửu, không thể dùng số lượng năm, tháng, ngày để mà tính được.
Bốn, sau khi trời đất đã hoàn thành rồi, tồn tại lâu dài không
hoại, không thể dùng số lượng năm, tháng, ngày để mà tính được. Ðó là
bốn sự kiện trường cửu, không lường, không có giới hạn, không thể dùng
số lượng năm, tháng, ngày để tính toán được.”
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Ở thế gian có ba thứ tai kiếp ; đó là: Một, tai kiếp lửa. Hai, tai
kiếp nước. Ba, tai kiếp gió. Có giới hạn phía trên của ba tai kiếp. Thế
nào là ba? Ðó là: một, Quang âm thiên ; hai, Biến tịnh thiên ; ba, Quả
thật thiên. Khi tai kiếp lửa khởi lên, cháy lên cho đến Quang âm thiên,
thì Quang âm thiên là giới hạn. Khi tai kiếp nước khởi lên, ngập cho đến
Biến tịnh thiên, thì Biến tịnh thiên là giới hạn. Khi tai kiếp gió khởi
lên, thổi cho đến Quả thật thiên, thì Quả thật thiên là giới hạn.
“Thế nào là tai kiếp lửa? Khi tai kiếp lửa bắt đầu sắp sửa khởi, thì
con người thế gian này lúc đó đều thực hành chánh pháp, đều chánh kiến
không điên đảo, đều tu thập thiện hành. Khi thực hành pháp này, có người
đạt được Nhị thiền, liền có thể cất mình bay lên ở giữa hư không, trụ
vào Thánh nhơn đạo, Thiên đạo, Phạm đạo và lớn tiếng xướng lên rằng:
Các Hiền giả! Sung sướng thay, đệ Nhị thiền không giác không quán! Sung
sướng thay, đệ Nhị thiền! Lúc ấy, người thế gian nghe những lời này rồi,
liền ngửa mặt lên trời nói với họ rằng: Lành thay! Lành thay! xin vì
tôi mà nói đạo của đệ Nhị thiền không giác, không quán. Lúc này, người ở
giữa hư không nghe những lời của người kia rồi liền nói về đạo của Nhị
thiền không giác, không quán. Sau khi người thế gian nghe nói
rồi, liền tu đạo của Nhị thiền không giác, không quán, nên khi thân hoại
mạng chung được sinh về Quang âm thiên.
“Lúc ấy, những chúng sanh có tội trong địa ngục, sau khi mạng chung
lại được sinh vào cõi người và tu tập pháp của đệ Nhị thiền không giác,
không quán, nên sau khi thân hoại mạng chung được sinh về Quang âm
thiên. Những chúng sanh ở trong các loài Súc sanh, Ngạ quỷ, A-tu-la, Tứ
thiên vương, Ðao-lợi thiên, Diệm-ma thiên, Ðâu-suất thiên, Hóa tự tại
thiên, Tha hóa tự tại thiên, Phạm thiên, sau khi thân hoại mạng chung
sanh lại cõi nhân gian; sau đó tu tập Nhị thiền không giác, không quán,
thì sau khi thân hoại mạng chung sẽ sinh về Quang âm thiên. Vì những
nhân duyên này nên đường địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, A-tu-la, cho đến
Phạm thiên tất cả đều diệt. Ngay lúc bấy giờ, trước tiên là địa ngục
diệt, sau đó súc sanh diệt; súc sanh diệt rồi thì ngạ quỷ diệt; ngạ quỷ
diệt rồi thì A-tu-la diệt; A-tu-la diệt rồi thì Tứ thiên vương diệt; Tứ
thiên vương diệt rồi thì Ðao-lợi thiên diệt; Ðao-lợi thiên diệt rồi thì
Diệm-ma thiên diệt; Diệm-ma thiên diệt rồi thì Ðâu-suất thiên diệt;
Ðâu-suất thiên diệt rồi thì Hóa tự tại thiên diệt; Hóa tự tại thiên diệt
rồi thì Tha hóa tự tại thiên diệt; Tha hóa tự tại thiên diệt rồi thì
Phạm thiên diệt; Phạm thiên diệt rồi thì sau đó con người diệt, không
còn sót gì lại sau này. Khi con người đã diệt, không còn gì nữa, thì thế
gian này sẽ hủy hoại cho đến thành là tai nạn. Sau đó trời không mưa,
trăm thứ lúa thóc, cỏ cây tự nhiên chết khô.”
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Vì vậy nên biết: Tất cả hành là vô thường, biến dịch, mục nát hư
hoại, không thể tin cậy nương nhờ. Các pháp hữu vi rất đáng nhàm tởm.
Hãy nên tìm con đường giải thoát, vượt qua thế gian.
“Sau đó, qua một thời gian rất lâu, có một trận bão lớn bạo khởi,
thổi nước biển lớn, làm cho nước biển, sâu tám vạn bốn ngàn do-tuần, bị
tách làm hai; mang cung điện mặt trời đem đặt lưng chừng núi Tu-di; cách
mặt đất bốn vạn hai ngàn do-tuần, đặt làm quỹ đạo của mặt trời. Do nhân
duyên này mà thế gian có hai mặt trời xuất hiện. Sau khi hai mặt trời
xuất hiện, thì những giòng sông, ngòi, kênh, rạch nhỏ có được trên thế
gian này, đều khô kiệt.”
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Vì vậy nên biết: Tất cả hành là vô thường, biến dịch, mục nát hư
hoại, không thể tin cậy nương nhờ. Các pháp hữu vi rất đáng nhàm tởm.
Hãy nên tìm con đường giải thoát vượt qua thế gian.
“Sau đó một thời gian rất lâu có một trận bão lớn bạo khởi, thổi nước
biển lớn, làm cho nước biển, sâu tám vạn bốn ngàn do-tuần, bị tách làm
hai; mang cung điện mặt trời, đem đặt lưng chừng núi Tu-di; cách mặt đất
bốn vạn hai ngàn do-tuần, an trí quỹ đạo mặt trời. Do nhân duyên này mà
thế gian có ba mặt trời xuất hiện. Sau khi ba mặt trời xuất hiện, thì
những nơi có nước nhiều như: sông Hằng, sông Da-bà-na, sông Bà-la, sông
A-di-la-bà-đề, sông A-ma-khiếp, sông Tân-đà, sông Cố-xá tất cả đều khô
cạn, không còn một giọt.
“Vì vậy nên biết: Tất cả hành là vô thường, biến dịch, mục nát hư
hoại, không thể tin cậy nương nhờ, Các pháp hữu vi rất đáng nhàm tởm.
Hãy nên tìm con đường giải thoát vượt qua thế gian.
“Sau đó một thời gian rất lâu có một trận bão lớn bạo khởi, thổi nước
biển lớn, làm cho nước biển, sâu tám vạn bốn ngàn do-tuần, bị tách làm
hai; mang cung điện mặt trời, đem đặt lưng chừng núi Tu-di; cách mặt đất
bốn vạn hai ngàn do-tuần, an trí quỹ đạo mặt trời. Do nhân duyên này mà
thế gian có bốn mặt trời xuất hiện. Sau khi bốn mặt trời xuất hiện, thì
những con suối, nguồn nước, hồ, vực, trong thế gian như ao lớn Thiện
kiến, ao lớn A-nậu-đạt, ao Tứ-phương-đà-diên, ao Ưu-bát-la, ao
Câu-vật-đầu, ao Phân-đà-lỵ, ao Ly; dọc ngang rộng năm mươi do-tuần, thảy
đều khô cạn hết.
“Vì vậy nên biết: Tất cả hành là vô thường, biến dịch, mục nát hư
hoại, không thể tin cậy nương nhờ. Các pháp hữu vi rất đáng nhàm tởm.
Hãy nên tìm con đường giải thoát vượt qua thế gian.
“Sau đó, một thời gian lâu dài, có một trận bão lớn bạo khởi, thổi
nước biển lớn, làm cho nước biển, sâu tám vạn bốn ngàn do-tuần, bị tách
làm hai; mang cung điện mặt trời, đem đặt lưng chừng núi Tu-di; cách mặt
đất bốn vạn hai ngàn do-tuần, an trí quỹ đạo mặt trời. Do nhân duyên
này mà thế gian có năm mặt trời xuất hiện. Sau khi năm mặt trời xuất
hiện, thì nước trong biển lớn bị vơi dần từ một trăm do-tuần cho đến bảy
trăm do-tuần.
“Vì vậy nên biết rằng: Tất cả hành là vô thường, biến dịch, mục nát
hư hoại, không thể tin cậy nương nhờ. Các pháp hữu vi rất đáng nhàm tởm.
Hãy nên tìm con đường giải thoát vượt qua thế gian.
“Bấy giờ, nước biển lớn vơi dần hết chỉ còn có từ bảy trăm do-tuần,
rồi sáu trăm do-tuần, rồi năm trăm do-tuần, rồi bốn trăm do-tuần, vàvà.
cho đến chỉ tồn tại một trăm do-tuần. Vì vậy nên biết rằng: Tất cả hành
là vô thường, biến dịch, mục nát hư hoại, không thể tin cậy nương nhờ.
Phàm các pháp hữu vi rất đáng nhàm tởm. Hãy nên tìm con đường giải thoát
vượt qua thế gian.
“Bấy giờ, nước biển lớn từ từ vơi dần chỉ còn từ bảy do-tuần, rồi sáu
do-tuần, rồi năm do-tuần vàvà. cho đến chỉ còn tồn tại một do-tuần.”
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Vì vậy nên biết: Tất cả hành là vô thường, biến dịch, mục nát hư
hoại, không thể tin cậy nương nhờ. Phàm các pháp hữu vi rất đáng nhàm
tởm. Hãy nên tìm con đường giải thoát vượt qua thế gian.
“Sau đó nước biển vơi dần chỉ còn từ bảy cây Ða-la, rồi sáu cây Ða-la, và. cho đến chỉ còn bằng một cây Ða-la.”
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Vì vậy nên biết: Tất cả hành là vô thường, biến dịch, mục nát hư
hoại, không thể tin cậy, nương nhờ. Phàm các pháp hữu vi rất đáng nhàm
tởm. Hãy nên tìm con đường giải thoát vượt qua thế gian.
“Sau đó nước biển chuyển cạn dần từ bảy người, rồi sáu người, rồi năm
người, rồi bốn người, rồi ba người, rồi hai người, rồi một người, cho
đến chỉ còn từ thắt lưng, rồi đầu gối, rồi đến. mắt cá chân người.”
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Vì vậy nên biết: Tất cả hành là vô thường, biến dịch, mục nát hư
hoại, không thể tin cậy nương nhờ. Phàm các pháp hữu vi rất đáng để cho
con người chán nản và lo sợ, nên tìm đạo giải thoát độ thế gian.
“Sau đó, nước biển chỉ còn giống như sau cơn mưa xuân; cũng giống như
nước trong dấu chân trâu, từ từ cạn hết, không đủ thấm ướt ngón tay
người.”
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Vì vậy nên biết: Tất cả hành là vô thường, biến dịch, mục nát hư
hoại, không thể tin cậy nương nhờ. Phàm các pháp hữu vi rất đáng nhàm
tởm. Hãy nên tìm con đường giải thoát vượt qua thế gian.
“Sau đó, qua một thời gian lâu dài, có trận bão lớn bạo khởi, thổi
cát đáy biển, độ sâu tám vạn bốn ngàn do-tuần, dạt lên hai bờ; mang cung
điện mặt trời đem đặt lưng chừng núi Tu-di, an trí quỹ đạo mặt trời. Do
nhân duyên này mà thế gian có sáu mặt trời xuất hiện. Sau khi sáu mặt
trời xuất hiện, thì bốn châu thiên hạ, cùng tám vạn núi trong thiên hạ,
núi lớn, Tu-di sơn vương. đều bốc khói cháy xém, giống như thợ gốm khi
bắt đầu đun đồ gốm, thì lúc sáu mặt trời xuất hiên lại cũng như vậy.”
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Vì vậy nên biết: Tất cả hành là vô thường, biến dịch, mục nát hư
hoại, không thể tin cậy nương nhờ. Phàm các pháp hữu vi rất đáng nhàm
tởm. Hãy nên tìm con đường giải thoát vượt qua thế gian.
“Sau đó, qua một thời gian lâu dài, có trận bão lớn bạo khởi, thổi
cát đáy biển, độ sâu tám vạn bốn ngàn do-tuần, dạt lên hai bờ; mang cung
điện mặt trời đem đặt lưng chừng núi Tu-di, an trí quỹ đạo mặt trời. Do
nhân duyên này mà thế gian có bảy mặt trời xuất hiện. Sau khi bảy mặt
trời xuất hiện, thì bốn châu thiên hạ này, cùng tám vạn núi trong thiên
hạ, các núi lớn, Tu-di sơn vương. tất cả đều rực lửa. Cũng như thợ gốm
khi đốt to, ngọn lửa bốc lên, lúc bảy mặt trời xuất hiên lại cũng như
vậy.”
Phật bảo Tỳ t-kheo:
“Vì vậy nên biết: Tất cả hành là vô thường, biến dịch, mục nát hư
hoại, không thể tin cậy nương nhờ. Phàm các pháp hữu vi rất đáng nhàm
tởm. Hãy nên tìm con đường giải thoát vượt qua thế gian. Bốn châu thiên
hạ này, cùng tám vạn núi trong thiên hạ, các núi lớn, Tu-di sơn vương.
tất cả đều rực lửa. Cùng lúc, cung điện Tứ thiên vương, cung điện
Ðao-lợi thiên, cung điện Diệm-ma thiên, Ðâu-suất thiên, Hóa tự tại
thiên, Tha hóa tự tại thiên, cung điện Phạm thiên cũng đều rực lửa.”
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Vì vậy nên biết: Tất cả hành là vô thường, biến dịch, mục nát hư
hoại, không thể tin cậy nương nhờ. Phàm các pháp hữu vi rất đáng nhàm
tởm. Hãy nên tìm con đường giải thoát vượt qua thế gian.
“Sau khi bốn châu thiên hạ này. cho đến Phạm thiên, thảy đều rực lửa,
gió thổi ngọn lửa đến cõi Quang âm thiên. Các Thiên tử sơ sinh khi thấy
ngọn lửa này đều sanh lòng sợ hãi, nói rằng: Ối! Vật gì đây? Chư Thiên
sinh trước nói với chư Thiên sinh sau rằng: Chớ sợ hãi! Lửa kia đã từng
đến và dừng lại ngang đó. Vì nghĩ đến ánh lửa trước nên gọi là Quang
niệm thiên.
“Khi bốn thiên hạ này,. cho đến Phạm thiên, bốc lửa, thì Tu-di sơn
vương dần dần sụp lở, từ một trăm do-tuần, hai trăm do-tuần. cho đến bảy
trăm do-tuần.”
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Vì vậy nên biết: Tất cả hành là vô thường, biến dịch, mục nát hư
hoại, không thể tin cậy nương nhờ. Phàm các pháp hữu vi rất đáng nhàm
tởm. Hãy nên tìm con đường giải thoát vượt qua thế gian.
“Sau khi bốn châu thiên hạ này. cho đến Phạm thiên đều bị lửa đốt
sạch, sau đó đại địa cùng Tu-di sơn không còn chút tro tàn nào hết. Vì
vậy nên biết: Tất cả hành là vô thường, biến dịch, mục nát hư hoại,
không thể tin cậy nương nhờ. Phàm các pháp hữu vi rất đáng nhàm tởm. Hãy
nên tìm con đường giải thoát vượt qua thế gian.”
“Sau khi đại địa bị lửa đốt cháy sạch rồi, thì nước ở bên dưới đất
cũng hết; gió ở bên dưới nước cũng hết. Vì vậy nên biết: Tất cả hành là
vô thường, biến dịch, mục nát hư hoại, không thể tin cậy nương nhờ. Phàm
các pháp hữu vi rất đáng nhàm tởm. Hãy nên tìm con đường giải thoát
vượt qua thế gian.”
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Khi tai kiếp lửa khởi lên, thì trời không mưa xuống, trăm thứ lúa,
cỏ, cây tự nhiên bị khô chết. Ai sẽ tin? Chỉ có ai đã thấy thì sẽ tự
biết mà thôi! Cũng vậy, cho đến, nước ở bên dưới đất hết, gió ở bên dưới
nước cũng hết; ai sẽ tin? Chỉ có ai đã thấy thì sẽ tự biết mà thôi!
“Ðó là tai kiếp lửa.
“Thế nào là sự phục hồi của kiếp lửa ? Sau đó rất lâu, rất lâu, có
đám mây đen lớn ở giữa hư không, cho đến cõi Quang âm thiên; mưa đổ
xuống khắp nơi, giọt mưa như bánh xe. Mưa như vậy trải qua vô số trăm
ngàn năm, nước mưa lớn dần, cao đến vô số trăm ngàn do-tuần, cho đến cõi
Quang âm thiên.
“Bấy giờ, có bốn trận gió lớn nổi lên, giữ nước này trụ lại. Những gì
là bốn? Một là Trụ phong, hai là Trì phong, ba là Bất động, bốn là Kiên
cố. Sau đó nước này vơi bớt một trăm ngàn do-tuần, rồi vô số trăm ngàn
vạn do-tuần. Bốn mặt của nước này khởi lên trận gió lớn tên gió là Tăng
già, thổi nước khiến chúng dao động, nổi dậy ba đào, tạo thành bọt nước
mà tích tụ lại; đám bọt nước tích tụ này bị gió thổi lìa khỏi mặt nước
bắn lên không trung và tự nhiên chúng rắn chắc, biến thành Thiên cung.
Thiên cung trang sức bằng bảy báu. Do nhân duyên này mà có thiên cung
Phạm-ca-di. Khi nước kia vơi mãi cho đến vô số trăm ngàn vạn do-tuần,
thì bốn mặt của nước này lại nổi lên gió lớn, được gọi là tăng già, thổi
nước khiến chúng dao động, nổi dậy ba đào, tạo thành bọt nước mà
tích tụ lại; đám bọt nước tích tụ này bị gió thổi lìa khỏi mặt nước bắn
lên không trung và tự nhiên chúng rắn chắc, biến thành Thiên cung. Thiên
cung này trang sức bằng bảy báu. Do nhân duyên này mà có thiên cung Tha
hóa tự tại.
“Khi nước kia vơi bớt mãi cho đến vô số ngàn vạn do-tuần, thì bốn mặt
nước này nổi lên gió lớn, có gió tên là tăng già, thổi nước khiến chúng
dao động, nổi dậy ba đào, tạo thành bọt nước mà tích tụ lại; đám bọt
nước tích tụ này bị gió thổi lìa khỏi mặt nước bắn lên không trung và tự
nhiên chúng rắn chắc, biến thành Thiên cung. Thiên cung này trang sức
bằng bảy báu. Do nhân duyên này mà có thiên cung Hóa tự tại.
“Khi nước kia rút xuống vô số trăm ngàn do-tuần, thì có gió tên là
tăng già, thổi nước khiến chúng dao động, nổi dậy ba đào, tạo thành bọt
nước mà tích tụ lại; đám bọt nước tích tụ này bị gió thổi lìa khỏi mặt
nước bắn lên không trung và tự nhiên chúng rắn chắc, biến thành Thiên
cung. Thiên cung này trang sức bằng bảy báu. Do nhân duyên này mà có
thiên cung Ðâu-suất.
“Khi nước kia rút xuống vô số trăm ngàn do-tuần, thì có gió tên là
tăng già, thổi nước khiến chúng dao động, nổi dậy ba đào, tạo thành bọt
nước mà tích tụ lại; đám bọt nước tích tụ này bị gió thổi lìa khỏi mặt
nước bắn lên không trung và tự nhiên chúng rắn chắc, biến thành Thiên
cung. Thiên cung này trang sức bằng bảy báu. Do nhân duyên này mà có
thiên cung Diệm-ma.
“Khi nước kia rút xuống vô số trăm ngàn do-tuần, thì trên nước có bọt
và sâu sáu mươi vạn tám ngàn do-tuần, các biên của nó không có bờ mé.
Cũng như dòng nước, suối, nguồn, hang, động ở thế gian này, trên nước
của nó có bọt; thì kia cũng như vậy.
“Vì nhân duyên gì mà có núi Tu-di? Vì có cuồng phong nổi dậy, nên
thổi bọt nước này tạo thành núi Tu-di, cao sáu mươi vạn tám ngàn
do-tuần, dọc ngang tám vạn bốn ngàn do-tuần và do bốn báu tạo thành:
vàng, bạc, thủy tinh, lưu ly.
“Vì nhân duyên gì mà có bốn cung điện A-tu-luân? Sau đó, cuồng phong
thổi đám bọt nước lớn, ở tại bốn mặt của núi Tu-di nổi lên cung điện
lớn; mỗi cung điện dọc ngang tám vạn do-tuần, tự nhiên biến thành cung
điện bảy báu.
“Lại vì nhân duyên gì mà có cung điện của Tứ thiên vương? Về sau,
cuồng phong thổi đám bọt nước lớn lên lưng chừng nửa núi Tu-di, độ bốn
vạn hai ngàn do-tuần, tự nhiên biến thành cung điện bảy báu. Vì vậy cho
nên gọi là cung điện Tứ thiên vương.
“Vì nhân duyên gì có cung điện Ðao-lợi thiên? Về sau, cuồng phong
thổi đám bọt nước lớn lên tới đỉnh núi Tu-di, tự nhiên biến thành cung
điện bảy báu.
“Lại vì nhân duyên gì mà có núi Già-đà-la? Về sau, cuồng phong thổi
đám bọt nước lớn lên cách núi Tu-di không xa, tự nhiên hóa thành núi
báu, chân núi ăn sâu vào trong đất bốn vạn hai ngàn do-tuần, dọc ngang
bốn vạn hai ngàn do-tuần, biên ngoài thì không hạn, sắc tạp bên cạnh do
bảy báu mà thành, vì nhân duyên này nên có núi Già-đà-la.
“Lại vì nhân duyên gì mà có núi Y-sa? Về sau, cuồng phong thổi đám
bọt nước lớn lên cách núi Già-đà-la không xa, tự nhiên hóa thành núi
Y-sa, cao hai vạn một ngàn do-tuần, dọc ngang hai vạn một ngàn do-tuần,
ngoài biên thì không hạn, nhiều màu sắc xen nhau, do bảy báu mà thành.
Vì nhân duyên này nên có núi Y-sa. Sau khi cuồng phong thổi đám bọt nước
lớn lên cách núi Y-sa không xa, tự nhiên hóa thành núi Thọ-thần-đà-la ,
cao một vạn hai ngàn do-tuần, dọc ngang một vạn hai ngàn do-tuần, ngoài
biên thì không hạn, nhiều màu xen nhau, do bảy báu mà thành. Vì nhân
duyên này nên có núi Thọ-thần-đà-la.
“Về sau, cuồng phong thổi đám bọt nước lớn lên cách núi Thọ
thần-đà-la không xa, tự nhiên hóa thành núi A-bát-ni-lâu, cao sáu ngàn
do-tuần, dọc ngang sáu ngàn do-tuần, biên ngoài thì không hạn, nhiều sắc
xen nhau, do bảy báu mà thành. Vì nhân duyên này nên có núi
A-bát-ni-lâu.
“Sau đó, cuồng phong thổi đám bọt nước lớn lên cách núi A-bát-ni-lâu
không xa, tự nhiên hóa thành núi Ni-lân-đà-la, cao ba ngàn do-tuần, dọc
ngang ba ngàn do-tuần, biên ngoài thì không hạn, nhiều sắc tạp xen, do
bảy báu mà thành. Vì nhân duyên này nên có núi Ni-lân-đà-la.
“Sau đó, cuồng phong thổi đám bọt nước lớn lên cách núi Ni-lân-đà-la
không xa, tự nhiên hóa thành núi Tỳ-ni-đà , cao một ngàn hai trăm
do-tuần, dọc ngang một ngàn hai trăm do-tuần, biên ngoài thì không hạn,
sắc tạp xen nhau, do bảy báu mà thành, vì nhân duyên này nên có núi
Tỳ-ni-đà.
“Sau đó, cuồng phong thổi đám bọt nước lớn lên cách núi Tỳ-ni-đà
không xa, tự nhiên hóa thành núi Kim cương luân, cao ba trăm do-tuần,
dọc ngang ba trăm do-tuần, biên ngoài thì không hạn, sắc tạp xen nhau,
do bảy báu mà thành, vì nhân duyên này nên có núi Kim cương luân.
“Vì sao có một cung điện mặt trăng, bảy cung điện mặt trời? Một thời
gian sau, cuồng phong thổi đám bọt nước lớn, thì tự nhiên biến thành một
cung điện mặt trăng, bảy cung điện mặt trời, sắc tạp xen nhau, do bảy
báu mà thành, vì bị bão thổi ngược trở lại chỗ cũ nên vì nhân duyên này
mà có cung điện mặt trời và cung điện mặt trăng.
“Sau đó, cuồng phong thổi đám bọt nước lớn, thì tự nhiên biến thành
bốn châu thiên hạ, cùng tám vạn thiên hạ. Vì nhân duyên này nên có bốn
châu thiên hạ cùng tám vạn thiên hạ.
“Sau đó, cuồng phong thổi bọt nước lớn, thì tại tứ thiên hạ cùng tám
vạn thiên hạ, tự nhiên biến thành núi Ðại Kim cương luân, cao mười sáu
vạn tám ngàn do-tuần, dọc ngang rộng mười sáu vạn tám ngàn do-tuần, biên
giới của nó thì không có hạn; kim cương rắn chắc không thể hủy hoại. Vì
nhân duyên này nên có núi Ðại Kim cương luân.
“Sau đó một thời gian rất lâu, rất lâu, có mây tự nhiên phủ đầy không
trung và mưa lớn khắp nơi, những giọt nước mưa như bánh xe; nước này
tràn đầy khắp nơi dìm bốn châu thiên hạ cùng núi Tu-di v. v.
“Sau đó, cuồng phong thổi đất làm thành hầm hố lớn; nước khe suối đều
chảy vào hết trong đó, nhân đây mà làm thành biển. Vì nhân duyên này
nên có bốn biển nước lớn. Nước biển mặn đắng có ba nhân duyên. Những gì
là ba? Một, mây tự nhiên giăng khắp hư không cho đến Quang âm thiên, mưa
khắp mọi nơi, tẩy rửa cung trời, rửa sạch thiên hạ; từ cung trời
Phạm-ca-di, cung trời Tha hóa tự tại xuống đến cung trời Diệm-ma, bốn
thiên hạ, tám vạn thiên hạ, các núi, núi lớn, Tu-di sơn vương, thảy đều
được tẩy rửa sạch sẽ; trong những nơi này, tất cả các thứ nước dịch bất
tịnh, dơ dáy và mặn, đều trôi xuôi xuống mà vào trong biển cả hợp thành
một vị, nên nước biển có vị mặn. Hai, vì xưa kia có vị Ðại tiên trì cấm
chú vào nước biển, muốn cho lúc nào nó cũng mặn đắng, người không uống
được, cho nên chúng mặn đắng. Ba, vì trong nước biển lớn này có nhiều
loại chúng sanh cư trú, thân hình chúng to dài đến, hoặc trăm do-tuần,
hai trăm do-tuần. cho đến bảy trăm do-tuần, thở hít, ăn vào mửa ra, đại
tiểu tiện đều ở trong đó, nên nước biển mặn.
“Ðó là tai kiếp lửa .”
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Thế nào là tai kiếp nước?
“Khi tai kiếp nước bắt đầu, con người trong thế gian này đều phụng
hành chánh pháp, đều chánh kiến, không theo tà kiến, mà tu tập mười
thiện nghiệp. Sau khi tu tập thiện hành, có người đạt được đệ Tam thiền
không có hỷ, thân họ có thể cất lên ở giữa hư không, an trụ Thánh nhơn
đạo, Thiên đạo, Phạm đạo và lớn tiếng xướng lên rằng: Các Hiền giả! Sung
sướng thay, đệ Tam thiền không có hỷ! Lúc ấy, người thế gian nghe những
lời này rồi, liền ngửa mặt lên trời nói với họ rằng: Lành thay! Lành
thay! xin vì tôi mà nói đạo của Tam thiền không có hỷ. Lúc này, người ở
giữa hư không nghe những lời của người kia rồi liền nói về đạo của Tam
thiền không có hỷ. Sau khi người thế gian nghe nói rồi, liền tu đạo của
Tam thiền không có hỷ, nên khi thân hoại mạng chung họ được sinh về
Biến tịnh thiên.
“Bấy giờ, những chúng sanh ở trong địa ngục, sau khi tội nghiệp của
họ đã mãn, thân hoại mạng chung tái sinh vào nhân gian. Rồi cũng tu tập
đạo của đệ Tam thiền; sau khi tu tập đạo thiền, thân hoại mạng chung,
được sinh về Biến tịnh thiên. Những chúng sanh của các loài súc sanh,
ngạ quỷ, A-tu-luân, Tứ thiên vương, Ðao-lợi thiên, Diệm-ma thiên,
Ðâu-suất thiên, Hóa tự tại thiên, Tha hóa tự tại thiên, Phạm thiên,
Quang âm thiên sau khi thân hoại mạng chung cũng tái sinh vào cõi nhân
gian; nếu họ cũng tu tập đạo của đệ Tam thiền, khi thân hoại mạng chung
họ cũng sẽ được sinh về Biến tịnh thiên. Vì nhân duyên này nên đạo địa
ngục bị diệt tận và súc sanh, ngạ quỷ, A-tu-luân, Tứ thiên vương. cho
đến cõi Quang âm thiên cũng đều diệt tận. Vào lúc bấy giờ, trước tiên là
địa
ngục biến mất, sau đó súc sanh biến mất; súc sanh biến mất rồi, thì ngạ
quỷ biến mất; ngạ quỷ biến mất rồi, thì A-tu-luân biến mất; khi
A-tu-luân biến mất rồi, thì Tứ thiên vương biến mất; khi Tứ thiên vương
biến mất rồi, thì Ðao-lợi thiên biến mất, khi Ðao-lợi thiên biến mất
rồi, thì Diệm-ma thiên biến mất; Diệm-ma thiên biến mất rồi, thì
Ðâu-suất thiên biến mất; khi Ðâu-suất thiên biến mất rồi, thì Hóa tự tại
thiên biến mất; khi Hóa tự tại thiên biến mất rồi, thì Tha hóa tự tại
thiên biến mất; khi Tha hóa tự tại thiên biến mất rồi, thì Phạm thiên
biến mất; khi Phạm thiên biến mất rồi, thì Quang âm thiên biến mất; khi
Quang âm thiên biến mất, sau đó thì loài người hoàn toàn biến mất. Sau
khi loài người hoàn toàn biến mất, thế gian này hủy diệt. Như thế là
hoàn thành tai kiếp.
“Rất lâu sau đó, rất lâu, có đám mây đen lớn bạo khởi, trên cho đến
Biến tịnh thiên, mưa khắp mọi nơi, mưa xuống hoàn toàn là nước nóng. Thứ
nước này sôi sục, đun nấu thiên hạ, làm cho các cung điện cõi trời thảy
đều bị tiêu hết, không còn sót thứ gì, giống như đặt chất béo váng sữa
vào trong lửa, đều bị chảy tiêu hết, không còn sót thứ gì, thì cung
điện Quang âm thiên cũng lại như vậy. Vì vậy nên biết: Tất cả hành là vô
thường, là pháp biến dịch, không đáng tin cậy; phàm các pháp hữu vi rất
đáng nhàm tởm. Hãy nên tìm con đường giải thoát vượt khỏi thế gian.
“Sau đó, mưa này lại xâm phạm đến cung điện cõi trời Phạm-ca-di, cũng
đun chảy tiêu hết, không sót thứ gì, giống như chất béo váng sữa đem
đặt vào trong lửa, không còn sót thứ gì, thì cung điện Phạm-ca-di lại
cũng như vậy.
“Sau đó, nước mưa này lại xâm phạm đến các cung điện Tha hóa tự tại
thiên, Hóa tự tại thiên, Ðâu-suất thiên, Diệm-ma thiên, cũng bị đun chảy
tiêu hết, không còn sót thứ gì, giống như chất béo váng sữa đem đặt vào
trong lửa, không còn sót thứ gì, thì các cung điện chư Thiên lại cũng
như vậy.
“Sau đó, nước mưa này lại xâm phạm đến bốn châu thiên hạ, cùng tám
vạn thiên hạ, các núi, núi lớn, Tu-di sơn vương cũng đều bị đun nấu tiêu
hết, không còn sót thứ gì, giống như chất béo váng sữa đem đặt vào
trong lửa, đều bị nung chảy tiêu hết, không còn sót thứ gì, thì những
thứ này lại cũng như vậy. Vì vậy nên biết: Tất cả hành là vô thường, là
pháp biến dịch, không đáng tin cậy; phàm các pháp hữu vi rất đáng nhàm
tởm. Hãy nên tìm con đường giải thoát vượt khỏi thế gian.
“Sau đó, nước này đã đun nấu đại địa không còn sót gì nữa rồi, thì
nước bên dưới đất cũng hết, gió bên dưới nước cũng hết. Vì vậy nên biết:
Tất cả hành là vô thường, là pháp biến dịch, không đáng tin cậy; phàm
các pháp hữu vi rất đáng nhàm tởm. Hãy nên tìm đạo giải thoát vượt khỏi
thế gian.”
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Sự nung chảy, tiến tận ngang đến cung điện Biến tịnh thiên này, ai là người có thể tin? Chỉ có ai thấy mới có thể biết mà thôi!
“Từ cung điện Phạm-ca-di bị nung chảy tiêu hết. cho đến, nước bên
dưới đất cũng hết, gió bên dưới nước cũng hết, ai là người có thể tin?
Chỉ có ai thấy, mới có thể biết mà thôi!
“Ðó là tai họa do nước.
“Thế nào là sự hồi phục của tai kiếp nước? Sau đó một thời gian rất
lâu, rất lâu, xuất hiện đám mây đen lớn bao phủ khắp hư không, lên đến
cõi Biến tịnh thiên, mưa khắp nơi, những giọt nước mưa như bánh xe. Mưa
kéo dài vô số trăm ngàn vạn năm như vậy, nước mưa này lớn dần dần cho
đến cõi Biến tịnh thiên. Có bốn loại gió lớn giữ nước này lại một chỗ đó
là: một là trụ phong, hai là trì phong, ba là bất động, bốn là kiên cố.
“Sau đó, nước này vơi giảm vô số trăm ngàn do-tuần, bốn mặt gió lớn
nổi dậy gọi là tăng-già, thổi nước khiến chúng dao động, nổi dậy ba đào,
tạo thành bọt nước mà tích tụ lại, rồi bị gió thổi lìa khỏi mặt nước
bắn lên không trung và tự nhiên chúng biến thành cung điện Quang âm
thiên, trang sức bằng bảy báu. Vì nhân duyên này mà có cung điện Quang
âm thiên.
“Khi nước kia vơi giảm dần cho đến vô số trăm ngàn do-tuần, thì gió
tăng già thổi nước khiến chúng dao động, nổi dậy ba đào, tạo thành bọt
nước mà tích tụ lại, rồi bị gió thổi lìa khỏi mặt nước bắn lên không
trung và tự nhiên chúng biến thành cung điện Phạm-ca-di, trang sức bằng
bảy báu. Như đã kể, cho đến, nước biển có cùng một vị mặn đắng, cũng như
lúc tai họa do lửa phục hồi, đó là tai kiếp nước.”
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Thế nào là tai kiếp gió ? Khi tai kiếp gió bắt đầu khởi, con người
trong thế gian này đều phụng hành chánh pháp, đều chánh kiến, không theo
tà kiến, mà tu tập mười thiện nghiệp. Khi tu tập hành vi thiện, thì có
người đạt được đệ Tứ thiền với xả và niệm thanh tịnh, họ ở giữa hư
không, trụ vào Thánh nhơn đạo, Thiên đạo, Phạm đạo và lớn tiếng xướng
lên rằng: Các Hiền giả! Nên biết, sung sướng thay, đệ Tứ thiền với xả và
niệm thanh tịnh! Sung sướng thay, đệ Tứ thiền với xả và niệm thanh
tịnh! Lúc ấy, người thế gian nghe những lời này rồi, liền ngửa mặt lên
trời nói với họ rằng: Lành thay! Lành thay! Xin vì tôi mà nói về đạo của
Tứ thiền với xả và niệm thanh tịnh! Lúc này, người ở giữa hư không nghe
những lời của người kia rồi liền nói về đạo của Tứ thiền. Sau khi người
thế gian nghe nói rồi, liền tu đạo của Tứ thiền, nên khi thân hoại mạng
chung được sinh về Quả thật thiên.
“Bấy giờ, những chúng sanh ở trong địa ngục, sau khi tội nghiệp đã
mãn, thân hoại mạng chung, tái sinh vào nhân gian. Rồi cũng tu tập đạo
của đệ Tứ thiền; sau khi tu tập đạo thiền, thân hoại mạng chung, tái
sinh về Quả thật thiên. Còn những chúng sanh của các loài súc sanh, ngạ
quỷ, A-tu-luân, Tứ thiên vương,. cho đến Biến tịnh thiên, sau khi thân
hoại mạng chung cũng sẽ tái sinh vào cõi nhân gian; nếu cũng tu tập đạo
của đệ Tứ thiền, khi thân hoại mạng chung cũng sẽ tái sinh về Quả thật
thiên. Vì nhân duyên này nên đạo địa ngục được diệt tận và súc sanh, ngạ
quỷ, A-tu-luân, Tứ thiên vương. cho đến cõi Biến tịnh thiên cũng đều
diệt tận.
“Vào lúc bấy giờ, trước tiên là địa ngục diệt tận, sau đó súc sanh
diệt tận; súc sanh diệt tận rồi, thì ngạ quỷ diệt tận; khi ngạ quỷ diệt
tận rồi, thì A-tu-luân diệt tận; khi A-tu-luân diệt tận rồi, thì Tứ
thiên vương diệt tận; khi Tứ thiên vương diệt tận rồi. như vậy lần lượt
cho đến Biến tịnh thiên diệt tận; khi Biến tịnh thiên diệt tận rồi, thì
sau đó, con người bị diệt tận không còn sót. Khi con người đã bị diệt
tận không còn sót, thì thế gian này bị tan hoại, thế là hoàn thành tai
kiếp.
“Rất lâu, rất lâu sau đó, có gió lớn nổi lên, tên là đại tăng già,.
cho đến Quả thật thiên. Gió lan khắp mọi nơi, thổi cung điện Biến tịnh
thiên, Quang âm thiên, khiến cho các cung điện va chạm nhau tan vỡ ra
thành phấn bụi, giống như lực sĩ cầm hai cái chày đồng, làm cho chúng va
chạm nhau, cả hai đều vỡ vụn không còn gì hết, thì hai cung điện va
chạm nhau cũng lại như vậy. Vì vậy nên biết: Tất cả hành là vô thường,
là pháp biến dịch, không đáng tin cậy; phàm các pháp hữu vi rất đáng
nhàm tởm. Hãy nên tìm đạo giải thoát vượt khỏi thế gian.
“Sau đó, gió này thổi cung điện Phạm-ca-di thiên, Tha hóa tự tại
thiên, các cung điện va chạm nhau, tan vỡ ra thành phấn bụi không còn gì
hết, giống như lực sĩ cầm hai cái chày đồng, làm cho chúng va chạm
nhau, cả hai đều vỡ không còn gì hết, thì hai cung điện va chạm nhau
cũng lại như vậy. Vì vậy nên biết: Tất cả hành là vô thường, là pháp
biến dịch, không đáng tin cậy; phàm các pháp hữu vi rất đáng nhàm tởm.
Hãy nên tìm đạo giải thoát vượt thế gian.
“Sau đó, gió này thổi cung điện Hóa tự tại thiên, Ðâu-suất thiên,
Diệm-ma thiên, các cung điện này va chạm nhau, tan vỡ ra thành phấn bụi
không còn lại gì hết, giống như lực sĩ cầm hai cái chày đồng, làm cho
chúng va chạm nhau, cả hai đều vỡ vụn không còn gì hết, thì những cung
điện này va chạm nhau không còn gì hết cũng lại như vậy. Vì vậy nên
biết: Tất cả hành là vô thường, là pháp biến dịch, không đáng tin cậy;
phàm các pháp hữu vi rất đáng nhàm tởm. Hãy nên tìm con đường giải thoát
vượt khỏi thế gian.
“Sau đó, gió này thổi bốn thiên hạ, cùng tám vạn thiên hạ, các núi,
núi lớn, Tu-di sơn vương đem đặt giữa hư không, cao trăm ngàn do-tuần,
những ngọn núi này va chạm nhau, tan vỡ ra thành phấn bụi, giống như lực
sĩ tay cầm vỏ trấu nhẹ rải vào không trung, thì tứ châu thiên hạ,
Tu-di, các núi này vỡ vụn, phân tán ra, cũng lại như vậy. Vì vậy nên
biết: Tất cả hành là vô thường, là pháp biến dịch, không đáng tin cậy;
phàm các pháp hữu vi rất đáng nhàm tởm. Hãy nên tìm con đường giải thoát
vượt khỏi thế gian.
“Sau đó, gió thổi đại địa; nước bên dưới đất hết, gió bên dưới nước
hết. Cho nên phải biết: Tất cả hành là vô thường, là pháp biến dịch,
không đáng tin cậy; phàm các pháp hữu vi rất đáng nhàm tởm nên tìm con
đường giải thoát vượt khỏi thế gian.”
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Khi hai cung điện Biến tịnh thiên và Quang âm thiên va chạm nhau,
tan vỡ ra thành phấn bụi, ai là người có thể tin? Chỉ có độc nhất người
thấy mới có thể biết mà thôi. Như vậy cho đến nước bên dưới đất hết, gió
bên dưới nước hết, ai là người sẽ tin? Chỉ có độc nhất người thấy mới
có thể biết mà thôi.
“Ðó là tai kiếp gió.
“Thế nào là sự hồi phục của tai kiếp?
“Sau một thời gian rất lâu xuất hiện đám mây đen lớn bao phủ khắp hư
không, lên đến cõi Quả thật thiên. Rồi mưa xuống khắp nơi; những giọt
nước mưa như bánh xe, mưa kéo dài vô số trăm ngàn vạn năm, nước này lớn
dần, cho đến Quả thật thiên. Lúc bấy giờ, có bốn loại gió lớn giữ nước
này lại một chỗ. Những gì là bốn? Một là trụ phong, hai là trì phong, ba
là bất động, bốn là kiên cố. Sau đó, nước này dần dần rút xuống vô số
trăm ngàn do-tuần; bốn phía mặt nước gió lớn nổi dậy, gọi là tăng già,
thổi nước khiến chúng dao động, nổi dậy ba đào, tạo thành bọt nước mà
tích tụ lại, bị gió thổi lìa khỏi mặt nước bắn lên không trung và tự
nhiên chúng biến thành cung điện Biến tịnh thiên, được trang sức bằng
bảy báu, xen lẫn các loại tạp sắc. Vì nhân duyên này mà có cung điện
Biến tịnh thiên.
“Khi nước kia rút dần cho đến vô số trăm ngàn do-tuần, thì gió tăng
già kia thổi nước khiến chúng dao động, nổi dậy ba đào, tạo thành bọt
nước mà tích tụ lại, bị gió thổi lìa khỏi mặt nước bắn lên không trung
và tự nhiên chúng biến thành cung điện Quang âm thiên, được trang sức
bằng bảy báu, xen lẫn các loại tạp sắc. cho đến nước biển có cùng một vị
mặn đắng, cũng như đã nói về tai kiếp lửa.
“Ðó là tai kiếp gió. Ðó là ba tai kiếp và là ba lần phục hồi.”
PHẨM 10: CHIẾN ÐẤU
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Vào thuở xưa, khi chư Thiên cùng A-tu-luân chiến đấu. Bấy giờ Thích
Ðề-hoàn Nhân lệnh gọi chư Thiên Ðao-lợi đến bảo rằng: Nay các ngươi đi
đánh nhau với bọn chúng. Nếu thắng, hãy bắt A-tu-luân Tỳ-ma-chất-đa-la,
trói với năm chỗ trói, rồi mang đến giảng đường Thiện pháp. Ta muốn nhìn
thấy. Rồi, chư Thiên Ðao-lợi sau khi vâng lệnh Ðế Thích, mỗi người tự
trang bị cho mình.
“Lúc bấy giờ, A-tu-luân Tỳ-ma-chất-đa-la ra lệnh các A-tu-luân rằng:
Nay các ngươi hãy đi đánh nhau với bọn chúng. Nếu thắng, hãy bắt Thích
Ðề-hoàn Nhân, trói với năm chỗ trói, rồi mang đến giảng đường Thất diệp.
Ta muốn nhìn thấy. Rồi, các A-tu-luân sau khi vâng lệnh của A-tu-luân
Tỳ-ma-chất-đa, mỗi người tự trang bị cho mình.
“Bấy giờ, chư Thiên cùng chúng A-tu-luân chiến đấu với nhau. Chư
Thiên đắc thắng và A-tu-luân bại trận. Chư Thiên Ðao-lợi bắt vua
A-tu-luân trói lại với năm chỗ trói, mang về chỗ Thiện pháp đường, cho
Thiên Ðế Thích nhìn thấy. Khi ấy vua A-tu-luân thấy sự khoái lạc ở trên
Trời, sanh lòng quyến luyến vui thích, liền tự nghĩ: Nơi này thù thắng,
khả dĩ ở được; trở lại cung điện A-tu-luân làm gì? Khi khởi lên ý nghĩ
này, thì năm nơi đang bị trói trên thân lập tức được mở ra và năm thứ
dục lạc ở trên Trời hiện ra trước mắt. Nhưng nếu A-tu-luân nghĩ đến việc
trở lại cung điện trước kia, thì năm nơi trên thân liền bị trói chặt
trở lại và năm thứ dục lạc tự biến mất. Khi ấy những nơi bị trói buộc
trên thân của A-tu-luân trở nên bền chắc hơn. Sự trói buộc của Ma còn
hơn thế
nữa. Chấp ta và người, là sự trói buộc của Ma. Không chấp ta và người
thì sự trói buộc của Ma được cởi mở. Chấp thủ ngã là bị trói, chấp thủ
ái là bị trói, tự ngã sẽ tồn tại là bị trói, tự ngã sẽ không tồn tại là
bị trói; tự ngã có sắc là bị trói, tự ngã không sắc là bị trói, tự ngã
vừa có sắc vừa không có sắc là bị trói, tự ngã có tưởng là bị trói, tự
ngã không có tưởng là bị trói, tự ngã vừa có tưởng vừa không có tưởng là
bị trói; tự ngã là tai hoạn lớn, là ung nhọt, là gai nhọn. Cho nên, đệ
tử Hiền thánh biết rằng tự ngã là tai hoạn lớn, là ung nhọt, là gai
nhọn, nên xả bỏ ý tưởng về tự ngã mà tu vô ngã hành. Hãy quán sát tự ngã
kia là một gánh nặng, là buông lung, là hữu ; sẽ tồn tại tự ngã là hữu
vi, sẽ không tồn tại tự ngã là hữu vi; tự ngã có sắc là
hữu vi, tự ngã không có sắc là hữu vi, tự ngã vừa có sắc vừa không có
sắc là hữu vi; tự ngã có tưởng là hữu vi; tự ngã không có tưởng là hữu
vi; tự ngã vừa có tưởng vừa không có tưởng là hữu vi; hữu vi là tai hoạn
lớn, là ung nhọt, là gai nhọn. Cho nên, đệ tử Hiền thánh biết rằng hữu
vi là tai hoạn lớn, là ung nhọt, là gai nhọn, nên xả bỏ hữu vi mà thực
hành vô vi hành.”
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Vào thuở xưa, khi chư Thiên cùng A-tu-luân chiến đấu. Bấy giờ Thích
Ðề-hoàn Nhân lệnh gọi chư Thiên Ðao-lợi đến bảo rằng: Nay các ngươi đi
đánh nhau với bọn chúng. Nếu thắng, hãy bắt A-tu-luân Tỳ-ma-chất-đa-la,
trói với năm chỗ trói, rồi mang đến giảng đường thiện pháp. Ta muốn nhìn
thấy. Rồi, chư Thiên Ðao-lợi sau khi vâng lệnh Ðế Thích, mỗi người tự
trang bị cho mình.
“Lúc bấy giờ, A-tu-luân Tỳ-ma-chất-đa-la ra lệnh các A-tu-luân rằng:
Nay các ngươi hãy đi đánh nhau với bọn chúng. Nếu thắng, hãy bắt Thích
Ðề-hoàn Nhân, trói với năm chỗ trói, rồi mang đến giảng đường Thất diệp.
Ta muốn nhìn thấy.Rồi, các A-tu-luân sau khi vâng lệnh của A-tu-luân
Tỳ-ma-chất-đa-la, mỗi người tự trang bị cho mình.
“Rồi thì, chư Thiên cùng chúng A-tu-luân chiến đấu với nhau. Chư
Thiên đắc thắng và A-tu-luân bại trận. Chư Thiên Ðao-lợi bắt vua
A-tu-luân trói chặt với năm chỗ trói, mang về chỗ Thiện pháp đường, cho
Thiên Ðế Thích nhìn thấy. Lúc ấy, Thiên Ðế Thích thong thả dạo trên
Thiện pháp đường. Vua A-tu-luân từ xa trông thấy Ðế Thích, tuy đang bị
trói chặt với năm chỗ trói, mở miệng mắng chửi.
“Lúc đó, người hầu của Thiên đế, ở trước mặt Thiên đế liền nói kệ rằng:
- Việc gì Thiên đế sợ,
- Tự lộ yếu kém mình.
- Bị mắng thẳng vào mặt,
- Sao lặng nghe lời ác?”
“Bấy giờ, Thiên Ðế Thích đáp lại người hầu bằng bài kệ rằng:
- Nó cũng không sức mạnh,
- Ta cũng không sợ hãi.
- Việc gì, người đại trí,
- Hơn thua với kẻ ngu.
“Lúc bấy giờ, người hầu lại làm bài tụng tâu Ðế Thích rằng:
- Nay không bẻ đứa ngu,
- E sau càng khó nhịn.
- Hãy đánh nó bằng gậy,
- Khiến kẻ ngu hối lỗi.
“Bấy giờ, Thiên Ðế Thích lại làm bài tụng trả lời người hầu rằng:
- Ta thường bảo, người trí
- Không tranh cùng kẻ ngu;
- Nếu ngu mắng, trí im,
- Thì thắng kẻ ngu này.
“Khi ấy, người hầu lại làm bài tụng tâu Ðế Thích rằng:
- Thiên vương sở dĩ im,
- Vì e giảm đức trí;
- Nhưng kẻ ngu độn kia,
- Cho vua lòng sợ hãi.
- Kẻ ngu không tự lượng,
- Cho có thể địch vua;
- Liều chết đến xúc phạm,
- Muốn vua lui như trâu.
“Bấy giờ, Thiên Ðế Thích lại làm bài tụng trả lời người hầu rằng:
- Người ngu không tri kiến,
- Bảo ta lòng sợ hãi.
- Ta quán đệ nhất nghĩa:
- Nhẫn nhục là tối thượng.
- Ðiều xấu trong các xấu:
- Trong sân lại nổi sân;
- Ở trong sân không sân,
- Là chiến đấu tối thượng.
- Con người có hai duyên,
- Vì mình cũng vì người;
- Mọi người có tranh tụng,
- Ai không tranh là thắng.
- Con người có hai duyên,
- Vì mình cũng vì người;
- Thấy người không tranh tụng,
- Lại cho là ngu đần.
- Nếu người có sức lớn,
- Nhịn được người không sức;
- Sức này là đệ nhất,
- Là tối thượng trong nhẫn.
- Ngu tự cho mình mạnh,
- Sức này chẳng là sức;
- Người mạnh nhẫn như pháp,
- Sức này không ngăn được.
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Lúc bấy giờ, Thiên Ðế Thích há là người nào khác sao? Không nên có ý
nghĩ như vậy. Lúc ấy, Thiên Ðế Thích chính là bản thân Ta vậy. Vào lúc
bấy giờ, Ta tu tập nhẫn nhục, không hành động nóng vội, thường thường
khen ngợi người hay nhẫn nhục. Nếu có người trí nào muốn hoằng dương đạo
của Ta, thì phải tu tập nhẫn nhục im lặng, chớ ôm lòng phẫn hận đấu
tranh.”
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Thuở xa xưa, chư Thiên Ðao-lợi cùng A-tu-luân đánh nhau. Bấy giờ
Thích Ðề-hoàn Nhân nói với A-tu-luân Chất-đa rằng: Tại sao các khanh lại
ôm lòng sân hại, trang bị binh khí, đánh nhau để làm gì? Nay sẽ cùng
ngươi giảng luận đạo lý, để biết rõ thắng thua. Lúc ấy, Chất-đa
A-tu-luân kia nói với Ðế Thích rằng: Giả sử, nếu vất bỏ binh khí, chỉ
bàn luận tranh tụng về nghĩa lý thôi, vậy thì ai biết thắng bại? Ðế
Thích dạy rằng: Chỉ cần bàn luận thôi, hiện tại trong chúng của ngươi và
trong chúng chư Thiên của Ta, tự có người có trí tuệ biết rằng ai
thắng, ai bại. Lúc ấy, A-tu-luân nói với Ðế Thích rằng: Nhà ngươi nói kệ
trước đi. Ðế Thích trả lời: Nhà ngươi là Cựu thiên, nhà ngươi nên nói
trước đi. Bấy giờ, Chất-đa A-tu-luân liền vì Ðế Thích mà làm kệ:
- Nay không bẻ đứa ngu,
- E sau càng khó nhịn.
- Hãy đánh nó bằng gậy,
- Khiến kẻ ngu hối lỗi.
“Sau khi A-tu-luân nói bài kệ này xong, thì chúng A-tu-luân phấn khởi
vui mừng, cao tiếng khen hay. Chỉ có chúng chư Thiên là im lặng không
nói. Rồi vua của A-tu-luân nói với Ðế Thích rằng: Ðến lượt ngươi nói kệ.
Bấy giờ, Ðế Thích liền nói kệ cho A-tu-luân nghe:
- Ta thường bảo, người trí
- Không tranh cùng kẻ ngu;
- Nếu ngu mắng, trí im,
- Thì thắng kẻ ngu này.
“Sau khi Thiên Ðế Thích nói bài kệ này xong, thì chư Thiên Ðao-lợi
đều rất đỗi vui mừng, cất tiếng khen hay. Lúc này chúng A-tu-luân im
lặng không nói. Bấy giờ, Thiên Ðế Thích nói với A-tu-luân rằng: Ðến lượt
nhà ngươi nói kệ.
Lúc này, A-tu-luân lại nói kệ:
- Thiên vương sở dĩ im,
- Vì e giảm đức trí;
- Nhưng kẻ ngu độn kia,
- Cho vua lòng sợ hãi.
- Kẻ ngu không tự lượng,
- Cho có thể địch vua;
- Liều chết đến xúc phạm,
- Muốn vua lui như trâu.
“Sau khi A-tu-luân nói bài kệ này xong, thì chúng A-tu-luân nhảy nhót
vui mừng, lớn tiếng khen hay. Lúc này chúng Ðao-lợi thiên im lặng không
nói. Bấy giờ, A-tu-luân vương nói với Ðế Thích rằng: Ðến lượt nhà ngươi
nói kệ.
Thiên Ðế Thích bèn nói kệ cho A-tu-luân nghe rằng:
- Người ngu không tri kiến,
- Bảo Ta lòng sợ hãi.
- Ta quán đệ nhất nghĩa:
- Nhẫn nhục là tối thượng.
- Ðiều xấu trong các xấu:
- Trong sân lại nổi sân;
- Ở trong sân không sân,
- Là chiến đấu tối thượng.
- Con người có hai duyên,
- Vì mình cũng vì người;
- Mọi người có tranh tụng,
- Ai không tranh là thắng.
- Con người có hai duyên,
- Vì mình cũng vì người;
- Thấy người không tranh tụng,
- Lại cho là ngu đần.
- Nếu người có sức lớn,
- Nhịn được người không sức;
- Sức này là đệ nhất,
- Là tối thượng trong nhẫn.
- Ngu tự cho mình mạnh,
- Sức này chẳng là sức;
- Người mạnh nhẫn như pháp,
- Sức này không ngăn được.
“Sau khi Thích Ðề-hoàn Nhân nói bài kệ này xong, thì chúng Ðao-lợi
thiên nhảy nhót vui mừng, cất tiếng khen hay; chúng A-tu-luân thì im
lặng không nói. Lúc này, chúng Trời và chúng A-tu-luân, tạm thời tự rút
lui, cùng bảo nhau rằng: Những bài kệ tụng của A-tu-luân nói ra có điều
xúc phạm, dấy lên sự đáp trả bằng đao kiếm, làm nảy sinh ra gốc rễ của
đấu tranh và kiện tụng, nuôi lớn các oán kết, dựng lập gốc cây tam hữu.
Còn những bài kệ tụng của Thiên Ðế Thích nói ra không gây xúc nhiễu,
không đưa đến đao kiếm, không sinh ra tranh đấu kiện tụng, không nuôi
lớn oán kết, tuyệt gốc tam hữu. Những lời nói của Thiên Ðế Thích là tốt
lành; chư Thiên đã thắng, A-tu-luân đã bại.”
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Lúc bấy giờ, Thiên Ðế Thích là người nào khác sao? Chớ có quan niệm
này! Vì sao? Vì đó chính là bản thân Ta. Vào lúc bấy giờ, Ta dùng những
lời nhu hòa mà thắng chúng A-tu-luân.”
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Thuở xa xưa, khi chư Thiên lại đánh nhau với A-tu-luân lần nữa. Bấy
giờ A-tu-luân thắng, chư Thiên bại. Lúc ấy, Thích Ðề-hoàn Nhân sợ hãi
cưỡi xe báu ngàn căm bỏ chạy; giữa đường thấy trên cây Thiểm-bà-la có
một tổ chim, trong tổ có hai con chim con, liền dùng kệ tụng bảo người
điều khiển xe rằng:
- Cây này có hai chim,
- Người nên lui xe tránh,
- Chẳng thà giặc hại ta,
- Chớ thương tổn hại chim.
“Sau khi người điều khiển xe nghe Ðế Thích nói kệ, liền dừng xe và
quay xe tránh chim trên cây. Khi ấy, đầu xe quay về phía A-tu-luân.
Chúng A-tu-luân từ xa nhìn thấy xe báu quay đầu lại, quân của chúng bảo
nhau: Giờ Thiên Ðế Thích cưỡi xe báu ngàn căm quay đầu nhắm về phía
chúng ta, có lẽ muốn giao đấu trở lại. Chúng ta không thể đượng cự được!
Chúng A-tu-luân liền thối lui và tan rã, nhân đây mà chư Thiên chiến
thắng và A-tu-luân bại tẩu.”
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Lúc bấy giờ, Ðế Thích há là người nào khác sao? Chớ có quan niệm như
vậy! Vì sao? Vì chính đó là bản thân Ta. Vào lúc bấy giờ, Ta đối với
chúng sanh phát khởi lòng thương xót. Này các Tỳ-kheo, các Thầy ở trong
pháp của Ta xuất gia tu đạo, thì nên phát khởi lòng từ bi, thương xót
chúng sanh.”
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Thuở xa xưa, khi chư Thiên cùng A-tu-luân đánh nhau. Bấy giờ chư
Thiên đắc thắng và A-tu-luân bại trận. Sau khi chiến thắng, Thiên Ðế
Thích trở về cung, xây dựng một ngôi nhà đặt tên là Tối thắng, Ðông Tây
dài một trăm do-tuần, Nam Bắc rộng sáu mươi do-tuần. Ngôi nhà này gồm
trăm gian, trong mỗi gian có bảy đài giao lộ. Trên mỗi đài có bảy ngọc
nữ; mỗi ngọc nữ có bảy người để sai. Thích Ðề-hoàn Nhân cũng không lo
cung cấp các thứ trang điểm, áo chăn, đồ ăn thức uống; mà tất cả tùy
theo hành vi đã tạo từ trước, mỗi người tự thọ lãnh phước báo ấy. Do
chiến thắng A-tu-luân, nên nhân đây lòng sinh vui mừng mà xây dựng ngôi
nhà này, cho nên gọi là Tối thắng đường. Lại nữa, những ngôi nhà có được
trong ngàn thế giới xem ra không có ngôi nhà nào bằng ngôi nhà này, cho
nên
gọi là Tối thắng.”
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Thuở xa xưa, A-tu-luân tự nghĩ rằng: Ta có oai đức lớn, thần lực
không phải ít, nhưng Ðao-lợi thiên, mặt trời, mặt trăng, chư Thiên
thường ở nơi hư không, du hành tự tại trên đỉnh đầu ta. Nay ta hãy lấy
mặt trời, mặt trăng này làm ngọc đeo tai, thử chúng có còn du hành tự
tại được không?
“Rồi, vua A-tu-luân nổi lòng sân hận cực độ, liền nghĩ đến A-tu-luân
Chùy Ðỏa ; A-tu-luân Chùy Ðỏa lại nghĩ rằng: Hiện nay, vua A-tu-luân đã
nghĩ đến ta, chúng ta nên nhanh chóng trang bị. Liền ra lệnh tả hữu
chuẩn bị binh khí đầy đủ, cưỡi cỗ xe báu, cùng với vô số chúng A-tu-luân
theo dẫn đường trước sau, đến trước vua A-tu-luân, đứng một bên.
“Bấy giờ, vua lại nghĩ đến A-tu-luân Xá-ma-lê. A-tu-luân Xá-ma-lê lại
tự nghĩ rằng: Hiện nay, vua đã nghĩ đến ta, chúng ta nên nhanh chóng
trang bị. Liền ra lệnh tả hữu chuẩn bị binh khí đầy đủ, cưỡi cỗ xe báu,
cùng với vô số chúng A-tu-luân theo dẫn đường trước sau, đến trước chỗ
vua A-tu-luân, đứng một bên.
“Bấy giờ, vua lại nghĩ đến Tỳ-ma-chất-đa A-tu-luân. Tỳ-ma-chất-đa
A-tu-luân lại tự nghĩ rằng: Hiện nay, vua đang nghĩ đến ta, chúng ta nên
nhanh chóng trang bị. Liền ra lệnh tả hữu chuẩn bị binh khí đầy đủ,
cưỡi cỗ xe báu, cùng với vô số chúng A-tu-luân theo dẫn đường trước sau,
đến trước chỗ vua A-tu-luân, đứng một bên.
“Bấy giờ, vua lại nghĩ đến Ðại thần A-tu-luân; Ðại thần A-tu-luân lại
tự nghĩ rằng: Hiện nay, vua đang nghĩ đến ta. Chúng ta nên nhanh chóng
trang bị. Liền ra lệnh tả hữu chuẩn bị binh khí đầy đủ, cưỡi cỗ xe báu,
cùng với vô số chúng A-tu-luân theo dẫn đường trước sau, đến trước vua
A-tu-luân, đứng một bên.
“Bấy giờ, vua lại nghĩ đến các Tiểu A-tu-luân. Các Tiểu A-tu-luân lại
tự nghĩ rằng: Hiện nay, vua đang nghĩ đến ta. Chúng ta nên nhanh chóng
trang bị. Liền ra lệnh tả hữu chuẩn bị binh khí đầy đủ, cưỡi cỗ xe báu,
cùng với vô số chúng A-tu-luân theo dẫn đường trước sau, đến trước vua
A-tu-luân, đứng một bên.
“Bấy giờ, vua A-tu-luân là La-ha liền tự mình trang bị, mình mặc áo
giáp đồng báu, đóng ngựa vào các cỗ xe báu, cùng với vô số trăm ngàn
chúng A-tu-luân và binh khí trang bị, vây quanh trước sau, ra khỏi chỗ ở
của chúng, muốn đến đánh nhau cùng chư Thiên.
“Bấy giờ, Nan-đà Long vương và Bạt-nan-đà Long vương dùng thân mình
quấn quanh núi Tu-di bảy vòng làm chấn động cả sơn cốc, trải một lớp
mỏng mây mờ, lơ thơ từng giọt mưa rơi và dùng đuôi đập vào nước biển làm
cho nước biển dậy sóng, dâng đến đỉnh núi Tu-di. Lúc bấy giờ, Ðao-lợi
thiên liền tự nghĩ: Nay, mây mờ giăng mỏng, lơ thơ từng giọt mưa rơi,
nước biển dậy sóng, lên đến tận nơi này, chắc thế nào A-tu-luân cũng
muốn đến đây gây chiến, nên có những điềm lạ này chăng!
“Lúc này, nhiều vô số ức vạn binh chúng các loài rồng trong biển, đều
cầm giáo mác, cung tên, đao kiếm, áo giáp đồng dày và trang bị binh khí
tề chỉnh, đối đầu cùng quân binh A-tu-luân chiến đấu. Khi binh chúng
các loài rồng mà thắng, thì lập tức đuổi A-tu-luân vào trong cung điện
của chúng. Nếu các loài rồng mà bị bại, thì các loài rồng không trở lại
cung điện, mà sẽ chạy đến chỗ quỷ thần Già-lâu-la báo cáo rằng: Chúng
A-tu-luân muốn đánh nhau với chư Thiên. Chúng tôi đã đón đánh, nhưng
hiện chúng đang đắc thắng. Các ngươi nên chuẩn bị các thứ binh khí, binh
chúng cùng sức mạnh, để chiến đấu cùng với chúng. Sau khi các quỷ thần
nghe xong, liền tự trang bị, chuẩn bị các đồ binh khí, áo giáp đồng dày,
cùng các loài rồng hợp tác chiến đấu chống lại A-tu-luân. Nếu
mà thắng, thì lập tức đuổi A-tu-luân vào trong cung điện của chúng. Nếu
mà bị bại, thì không trở lại cung điện, mà sẽ chạy lui đến chỗ quỷ thần
Trì Hoa báo cáo rằng: Chúng A-tu-luân muốn chiến đấu cùng chư Thiên.
Chúng tôi đã đón đánh. Nhưng hiện chúng đang thắng. Các ngươi nên chuẩn
bị các thứ binh khí, binh chúng cùng sức mạnh, để đánh nhau với chúng.
“Sau khi các quỷ thần Trì Hoa nghe các loài rồng nói rồi, liền tự
trang bị, chuẩn bị các đồ binh khí, áo giáp đồng dày, binh chúng cùng
sức mạnh, cùng chiến đấu lại A-tu-luân. Nếu mà thắng, thì lập tức đuổi
A-tu-luân vào trong cung điện của chúng. Nếu mà bị bại, thì không trở
lại cung điện, mà sẽ chạy đến chỗ quỷ thần Thường Lạc báo cáo rằng:
Chúng A-tu-luân muốn đánh nhau cùng chư Thiên. Chúng tôi đã đón đánh.
Nhưng hiện chúng đang thắng. Các ngươi nên chuẩn bị các thứ binh khí,
cùng sức mạnh, để đánh nhau với chúng.
“Sau khi các quỷ thần Thường Lạc nghe nói rồi, liền tự trang bị,
chuẩn bị các đồ binh khí, áo giáp đồng dày, binh chúng cùng sức mạnh,
cùng chiến đấu lại A-tu-luân. Nếu mà thắng, thì lập tức đuổi A-tu-luân
vào trong cung điện của chúng. Nếu mà bị bại, thì không trở lại cung
điện, mà sẽ chạy đến Tứ thiên vương báo cáo rằng: Chúng A-tu-luân muốn
chiến đấu cùng chư Thiên. Chúng tôi đã đón đánh. Nhưng hiện chúng đang
thắng. Các ngài nên chuẩn bị các thứ binh khí, binh chúng cùng sức mạnh,
để đánh nhau với chúng.
“Sau khi Tứ thiên vương nghe những lời này rồi, liền tự trang bị,
chuẩn bị các đồ binh khí, áo giáp đồng dày, binh chúng cùng sức mạnh,
cùng chiến đấu lại A-tu-luân. Nếu mà thắng, thì lập tức đuổi A-tu-luân
vào trong cung điện của chúng. Nếu không thì Tứ thiên vương sẽ đến giảng
đường Thiện pháp, tâu Thiên Ðế Thích và chư Thiên Ðao-lợi rằng: Chúng
A-tu-luân muốn chiến đấu cùng chư Thiên. Nay chư Thiên Ðao-lợi hãy tự
trang bị, chuẩn bị binh khí, binh chúng cùng sức mạnh, để đi đánh nhau
với chúng.
“Bấy giờ, Thiên Ðế Thích ra lệnh cho người hầu rằng: Ngươi đem lời
nói của ta đến báo lại cho Diệm-ma thiên, Ðâu-suất thiên, Hóa tự tại
thiên, Tha hóa tự tại thiên rằng: A-tu-luân cùng vô số chúng muốn đến
chiến đấu. Nay chư Thiên nên tự trang bị, chuẩn bị các đồ binh khí để hỗ
trợ ta chiến đấu.
“Bấy giờ, người hầu này vâng lệnh của Ðế Thích, liền đến Diệm-ma
thiên. cho đến Tha hóa tự tại thiên, đem những lời của Ðế Thích mà báo
cáo rằng: A-tu-luân cùng vô số chúng muốn đến chiến đấu. Nay chư Thiên
nên tự trang bị, chuẩn bị binh khí để hỗ trợ ta chiến đấu.
“Sau khi Diệm-ma thiên nghe những lời này rồi, liền tự trang bị,
chuẩn bị các đồ binh khí, áo giáp đồng dày, đóng xe báu vào ngựa, cùng
vô số trăm ngàn Thiên chúng trước sau vây quanh, đóng binh tại phía Ðông
của núi Tu-di. Sau khi thiên tử Ðâu-suất nghe những lời này rồi, cũng
liền tự trang bị, chuẩn bị các đồ binh khí, áo giáp đồng dày, đóng xe
báu vào ngựa, cùng vô số trăm ngàn Thiên chúng, đóng binh tại phía Nam
của núi Tu-di. Sau khi thiên tử Hóa tự tại thiên nghe những lời này rồi,
cũng trang bị binh chúng, đóng binh tại phía tTây của núi Tu-di. Sau
khi thiên tử Tha hóa tự tại thiên nghe những lời này rồi, cũng trang bị
binh chúng, đóng binh tại phía Bắc của núi Tu-di.
“Khi Thiên Ðế Thích nghĩ đến ba mươi ba vị Thiên thần của Ðao-lợi
thiên, thì ba mươi ba vị Thiên thần của Ðao-lợi thiên tự nghĩ rằng: Hiện
tại Thiên Ðế Thích đang nghĩ đến ta. Vậy chúng ta nên nhanh chóng trang
bị. Liền ra lệnh tả hữu chuẩn bị các đồ binh khí, cưỡi cỗ xe báu, cùng
vô số chúng chư Thiên trước sau vây quanh, đến trước Thiên Ðế Thích,
đứng một bên.
“Khi Thiên Ðế Thích nghĩ đến các Thiên thần khác của Ðao-lợi, thì các
Thiên thần khác của Ðao-lợi liền tự nghĩ rằng: Hiện tại Ðế Thích đang
nghĩ đến ta. Vậy chúng ta nên nhanh chóng trang bị. Liền ra lệnh tả hữu
chuẩn bị các đồ binh khí, đóng xe báu vào ngựa, cùng vô số chúng chư
Thiên trước sau vây quanh, đến trước Ðế Thích, đứng một bên.
“Khi Thiên Ðế Thích nghĩ đến quỷ thần Diệu Tượng, thì quỷ thần Diệu
Tượng liền tự nghĩ rằng: Hiện tại Ðế Thích đã nghĩ đến ta. Vậy chúng ta
nên nhanh chóng trang bị. Liền ra lệnh tả hữu chuẩn bị các đồ binh khí,
đóng xe báu vào ngựa, cùng vô số Thiên chúng trước sau vây quanh, đến
đứng trước Ðế Thích.
“Khi Ðế Thích nghĩ đến Long vương Thiện Trụ, thì Long vương Thiện Trụ
tự nghĩ rằng: Nay Thiên Ðế Thích nghĩ đến ta, nay ta nên đến. Long
vương Thiện Trụ liền đi đến đứng trước Ðế Thích.
“Lúc này, Ðế Thích liền tự trang bị, chuẩn bị các đồ binh khí, mình
mặc áo giáp đồng báu, cưỡi trên đỉnh đầu Long vương Thiện Trụ, cùng vô
số chư Thiên, quỷ thần trước sau vây quanh, tự ra khỏi thiên cung, đánh
nhau với A- tu- luân. Ðồ vật trang bị như các thứ binh khí, đao kiếm,
giáo, mác, cung tên, rìu, đục, búa lớn, búa nhỏ, bánh xe quay, dây tơ
cột, binh khí, áo giáp đồng, tất cả đều dùng bảy báu để tạo thành. Lại
dùng mũi nhọn đâm thêm vào người A- tu- luân, nhưng thân ông ta vẫn
không bị thương tổn, chỉ chạm vào bên ngoài khi đâm mà thôi. Chúng
A-tu-luân tay cũng cầm đao kiếm bảy báu, giáo mác, cung tên, rìu đục,
búa lớn, búa nhỏ, bánh xe quay, dây cột bằng tơ và dùng mũi nhọn đâm
thêm vào thân chư Thiên, nhưng cũng chỉ chạm đến bên ngoài mà thôi,
không gây bất
cứ thương tổn nào.
“Như vậy, dục khiến chư Thiên cùng A-tu-luân đánh nhau; do bởi nhân là dục như vậy.”
PHẨM 11: BA TRUNG KIẾP
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Có ba trung kiếp. Những gì là ba? Một là kiếp đao binh. Hai là kiếp đói kém. Ba là kiếp tật dịch.
“Thế nào là kiếp đao binh?
“Người thế gian này vốn thọ bốn vạn tuổi. Sau đó giảm xuống, thọ hai
vạn tuổi. Sau đó lại giảm nữa, thọ một vạn tuổi. Lần lượt giảm, thọ một
ngàn năm, năm trăm năm, ba trăm năm, hai trăm năm. Như nay con người thọ
một trăm tuổi, với số ít vượt quá, mà phần nhiều là dưới. Sau đó, tuổi
thọ con người giảm dần xuống còn mười tuổi. Khi đó, người nữ sinh ra
chừng năm tháng là đi lấy chồng. Bấy giờ, các loại mỹ vị có được trong
thế gian như bơ sữa, mật, đường thẻ, đường đen, những gì có vị ngon, tự
nhiên biến mất; ngũ cốc không sinh sản, chỉ còn có loại lúa hoang mà
thôi. Lúc này, các loại y phục cao cấp như gấm vóc, lụa là, kiếp-bối,
sô-ma, tất cả đều không còn nữa, mà chỉ còn có loại vải dệt thô sơ bằng
cỏ. Bấy giờ, mặt đất này hoàn toàn chỉ sinh gai góc, muỗi mòng,
ong, bọ cạp, rắn, rết, trùng độc; còn vàng bạc, lưu ly, bảy báu, châu
ngọc, tự nhiên chúng bị vùi vào đất hết và chỉ có đá, cát, các thứ xấu
xí là dẫy đầy. Lúc này chúng sanh chỉ làm mười điều ác càng ngày càng
tăng, không còn nghe đến danh từ mười điều thiện, cho đến không có cả
danh từ thiện, huống chi là có người làm việc thiện? Bấy giờ, trong loài
người ai không có hiếu với cha mẹ, không kính trọng sư trưởng, hay làm
việc ác thì được cúng dường, được mọi người cung kính hầu hạ. Cũng như
người nay ai hiếu thuận mẹ cha, kính trọng sư trưởng, thường làm việc
lành, thì được cúng dường, được mọi người cung kính hầu hạ, thì người
làm việc ác kia lại cũng được cúng dường như vậy. Bây giờ, con người
thân hoại mạng chung bị đọa vào trong súc sanh, cũng như con người hiện
tại
được sinh lên cõi trời. Lúc đó con người gặp nhau thường ôm lòng độc
hại, chỉ muốn giết nhau; cũng giống như thợ săn gặp được đàn nai, chỉ
muốn giết chúng, không có bất cứ một ý nghĩ thiện nào; con người lúc đó
cũng như vậy, chỉ muốn giết nhau, không có một chút ý nghĩ thiện nào.
Bấy giờ, mặt đất này chỉ là sông ngòi, khe suối, núi đồi, đất đống,
không có chỗ đất nào bằng phẳng cả. Khi có người đi đến, tức thì kinh
sợ, run rẩy, lông tóc dựng đứng.
“Bấy giờ, trong vòng bảy ngày có sự nổi lên của kiếp đao kiếm. Lúc
ấy, những thứ cỏ, cây, ngói, đá mà con người cầm trong tay đều biến
thành đao kiếm; những thứ đao kiếm này rất bén nhọn, đụng đến vật gì thì
vật đó đều sẽ bị cắt đứt. Chúng sát hại lẫn nhau. Trong lúc này có
người có trí tuệ thấy đao binh sát hại nhau nên hoảng sợ tránh vào núi
rừng, hang động, khe suối, những chỗ không người. Trốn tránh trong vòng
bảy ngày, tâm nghĩ miệng tự nói: Ta không hại người, người chớ hại ta.
Trong vòng bảy ngày người này chỉ ăn rễ cây cỏ để tự nuôi sống mình. Qua
bảy ngày, sau đó mới lại ra khỏi rừng núi. Lúc này, gặp được một người,
vui mừng nói rằng: Nay gặp được người còn sống! Nay gặp được người còn
sống! Cũng giống như cha mẹ vì gặp lại một người con bị thất lạc lâu
ngày không thấy nhau, nên vui mừng nhảy nhót mà không thể tự kiềm chế
chính mình được, thì sự kiện người này cũng như vậy, vì sự vui mừng nên
nhảy nhót mà không thể tự kiềm chế được cảm xúc vui nơi chính mình. Khi
ấy thì người dân trong vòng bảy ngày chỉ có khóc lóc mà thôi; cũng trong
vòng bảy ngày này họ lại cùng gặp vui nên vui vẻ chúc mừng nhau. Người
lúc bấy giờ khi thân hoại mạng chung đều đọa vào địa ngục. Vì sao? Vì
con người ấy luôn luôn ôm lòng sân hận và phẫn nộ, họ chỉ có một tâm hại
nhau mà thôi, vì không có tâm nhân từ nên gọi là kiếp đao binh.”
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Thế nào gọi là kiếp đói kém? Con người bấy giờ phần nhiều làm những
việc phi pháp, tà kiến điên đảo, làm mười nghiệp ác. Vì làm mười nghiệp
ác nên trời không mưa xuống, làm cho trăm thứ cỏ cây chết khô, ngũ cốc
không thành, mà chỉ có gốc rạ mà thôi.
“Thế nào gọi là đói kém? Vì lúc bấy giờ, người dân phải thu quét
những hạt thóc còn rơi rớt lại các nơi như ruộng vườn, đường sá, đầu ngõ
và trong phân đất để tự sống còn, nên mới gọi là đói kém.
“Lại nữa, lúc đói kém, người bấy giờ lượm nhặt xương cốt từ những nơi
như lò sát sanh, chợ búa, các đường sá và các bãi tha ma, rồi nấu nước
trấp mà uống, nhờ vậy mà họ sống, nên gọi là đói xương trắng.
Lại nữa, vào kiếp đói kém, ngũ cốc được gieo trồng đều biến thành cỏ
cây. Con người lúc này lấy bông nấu nước trấp để uống. Lại nữa, vào thời
đói kém, bông của các loài cây cỏ rụng phủ kín cả mặt đất, lúc ấy mọi
người phải đào đất lấy bông để nấu ăn, nhờ vậy mà tự tồn tại, nên gọi là
đói cây cỏ. Bấy giờ, chúng sanh thân hoại mạng chung đọa vào trong ngạ
quỷ. Sao vậy? Vì những người sống trong kiếp đói kém này, thường ôm lòng
tham lam keo bẩn, không có lòng bố thí nhân ái, không chịu chia xẻ cùng
người và không nhớ nghĩ đến những tai ách của người khác.
“Ðấy là kiếp đói kém.”
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Thế nào là kiếp tật dịch? Người đời bấy giờ, tu hành chánh pháp,
chánh kiến không điên đảo, đầy đủ thập thiện hành. Có quỷ thần thế giới
phương khác đến, mà quỷ thần ở đây thì buông lung dâm loạn, không thể hộ
vệ con người được. Quỷ thần thế giới khác xâm lấn, nhiễu loạn con người
thế gian này, họ dùng tay đánh đập, dùng gậy quật ngã, rồi hút lấy tinh
khí, khiến cho tâm người loạn lên, rồi cưỡng bức mang đi. Giống như
quốc vương ra lệnh cho các tướng soái những thứ phải bảo vệ, nhưng giặc
cướp ở phương khác đến xâm phạm quấy nhiễu, mà các tướng soái ở đây lại
buông lung, nên nước nhà bị chúng cướp mất. Ở đây cũng vậy, những quỷ
thần ở thế giới khác đến bắt giữ mọi người ở thế gian này, chúng đánh
đập, quật ngã, rồi hút lấy tinh khí mọi người và cưỡng bức mang đi.”
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Giả sử quỷ thần ở thế gian này dù không buông lung dâm loạn, nhưng
khi quỷ thần có sức mạnh lớn ở thế giới khác đến, thì quỷ thần ở thế
gian này cũng phải sợ hãi mà đi trốn. Các đại quỷ thần kia bèn xâm lấn,
quấy nhiễu người ở đây, đánh đập, quật ngã, hút lấy tinh khí, giết chết
rồi bỏ đi. Giống như quốc vương, hay đại thần của quốc vương sai khiến
các tướng soái bảo vệệ nhơn dân; tuy tất cả các tướng lãnh này đều trong
sạch thận trọng, không buông lung, nhưng khi các tướng soái mạnh bạo,
có binh lính đông đảo kia lại đến khuấy phá thành ấp, làng xóm, mà cướp
đoạt người vật. Thì ở đây lại cũng như vậy, nếu quỷ thần ở thế gian này
dù không dám buông lung đi nữa, nhưng khi các quỷ thần có sức mạnh lớn ở
thế giới khác đến, thì các quỷ thần thế gian này cũng sẽ sợ
hãi tránh đi và những hàng quỷ thần lớn mạnh kia sẽ xâm đoạt, nhiễu hại
người thế gian này; đánh đập, quật ngã, hút lấy tinh khí và giết hại mọi
người rồi bỏ đi.
“Khi ấy, người dân trong kiếp tật dịch, sau khi thân hoại mạng chung
đều sinh lên cõi trời. Vì sao? Vì con người lúc ấy đều hướng tâm từ bi
đến nhau, thăm hỏi nhau: “Bệnh tật của bạn có giảm không? Thân thể có
được an ổn không? Vì những nhân duyên này, nên họ được sinh lên cõi
trời. Cho nên gọi là kiếp tật dịch.
“Ðó là ba trung kiếp.”
PHẨM 12: THẾ BỔN DUYÊN
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Sau khi qua khỏi hỏa tai, khi trời đất của thế gian này sắp sửa
thành tựu trở lại, một số chúng sanh khác phước hết, hành hết, mạng hết,
mạng chung ở cõi trời Quang âm thiên, sinh vào cung điện Phạm thiên
trống không, rồi sinh tâm đắm nhiễm chỗ đó, yêu thích chỗ đó, nên nguyện
cho chúng sanh khác cũng sinh vào nơi này. Sau khi phát sanh ý nghĩ này
rồi, thì những chúng sanh khác phước hết, hành hết, mạng hết, từ cõi
trời Quang âm thiên, sau khi thân hoại mạng chung, sinh vào cung điện
Phạm thiên trống không. Bấy giờ, vị Phạm thiên sinh ra trước liền tự
nghĩ rằng: Ta là Phạm vương, là Ðại Phạm thiên vương, không có ai sáng
tạo ra ta, ta tự nhiên mà có, không bẩm thọ cái gì từ ai hết; ở trong
một ngàn thế giới ta hoàn toàn tự tại, thông rõ các nghĩa
lý, giàu có sung mãn, có khả năng tạo hóa vạn vật; ta là cha mẹ của tất
cả chúng sanh.
“Các Phạm thiên sanh sau lại tự nghĩ rằng: Vị Phạm thiên sanh trước
kia là Phạm vương, là Ðại Phạm thiên vương. Vị ấy tự nhiên mà có,
không do ai có sáng tạo; là đấng Tối tôn ở trong một ngàn thế giới,
không bẩm thọ từ ai cái gì, thông rõ các nghĩa lý, giàu có sung mãn, có
khả năng sáng tạo vạn vật, là cha mẹ của tất cả chúng sanh. Ta từ vị ấy
mà có.
“Nhan sắc dung mạo của vị Phạm thiên vương này thường như đồng tử, cho nên Phạm vương được gọi là Ðồng tử.
“Hoặc có lúc, khi thế giới này chuyển thành trở lại, phần lớn chúng
sanh có kẻ sinh về Quang âm thiên, bằng hóa sinh tự nhiên, sống bằng
thức ăn là sự hoan hỷ, mình phát ra ánh sáng, có thần túc bay trong hư
không, an vui không ngại, mạng sống lâu dài. Sau đó thế gian này biến
thành đại hồng thủy, tràn ngập khắp nơi. Vào lúc bấy giờ thiên hạ hoàn
toàn tối tăm, không có mặt trời, mặt trăng, tinh tú, ngày đêm và cũng
không có năm tháng hay con số bốn mùa. Sau đó, khi thế gian này bắt đầu
sắp chuyển biến, một số chúng sanh khác phước hết, hành hết, mạng hết,
từ cõi Quang âm thiên sau khi mạng chung sinh đến thế gian này, bằng hóa
sinh và ăn bằng sự hoan hỷ, tự thân phát sáng, có thần túc bay trong hư
không, an vui không ngại, sống lâu dài ở đây. Khi ấy, không có nam nữ,
tôn ty, trên dưới, cũng không có những tên khác nhau. Các chúng cùng
sinh ở thế gian này, cho nên gọi là chúng sanh.
“Bấy giờ, đất này tự nhiên phát sinh ra vị đất, ngưng tụ trong đất.
Cũng như đề hồ, vị đất khi xuất hiện cũng như vậy; giống như sanh tô, vị
ngọt như mật. Sau đó chúng sanh dùng tay nếm thử để biết vị ra sao. Vừa
mới nếm, liền có cảm giác ngon, nên sanh ra mê đắm vị ấy. Như vậy, lần
lượt nếm mãi không thôi nên sanh ra tham đắm, bèn lấy bàn tay mà vốc,
dần thành thói ăn bốc. Ăn bốc mãi như thế, những chúng sanh khác thấy
vậy lại bắt chước ăn và cách ăn này không bao giờ chấm dứt. Khi ấy,
những chúng sanh này thân thể trở nên thô kệch, ánh sáng mất dần, không
còn có thần túc, không thể bay đi. Bấy giờ, chưa có mặt trời mặt trăng.
Ánh sáng của chúng sanh biến mất. Khi ấy, trời đất hoàn toàn tối om,
không khác như trước. Một thời gian lâu, rất lâu về sau, có một trận
cuồng phong mạnh nổi lên thổi nước biển lớn, sâu tám vạn bốn ngàn
do-tuần, khiến cho biển bị tách làm hai, mang cung điện mặt trời đặt ở
lưng núi Tu-di, an trí quỹ đạo mặt trời, mọc ở phương Ðông và lặn ở
phương Tây, đi quanh khắp thiên hạ.
“Nhật cung điện thứ hai mọc từ phương Ðông, lặn phương Tây. Chúng
sanh khi ấy nói: Ðấy là ngày hôm qua hoặc nói: Không phải ngày hôm qua.
“Nhật cung điện thứ ba đi quanh núi Tu-di, mọc ở phương Ðông, lặn ở
phương Tây. Chúng sanh khi ấy bảo rằng: Nhất định là một ngày. Ngày, có
nghĩa là nhân của ánh sáng đi trước, do đó gọi là ngày. Mặt trời có hai
nghĩa: một, trụ thường độ ; hai, cung điện . Nhìn xa từ bốn hướng, cung
điện có hình tròn. Nóng lạnh dễ chịu, được tạo thành bởi vàng của trời;
được xen bằng pha lê. Hai phần là vàng trời, thuần chân không pha tạp;
trong suốt từ trong ra ngoài, ánh sáng rọi xa. Một phần là pha lê, thuần
chân không tạp, trong suốt từ trong ra ngoài, ánh sáng rọi xa.
“Nhật cung điện rộng năm mươi mốt do-tuần. Ðất và vách tường của cung điện mỏng như bẹ lau.
“Tường cung điện có bảy lớp, với bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy
lớp chuông báu, bảy lớp hàng cây, các trang trí chung quanh đều được làm
bằng bảy báu. Tường bằng vàng thì cửa bằng bạc, tường bạc thì cửa vàng;
tường lưu ly thì cửa thủy tinh, tường thủy tinh thì cửa lưu ly; tường
ngọc đỏ thì cửa mã não, tường mã não thì cửa ngọc đỏ; tường xa cừ thì
cửa bằng các thứ báu, tường bằng các thứ báu thì cửa xa cừ. Lại nữa, các
lan can kia, nếu thanh ngang bằng vàng thì cọc bằng bạc, thanh ngang
bạc thì cọc vàng; thanh ngang lưu ly thì cọc thủy tinh, thanh ngang thủy
tinh thì cọc lưu ly; thanh ngang ngọc đỏ thì cọc mã não, thanh ngang mã
não thì cọc ngọc đỏ; thanh ngang bằng các loại báu thì cọc bằng xa cừ,
thanh ngang xa cừ thì cọc là các loại báu. Lưới vàng thì linh bạc,
lưới bạc thì linh vàng; lưới thủy tinh thì linh lưu ly, lưới lưu ly thì
linh thủy tinh; lưới ngọc đỏ thì linh mã não, lưới mã não thì linh ngọc
đỏ; lưới xa cừ thì linh bằng các loại báu, lưới bằng các loại báu thì
linh xa cừ. Những cây bằng vàng này thì lá, hoa quả bạc; cây bằng bạc
thì lá, hoa quả vàng; cây bằng lưu ly thì hoa quả thủy tinh, cây thủy
tinh thì hoa quả lưu ly; cây bằng ngọc đỏ thì hoa quả mã não, cây mã não
thì hoa quả ngọc đỏ; cây bằng xa cừ thì hoa quả các loại báu, cây là
các loại báu thì hoa quả là xa cừ. Tường của cung điện có bốn cửa, cửa
của nó có bảy bậc thềm, bao quanh bằng lan can; có lầu các đền đài, ao
tắm, vườn rừng đều theo thứ lớp đối nhau, sanh các loại hoa báu, hàng
nào hàng nấy đều xứng nhau; có nhiều loại cây ăn trái, hoa lá nhiều màu
sắc, hương thơm ngạt ngào của cây cỏ lan tỏa xa khắp bốn phương, cùng
các loài chim ríu rít hòa vang.
“Nhật cung điện kia, được duy trì bởi năm loại gió. Một là trì phong,
hai là dưỡng phong, ba là thọ phong, bốn là chuyển phong, năm là điều
phong. Ðiện chính, nơi Nhật thiên tử ngự, hoàn toàn được xây dựng bằng
vàng ròng, cao mười sáu do-tuần. Ðiện có bốn cửa, đều có lan can bao
quanh. Tòa của Nhật thiên tử rộng nửa do-tuần, làm bằng bảy báu, trong
sạch mềm mại, giống như thiên y. Nhật thiên tử tự thân phóng ra ánh sáng
chiếu điện vàng; ánh sáng điện vàng chiếu khắp nhật cung; ánh sáng của
nhật cung lại chiếu ra khắp bốn phương thiên hạ. Tuổi thọ của Nhật thiên
tử năm trăm năm nhà trời; con cháu đều kế thừa nhau không bao giờ gián
đoạn. Cung điện này không bao giờ bị hoại diệt, trong vòng thời gian là
một kiếp. Khi cung điện mặt trời di chuyển, thì Nhật thiên tử
không có ý di chuyển rằng: Ta đi. Ta dừng. Mà chỉ luôn luôn hưởng thụ
ngũ dục. Lúc mà cung điện mặt trời vận hành thì vô số trăm ngàn chư
Thiên, Thiên thần đi theo dẫn đường trước, hoan hỷ không mệt mỏi, thích
đi nhanh nhẹn, vì vậy Nhật thiên tử được gọi là Nhanh nhẹn.
“Thân Nhật thiên tử phát ra ngàn tia sáng; năm trăm tia sáng chiếu
xuống và năm trăm tia sáng chiếu chung quanh, đó là vì công đức của
nghiệp đời trước nên có ngàn tia sáng này. Thế nên Nhật thiên tử còn gọi
là Thiên Quang. Thế nào là công đức của nghiệp đời trước? Hoặc có một
người phát tâm cúng dường Sa-môn, Bà-la-môn, cùng cứu giúp những người
đói khát cùng khốn, cho họ đồ ăn thức uống, y phục, thuốc thang, voi
ngựa, xe cộ, phòng xá, đèn đuốc, tùy thời ban phát, tùy theo nhu cầu,
không trái ý người và cúng dường cho các vị Hiền thánh trì giới. Do bởi
nhân duyên vô số pháp hỷ quang minh khác nhau kia, mà thiện hoan hỷ. Như
vua Quán đảnh dòng Sát-lỵ lúc bắt đầu lên ngôi, thiện tâm hoan hỷ cũng
lại như vậy. Do nhân duyên này, thân hoại mạng chung làm Nhật thiên tử,
được Nhật cung điện, có ngàn tia sáng, cho nên nói là nghiệp lành được
ngàn tia sáng.
“Lại nữa, do duyên gì mà gọi là ánh sáng của nghiệp đời trước? Hoặc
có người không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không hai lưỡi,
không ác khẩu, không nói dối, không thêu dệt, không tham giữ, không sân
nhuế, không tà kiến, vì những nhân duyên này mà tâm lành hoan hỷ. Giống
như đầu ngã tư đường có hồ tắm lớn trong mát không nhơ, có người đi xa,
mệt mỏi nóng khát, lại vào trong hồ nước này tắm rửa cho mát mẻ rồi cảm
thấy vui mừng yêu thích; thì người thực hành mười điều lành, tâm lành
vui mừng của họ lại cũng như vậy. Thân người này sau khi thân hoại mạng
chung, làm Nhật thiên tử, sống ở Nhật cung điện, có ngàn tia sáng, vì
nhân duyên này cho nên gọi là ánh sáng nghiệp lành.
“Lại nữa, vì duyên gì gọi là ngàn tia sáng? Hoặc có người không sát
sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không dối, không uống rượu; do những
nhân duyên này, mà thiện tâm hoan hỷ; thân hoại mạng chung, làm Nhật
thiên tử, sống ở Nhật cung điện, có ngàn tia sáng. Do những nhân duyên
như vậy nên gọi là ngàn tia sáng nghiệp lành.
“Trong sáu mươi niệm khoảnh gọi là một la-da, ba mươi la-da gọi là
ma-hầu-đa, trăm ma-hầu-đa gọi là ưu-ba-ma. Nhật cung điện mỗi năm có sáu
tháng đi theo hướng Nam, mỗi ngày di chuyển ba mươi dặm; cực Nam không
vượt qua khỏi Diêm-phù-đề. Mặt trời di chuyển về hướng Bắc, cũng vậy.
“Vì duyên gì nên ánh sánh mặt trời nóng bức? Có mười nhân duyên. Những gì là mười?
“1. Ngoài núi Tu-di có núi Khư-đà-la cao bốn vạn hai ngàn do-tuần,
rộng bốn vạn hai ngàn do-tuần, biên núi không ước lượng được; núi được
tạo thành bởi bảy báu. Khi ánh sáng mặt trời chiếu đến núi, xúc chạm mà
phát sinh ra nhiệt. Ðây là duyên thứ nhất ánh sáng mặt trời nóng bức.
“2. Bên ngoài núi Khư-đà-la có núi Y-sa-đà cao hai vạn một ngàn
do-tuần, rộng cũng hai vạn một ngàn do-tuần, chu vi là vô lượng, tạo
thành bởi bảy báu, khi ánh sáng chiếu đến núi này, xúc chạm mà phát sinh
ra nhiệt. Ðó là duyên thứ hai ánh sáng mặt trời nóng bức.
“3. Bên ngoài núi Y-sa-đà có núi Thọ-đề-đà-la, bên trên cao một vạn
hai ngàn do-tuần, rộng một vạn hai ngàn do-tuần, chu vi là vô lượng, tạo
thành bởi bảy báu. Khi ánh sáng mặt trời chiếu đến núi này, xúc chạm mà
phát sinh ra nhiệt. Ðó là duyên thứ ba ánh sáng mặt trời nóng bức.
“4. Ở ngoài cách núi Thọ-đề-đa-la không xa có núi gọi là Thiện kiến,
cao sáu ngàn do-tuần, rộng sáu ngàn do-tuần, chu vi là vô lượng, núi
được hình thành bởi bảy báu, khi ánh sáng mặt trời chiếu đến sẽ phát
sinh ra nhiệt, đó là duyên thứ tư để ánh sáng mặt trời nóng bức.
“5. Ở ngoài núi Thiện kiến có núi Mã tự cao ba ngàn do-tuần, ngang
rộng cũng ba ngàn do-tuần, chu vi là vô lượng, núi được hình thành bởi
bảy báu, khi ánh sáng mặt trời chiếu đến sẽ phát sinh ra nhiệt, đó là
duyên thứ năm để ánh sáng mặt trời nóng bức.
“6. Ở ngoài cách núi Mã tự không xa có núi Ni-di-đà-la, cao một ngàn
hai trăm do-tuần, rộng một ngàn hai trăm do-tuần, chu vi thì vô lượng,
núi được hình thành bởi bảy báu, khi ánh sáng mặt trời chiếu đến sẽ phát
sinh ra nhiệt, đó là duyên thứ sáu để ánh sáng mặt trời nóng bức.
“7. Ở ngoài cách núi Ni-di-đà-la không xa có núi Ðiều phục, cao sáu
trăm do-tuần, rộng cũng sáu trăm do-tuần, chu vi thì vô lượng, núi được
hình thành bởi bảy báu, khi áng sáng mặt trời chiếu đến sẽ phát sinh ra
nhiệt. Ðó là duyên thứ bảy để ánh sáng mặt trời nóng bức.
“8. Ở ngoài núi Ðiều phục có núi Kim cương luân, cao ba trăm do-tuần,
rộng ba trăm do-tuần, chu vi thì vô lượng, tạo thành bởi bảy báu, khi
ánh sáng mặt trời chiếu đến sẽ phát ra nhiệt. Ðó là duyên thứ tám để ánh
sáng mặt trời nóng bức.
“9. Lại nữa, bên trên một vạn do-tuần có cung điện Trời gọi là Tinh
tú, tạo thành bởi lưu ly. Khi ánh sáng mặt trời chiếu vào nó, xúc chạm
mà phát sinh ra nhiệt. Ðó là duyên thứ chín để ánh sáng mặt trời nóng
bức.
“10. Lại nữa, ánh sáng cung điện mặt trời chiếu xuống đại địa, xúc chạm mà phát sinh ra nhiệt.
“Ðó là mười duyên thứ mười làm cho ánh sáng mặt trời nóng bức.”
Bấy giờ, Thế Tôn nói bài tụng:
- Do mười nhân duyên này,
- Mặt trời gọi Thiên quang;
- Ánh sáng phát nóng bức:
- Ðược nói mặt trời Phật.
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Tại sao cung điện mặt trời mùa đông thì lạnh để không thể ở gần
được? Có ánh sáng mà sao lạnh? Có mười ba duyên, tuy có ánh sáng nhưng
vẫn lạnh. Những gì là mười ba?
“1. Giữa hai núi Tu-di và Khư-đà-la có nước, rộng tám vạn bốn ngàn
do-tuần, chu vi thì vô lượng. Nước này sinh ra rất nhiều loại hoa khác
nhau như: hoa Ưu-bát-la, hoa Câu-vật-đầu, hoa Bát-đầu-ma, hoa
Phân-đà-lỵ, hoa Tu-kiền-đề; khi ánh sáng mặt trời chiếu xuống, xúc chạm
mà sinh ra lạnh. Ðó là duyên thứ nhất để ánh sáng mặt trời lạnh.
“2. Khoảng cách giữa hai núi Khư-đà-la và Y-sa-đà-la có nước, rộng
bốn vạn hai ngàn do-tuần, dọc ngang bốn vạn hai ngàn do-tuần, chu vi thì
vô lượng. Nước này sinh ra các loài hoa khác nhau. Khi ánh sáng chiếu
đến, xúc chạm mà sinh ra lạnh. Ðó là duyên thứ hai để ánh sáng mặt trời
lạnh.
“3. Giữa hai núi Y-sa-đà-la và Thọ-đề-đà-la có nước, rộng hai vạn một
ngàn do-tuần, chu vi thì vô lượng, sinh ra các loài hoa khác nhau. Khi
ánh sáng mặt trời chiếu xuống, xúc chạm mà sinh ra lạnh. Ðó là duyên thứ
ba ánh sáng mặt trời lạnh.
“4. Giữa hai núi Thiện kiến và núi Thọ-đề có nước, rộng hai ngàn
do-tuần, chu vi thì vô lượng, nơi này có nước, sinh ra các loài hoa khác
nhau; khi ánh sáng mặt trời chiếu xuống thì sinh ra lạnh, đó là duyên
thứ tư để ánh sáng mặt trời lạnh.
“5. Giữa hai núi Thiện kiến và núi Mã tự có nước, rộng sáu ngàn
do-tuần, sinh ra các loài hoa khác nhau; khi ánh sáng mặt trời chiếu
xuống thì sinh ra lạnh, đó là duyên thứ năm để ánh sáng mặt trời lạnh.
“6. Giữa hai núi Mã tự và núi Ni-di-đà-la có nước, rộng một ngàn hai
trăm do-tuần, chu vi thì vô lượng, sinh ra các loài hoa khác nhau; khi
ánh sáng mặt trời chiếu xuống thì sinh ra lạnh, đó là duyên thứ sáu để
ánh sáng mặt trời lạnh.
“7. Giữa hai núi Ni-di-đà-la và núi Ðiều phục rộng sáu trăm do-tuần,
chu vi thì vô lượng, sinh ra các loài hoa khác nhau; khi ánh sáng mặt
trời chiếu xuống thì sinh ra lạnh, đó là duyên thứ bảy để sinh ra ánh
sáng mặt trời lạnh.
“8. Giữa hai núi Ðiều phục và núi Kim cương luân có nước, rộng ba
trăm do-tuần, chu vi thì vô lượng, sinh ra các loài hoa khác nhau; khi
ánh sáng mặt trời chiếu xuống thì sinh ra lạnh, đó là duyên thứ tám để
ánh sáng mặt trời lạnh.
“9. Giữa núi Kim cang luân và đất Diêm-phù-đề có nước, khi ánh sáng
mặt trời chiếu xuống một lần chạm nhau thì sinh ra lạnh, đó là duyên thứ
chín để ánh sáng mặt trời lạnh.
“10. Ðất Diêm-phù-đề có sông ít, đất Câu-da-ni có nước nhiều. Khi ánh
sáng mặt trời chiếu xuống, xúc chạm mà sinh ra lạnh. Ðó là duyên thứ
mười để ánh sáng mặt trời lạnh.
“11. Sông ngòi của cõi Câu-da-ni thì ít, nước của cõi Phất-vu-đãi thì
nhiều; khi ánh sáng mặt trời chiếu xuống, xúc chạm mà sinh ra lạnh. Ðó
là duyên thứ mười một để ánh sáng mặt trời lạnh.
“12. Sông ngòi của Phất-vu-đãi thì ít, sông ngòi của Uất-đơn-viết thì
nhiều; khi ánh sáng mặt trời chiếu xuống, xúc chạm nhau thì sinh ra
lạnh, đó là duyên thứ mười hai để ánh sáng mặt trời lạnh.
“13. Ánh sáng của cung điện mặt trời chiếu xuống nước của biển cả,
thì khi ánh sáng mặt trời chiếu, xúc chạm mà sinh ra lạnh, đó là duyên
thứ mười ba để ánh sáng mặt trời lạnh.”
Bấy giờ, Phật nói bài tụng:
- Do mười ba duyên này.
- Mặt trời gọi Thiên quang
- Ánh sáng này lạnh trong:
- Ðược nói Mặt trời Phật.
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Cung điện mặt trăng, chất tròn khi đầy khi vơi, ánh sáng sút giảm,
cho nên nguyệt cung được gọi là Tổn. Mặt trăng có hai nghĩa: một là trụ
thường độ, hai gọi là cung điện. Do từ bốn phương xa mà nhìn, thấy là
tròn. Lạnh ấm điều hòa, được tạo thành bởi bạc trời và lưu ly. Hai phần
là thuần bạc trời ròng không pha tạp, trong suốt trong ngoài, ánh sánh
chiếu xa; một phần bằng lưu ly ròng không pha tạp, trong suốt trong
ngoài, ánh sáng chiếu xa. Cung điện mặt trăng, rộng bốn mươi chín
do-tuần, tường cung điện cùng đất mỏng như tử bách . Tường cung điện có
bảy lớp, với bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp linh báu, bảy lớp
hàng cây, trang sức chung quanh bằng bảy báu. cho đến, vô số các loài
chim ríu rít hòa vang.
“Cung điện mặt trăng này được năm thứ gió giữ gìn: một là trì phong,
hai là dưỡng phong, ba là thụ phong, bốn là chuyển phong, năm là điều
phong. Chánh điện, nơi ngự của Nguyệt thiên tử, làm bằng lưu ly, cao
mười sáu do-tuần. Ðiện có bốn cửa, chung quanh là lan can. Tòa của
Nguyệt thiên tử, rộng nửa do-tuần, được làm thành bởi bảy báu, trong
sạch và mềm mại, giống như thiên y. Nguyệt thiên tử trên thân phóng ra
ánh sáng, chiếu soi điện lưu ly; ánh sáng của điện lưu ly chiếu soi cung
điện mặt trăng và ánh sáng cung điện mặt trăng chiếu soi bốn cõi thiên
hạ. Tuổi thọ của Nguyệt thiên tử là năm trăm năm, con cháu thừa kế nhau
không hề khác. Cung điện này không bị hủy hoại trong vòng một kiếp. Lúc
cung điện mặt trăng di chuyển, Nguyệt thiên tử này không có ý niệm di
chuyển, rằng: Ta đi. Ta dừng. Mà chỉ luôn luôn hưởng thụ ngũ dục. Khi
cung điện mặt trăng di chuyển, thì có vô số trăm ngàn các Ðại Thiên
thần, thường ở trước dẫn đường, hoan hỷ không mệt mỏi, ưa thích nhanh
nhẹn, vì vậy nên Nguyệt thiên tử được gọi là Nhanh nhẹnnhẹn.
“Thân Nguyệt thiên tử phát ra ngàn tia sáng, năm trăm tia sáng chiếu
xuống và năm trăm tia sáng chiếu hai bên. Ðó là do công đức của nghiệp
đời trước nên có ánh sáng này, thế nên Nguyệt thiên tử còn gọi là Thiên
Quang . Thế nào là công đức nghiệp đời trước? Thế gian có một người phát
tâm cúng dường Sa-môn, Bà-la-môn, cùng bố thí cho những người đói khát
cùng cực, cho họ đồ ăn thức uống, y phục, thuốc thang, voi ngựa, xe cộ,
phòng xá, đèn đuốc, tùy thời ban phát, tùy theo nhu cầu, mà không trái ý
người và cúng dường cho các vị Hiền thánh trì giới. Do vô số pháp hỷ
khác nhau ấy, thiện tâm quang minh. Như vị vua Quán đảnh dòng Sát-lỵ,
khi mới đang vương vị, thiện tâm hoan hỷ, cũng lại như vậy. Vì nhân
duyên này, nên thân hoại mạng chung làm Nguyệt thiên tử, cung điện
mặt trăng có ngàn tia sáng, cho nên nói là nghiệp lành được ngàn tia
sáng.
“Lại nữa, do nghiệp gì được ngàn ánh sáng? Thế gian có người không
sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không hai lưỡi, không ác khẩu,
không nói dối, không thêu dệt, không tham giữ, không sân nhuế, không tà
kiến; do những nhân duyên này mà thiện tâm hoan hỷ. Giống như đầu ngã tư
đường có hồ tắm lớn trong mát không nhơ, có người đi xa, mệt mỏi nóng
khát, vào trong hồ nước này, tắm rửa mát mẻ, hoan hỷ khoái lạc; người
thực hành mười điều lành, thiện tâm hoan hỷ, lại cũng như vậy. Người này
sau khi thân hoại mạng chung, sẽ làm Nguyệt thiên tử, sống ở cung điện
mặt trăng, có ngàn tia sáng. Do nhân duyên này cho nên gọi là ngàn ánh
sáng nghiệp lành.
“Lại nữa, do duyên gì được ngàn tia sáng? Thế gian có người không sát
sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không lừa dối, không uống rượu, vì
những nhân duyên này, thiện tâm hoan hỷ; thân hoại mạng chung, làm
Nguyệt thiên tử, sống ở cung điện mặt trăng, có ngàn tia sáng. Do những
nhân duyên như vậy nên gọi là ngàn tia sáng nghiệp lành.
“Trong sáu mươi niệm khoảnh gọi là một la-da, ba mươi la-da gọi là
ma-hầu-đa, trăm ma-hầu đa gọi là ưu-bà-ma. Nếu cung điện mặt trời mỗi
năm có sáu tháng đi về phía Nam, mỗi ngày di chuyển ba mươi dặm, cực Nam
không vượt qua khỏi Diêm-phù-đề; thời gian ấy, cung điện mặt trăng nửa
năm đi về phía Nam, không vượt qua khỏi Diêm-phù-đề. Nguyệt Bắc hành
cũng như vậy.
“Vì duyên gì mà cung điện mặt trăng khuyết giảm mỗi khi một ít? Có ba
nhân duyên nên cung điện mặt trăng khuyết giảm mỗi khi một ít: Một, mặt
trăng phát xuất từ phương góc, là duyên thứ nhất để mặt trăng tổn giảm.
Lại nữa, trong cung điện mặt trăng có các đại thần đều mặc y phục màu
xanh, theo thứ tự mà lên, trú xứ cũng trở thành xanh, cho nên mặt trăng
bị tổn giảm; đó là duyên thứ hai để mặt trăng mỗi ngày mỗi giảm. Lại
nữa, cung điện mặt trời có sáu mươi tia sáng, tia sáng này chiếu vào
cung điện mặt trăng, ánh chiếu khiến cho không hiện, do đó nơi có ánh
chiếu, nơi ấy của mặt trăng bị tổn giảm; đó là duyên thứ ba để ánh sáng
mặt trăng tổn giảm.
“Lại nữa, vì duyên gì mà ánh sáng cung điện mặt trăng đầy dần? Có ba
nhân duyên khiến cho ánh sáng mặt trăng đầy dần. Những gì là ba? Một,
mặt trăng hướng về phương vị chánh cho nên ánh sáng mặt trăng đầy. Hai,
các thần cung điện mặt trăng hết thảy đều mặt y phục màu xanh và Nguyệt
thiên tử vào ngày rằm ngồi vào giữa, cùng nhau hưởng lạc, ánh sáng chiếu
khắp, lấn át ánh sáng chư Thiên, nên ánh sáng đầy khắp. Giống như bó
đuốc lớn được đốt lên trong đám đèn đuốc, sẽ át hẳn ánh sáng các ngọn
đèn. Nguyệt thiên tử cũng lại như vậy. Vào ngày rằm, ở giữa chúng chư
Thiên, át hẳn tất cả các ánh sáng khác, chỉ có ánh sáng của ông độc
chiếu, cũng như vậy. Ðó là duyên thứ hai. Ba, Nhật thiên tử tuy đã có
sáu mươi tia sáng chiếu soi cung điện mặt trăng, nhưng trong vào ngày
rằm,
Nguyệt thiên tử cũng có thể dùng ánh sáng chiếu nghịch lại, khiến cho nó
không thể che khuất được. Ðó là ba nhân duyên cho cung điện mặt trăng
tròn đầy mà không bị tổn giảm.
“Lại nữa vì duyên gì mà mặt trăng có bóng đen? Vì cái bóng cây Diêm-phù in vào trong mặt trăng, nên mặt trăng có bóng.”
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Tâm hãy như mặt trăng, trong mát không nóng bức, khi đến nhà đàn-việt , chuyên niệm không tán loạn.
“Lại vì duyên gì mà có các sông ngòi? Vì mặt trời mặt trăng có độ
nóng. Do độ nóng này mà có nung đốt. Do có nung đốt nên có mồ hôi. Do mồ
hôi mà thành sông ngòi. Do đó thế gian có sông ngòi.
“Vì nhân duyên gì mà thế gian có năm loại hạt giống? Có cuồng phong
dữ từ thế giới chưa bị hủy diệt thổi hạt giống đến sanh ở quốc độ này.
Một là hạt từ rễ; hai, hạt từ cọng; ba, hạt từ đốt; bốn, hạt từ ruột
rỗng; năm, hạt từ hạt. Ðó là năm loại hạt. Vì nhân duyên này mà thế gian
có năm loại hạt giống xuất hiện.
“Lúc ở Diêm-phù-đề đang là giữa trưa thì ở Phất-vu-đãi mặt trời lặn. Ở
Câu-da-ni mặt trời mọc, ở Uất-đơn-viết là nửa đêm. Câu-da-ni giữa trưa
thì ở Diêm-phù-đề mặt trời lặn. Uất-đơn-viết mặt trời mọc, ở Phất-vu-đãi
là nửa đêm; ở Uất-đơn-viết giữa trưa thì ở Câu-da-ni mặt trời lặn; ở
Phất-vu-đãi mặt trời mọc, thì Diêm-phù-đề là nửa đêm. Nếu ở Phất-vu-đãi
là giữa trưa, thì ở Uất-đơn-viết mặt trời lặn; ở Diêm-phù-đề mặt trời
mọc, thì ở Câu-da-ni là nửa đêm. Phương Ðđông của Diêm-phù-đề, thì là
phương tTây ở Phất-vu-đãi; phương Ttây của Diêm-phù-đề là phương đÐông
của Câu-da-ni; phương tTây của Câu-da-ni là phương đÐông của
Uất-đơn-viết; phương Ttây của Uất-đơn-viết là phương Ðđông của
Phất-vu-đãi.
“Diêm-phù-đề, sở dĩ được gọi là Diêm-phù vì ở dưới có núi vàng cao ba
mươi do-tuần, do cây Diêm-phù sanh ra nên được gọi là vàng Diêm-phù.
Cây Diêm-phù có trái của nó như tai nấm, vị của nó như mật; cây có năm
góc lớn, bốn mặt bốn góc, ở trên có một góc. Những trái ở bên góc phía
đÐông của nó được Càn-thát-bà ăn. Trái ở góc phía Nnam của nó được người
bảy nước ăn. Bảy nước là: một, nước Câu-lâu; hai, Câu-la-ba; ba,
Tỳ-đề; bốn, Thiện-tỳ-đề; năm, Mạn-đà; sáu, Bà-la; bảy, Bà-lệ. Trái ở góc
phía tTây được hải trùng ăn. Trái ở góc phía bBắc được cầm thú ăn.
Trái ở phía góc trên được Tinh tú thiên ăn. Phía bBắc của bảy nước lớn
có bảy hòn núi đen lớn, một là Lõa thổ, hai là Bạch hạc, ba là Thủ cung,
bốn là Tiên sơn, năm là Cao sơn, sáu là Thiền sơn,
bảy là Thổ sơn. Trên mặt của bảy núi đen này có bảy vị Tiên nhơn
Bà-la-môn. Trú xứ của bảy Tiên nhơn này, một là Thiện đế, hai là Thiện
quang, ba là Thủ cung, bốn là Tiên nhơn, năm là Hộ cung, sáu là
Già-na-na, bảy là Tăng ích.”
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Khi kiếp sơ, chúng sanh sau khi nếm vị đất, rồi tồn tại một thời
gian lâu dài. Những ai ăn nhiều, nhan sắc trở nên thô kệch, khô héo.
Những ai ăn ít, nhan sắc tươi sáng, mịn màng. Từ đó về sau mới phân biệt
nhan sắc tướng mạo của chúng sanh có hơn có kém và sinh ra thị phi với
nhau, nói rằng: Ta hơn ngươi; ngươi không bằng ta. Do tâm của chúng phân
biệt kia và ta, ôm lòng cạnh tranh, cho nên vị đất tiêu hết. Sau đó
sinh ra một loại da đất, hình dáng giống như cái bánh mỏng; màu sắc,
hương vị của nó rất là thanh khiết. Bấy giờ chúng sanh tụ tập lại một
chỗ, tất cả đều áo não buồn khóc, đấm ngực mà nói: Ối chao là tai họa!
Vị đất nay bỗng biến mất. Giống như hiện nay người được đầy ắp vị ngon,
bảo là ngon lành, nhưng sau đó lại bị mất đi nên lấy làm buồn lo. Kia
cũng
như vậy buồn lo hối tiếc. Sau đó, chúng ăn lớp da đất, dần quen cái vị
của nó. Những ai ăn nhiều thì nhan sắc trở thành thô kệch khô héo. Những
ai ăn ít thì nhan sắc tươi sáng mịn màng. Từ đó mới phân biệt nhan sắc
tướng mạo của chúng sanh có xấu có đẹp và sinh chuyện thị phi với nhau,
nói rằng: Ta hơn ngươi. Ngươi không bằng ta. Do tâm chúng phân biệt kia
và ta, ôm lòng cạnh tranh, nên nấm đất cạn tiêu hết.
“Sau đó lại xuất hiện một loại da ngoài của đất , càng lúc càng dày
thêm, màu của nó như thiên hoa, mềm mại của nó như thiên y, vị của nó
như mật. Bấy giờ, các chúng sanh lại lấy nó cùng ăn, sống lâu ngày ở thế
gian. Những ai càng ăn nhiều thì nhan sắc càng sút kém. Những ai ăn ít
thì nhan sắc tươi sáng mịn màng. Từ đó phân biệt nhan sắc tướng mạo của
chúng sanh có xấu có đẹp và do thế mà sinh chuyện thị phi với nhau rằng:
Ta hơn ngươi. Ngươi không bằng ta. Vì tâm chúng phân biệt ta và người,
sinh lòng cạnh tranh, nên lớp da ngoài của đất tiêu hết.
“Sau đó, lại xuất hiện loại lúa tẻ mọc tự nhiên, không có vỏ trấu,
không cần phải gia thêm chế biến mà chúng đã đầy đủ các thứ mỹ vị. Bấy
giờ, chúng sanh tụ tập nhau lại nói: Ối chao là tai họa! Nay màng đất
bỗng nhiên biến mất. Giống như hiện tại người gặp họa gặp nạn thì than
rằng: Khổ thay! Bấy giờ chúng sanh áo não, buồn than, cũng lại như vậy.
“Sau đó, chúng sanh cùng nhau lấy lúa tẻ tự nhiên này ăn và thân thể
chúng, trở nên thô xấu, có hình dáng nam nữ, nhìn ngắm nhau, sinh ra dục
tưởng; họ cùng nhau tìm nơi vắng làm hành vi bất tịnh, các chúng sanh
khác thấy than rằng: Ôi, việc làm này quấy! Tại sao chúng sanh cùng nhau
sinh ra chuyện này? Người nam làm việc bất tịnh kia, khi bị người khác
quở trách, tự hối hận mà nói rằng: Tôi đã làm quấy.Rồi nó gieo mình
xuống đất. Người nữ kia thấy người nam này vì hối lỗi mà gieo mình xuống
đất, không đứng lên, liền đưa thức ăn đến. Chúng sanh khác thấy vậy,
hỏi người nữ rằng: Ngươi đem thức ăn này để cho ai? Ðáp: Chúng sanh hối
lỗi kia đọa lạc thành kẻ làm điều bất thiện, tôi đưa thức ăn cho nó.
Nhân lời nói này, nên thế gian liền có danh từ người chồng bất
thiện và vì việc đưa cơm cho chồng nên được gọi là vợ.
“Sau đó, chúng sanh bèn làm chuyện dâm dật, pháp bất thiện tăng. Ðể
tự che giấu, chúng tạo ra nhà cửa. Do vì nhân duyên này, bắt đầu có danh
từ nhà.
“Sau đó, sự dâm dật của chúng sanh càng ngày càng tăng, nhân đây đã
trở thành chồng vợ. Có các chúng sanh khác, khi tuổi thọ hết, hành hết,
phước hết, từ cõi trời Quang âm sau khi mạng chung lại sinh vào thế gian
này, ở trong thai mẹ, nhân đây thế gian có danh từ mang thai.
“Bấy giờ, trước tiên tạo thành Chiêm-bà, kế đến tạo thành Già-thi,
Ba-la-nại và tiếp theo là thành Vương xá . Lúc mặt trời mọc thì bắt đầu
kiến tạo, tức thì lúc mặt trời mọc hoàn thành. Do nhân duyên này nên thế
gian liền có tên thành, quách, quận, ấp, là chỗ nhà vua cai trị.
“Bấy giờ, khi chúng sanh bắt đầu ăn lúa tẻ mọc tự nhiên, sáng sớm gặt
thì chiều tối lại chín, chiều tối gặt thì sáng sớm lại chín. Sau khi
được gặt, lúa sinh trở lại, hoàn toàn không có thân cuống lúa.
“Rồi thì, có chúng sanh thầm nghĩ rằng: Sao ta mỗi ngày mỗi gặt chi
cho mệt nhọc? Nay hãy gom lấy đủ cho nhiều ngày. Nó bèn gặt gộp lại,
chứa số lương đủ cho nhiều ngày. Người khác sau đó gọi nó: Nay chúng ta
hãy cùng đi lấy lúa. Người này bèn trả lời: Tôi đã chứa đủ sẵn rồi,
không cần lấy thêm nữa. Anh muốn lấy, cứ tùy ý đi lấy một mình. Người
kia bèn nghĩ thầm: Gã này có thể lấy đủ lương cho hai ngày, sao ta không
thể lấy đủ cho ba ngày? Người ấy bèn chứa dư ba ngày lương. Lại có
những người khác gọi nó: Hãy cùng đi lấy lương. Nó liền đáp: Ta đã lấy
dư ba ngày lương rồi. Các người muốn lấy, tùy ý đi mà lấy. Các người kia
bèn nghĩ: Người kia có thể lấy ba ngày lương, sao ta không thể lấy năm
ngày lương? Rồi chúng lấy năm ngày lương. Bấy giờ, chúng sanh tranh nhau
cất chứa lương dư, nên lúa tẻ ấy bèn sanh ra vỏ trấu; sau khi được gặt,
không mọc trở lại nữa; chỉ còn trơ cọng khô mà thôi.
“Bấy giờ chúng sanh tụ tập lại một chỗ, áo não buồn khóc, đấm ngực
than: Ôi, đây là một tai họa! và tự thương trách rằng: Chúng ta vốn đều
do biến hóa mà sinh, ăn bằng niệm, tự thân phát ánh sáng, có thần túc
bay trên không, an vui không ngại. Sau đó vị đất bắt đầu sinh ra, sắc vị
đầy đủ. Khi ấy chúng ta nếm thử vị đất này, rồi tồn tại lâu trong đời
này. Những ai ăn nhiều thì nhan sắc trở thành thô xấu. Những ai ăn nó ít
thì nhan sắc tươi sáng, mịn màng; từ đó tâm chúng sanh có phân biệt ta
và người, sinh tâm kiêu mạn, bảo rằng: Sắc ta hơn. Sắc ngươi không bằng.
Do kiêu mạn, tranh nhau sắc, nên vị đất tiêu diệt. Lại sanh ra lớp da
đất, có đầy đủ sắc hương vị. Chúng ta lúc ấy cùng thu lấy để ăn, tồn tại
lâu dài ở thế gian. Những ai ăn nhiều thì da sắc trở thành thô
xấu. Những ai ăn ít đi thì da sắc tươi sáng mịn màng, từ đó có phân biệt
ta và người, sinh tâm kiêu mạn bảo rằng: Sắc ta hơn, sắc ngươi không
bằng. Vì tranh nhau về sắc mà kiêu mạn nên lớp da đất biến mất và xuất
hiện lớp da ngoài của đất, càng lúc càng dày lên, đủ cả sắc, hương, mùi
vị. Chúng ta khi ấy lại cùng nhau thu lấy ăn, tồn tại dài ở thế gian.
Những ai ăn nhiều thì sắc da trở thành thô xấu. Những ai ăn ít thì sắc
da tươi sáng mịn màng, từ đó có phân biệt ta và người, sinh tâm kiêu mạn
bảo rằng: Sắc ta hơn, sắc ngươi không bằng. Vì sắc tranh nhau mà kiêu
mạn, nên lớp da ngoài của đất biến mất, để rồi sinh ra loại lúa tẻ mọc
tự nhiên, đầy đủ sắc, hương, vị. Chúng ta lúc ấy lại cùng nhau thu lấy
ăn, sớm mai thu hoạch buổi chiều lại chín, buổi chiều thu hoạch sáng
mai lại chín, vì thu hoạch xong thì sinh trở lại nên không cần phải gom
thu. Nhưng vì chúng ta lúc này tranh nhau tích lũy, nên lúa này sinh ra
vỏ trấu và sau khi thu gặt xong không sinh trở lại nữa, mà hiện tại chỉ
còn có rễ và thân mà thôi. Nay chúng ta hãy cùng nhau phân phối ruọng
nhà, phân chia bờ cõi.
“Rồi chúng phân chia ruộng đất, vạch bờ cõi khác nhau, phân biệt của
người và của ta. Sau đó mọi người tự cất giấu lúa thóc của mình, trộm
lấy lúa ruộng người khác. Các chúng sanh khác trông thấy, nên nói: Việc
ngươi làm là quấy! Việc ngươi làm là quấy! Tại sao cất giấu vật của
chính mình, mà đi trộm tài vật của người? Liền quở trách rằng: Từ nay về
sau không được tái phạm việc trộm cắp nữa! Nhưng những việc trộm cắp
như vậy vẫn tái phạm không dứt, mọi người lại phải quở trách: Việc ngươi
làm sai quấy! Tại sao không chịu bỏ? Bèn lấy tay mà đánh, lôi đến giữa
đám đông, báo cáo cùng mọi người rằng: Người này tự cất giấu thóc lúa,
đi trộm lúa ruộng của người. Người ăn trộm nói lại: Người kia đã đánh
tôi. Mọi người nghe xong, ấm ức rơi lệ, đấm ngực nói rằng: Thế gian trở
nên xấu ác, nên đã sinh ra pháp ác này chăng? Nhân đấy mà sinh ra ưu kết
nhiệt não khổ báo; rằng: Ðây là cội nguồn của của sinh, già, bệnh,
chết; là nguyên nhân rơi vào đường ác. Do có ruộng nhà, bờ cõi riêng
khác, nên sinh ra tranh giành kiện tụng, đưa đến oán thù, không ai có
thể giải quyết. Nay chúng ta hãy lập lên một người chủ bình đẳng, để
khéo léo giữ gìn nhơn dân, thưởng thiện phạt ác. Mọi người trong chúng
ta đều cùng nhau giảm bớt phần của mình để cung cấp cho người chủ này.
“Lúc đó, trong chúng có một người hình thể vạm vỡ, dung mạo đoan
chánh, rất có oai đức. Mọi người bảo rằng: Nay, chúng tôi muốn tôn bạn
lên làm chủ, để khéo léo giữ gìn nhơn dân, thưởng thiện phạt ác. Chúng
tôi sẽ giảm bớt phần của mình mà cung cấp. Người này nghe xong, liền
nhận làm chủ. Ai đáng thưởng thì thưởng; ai đáng phạt thì phạt. Từ đây
mới bắt đầu có danh từ dân chủ. Dân chủ ban đầu có con tên là Trân Bảo ;
Trân Bảo có con tên là Hảo Vị; Hảo Vị có con tên là Tĩnh Trai; Tĩnh
Trai có con tên là Ðảnh Sanh; Ðảnh Sanh có con tên là Thiện Hành; Thiện
Hành có con tên là Trạch Hành; Trạch Hành có con tên là Diệu Vị; Diệu Vị
có con tên là Vị Ðế; Vị Ðế có con tên là Thủy Tiên; Thủy Tiên có con
tên là Bách Trí; Bách Trí có con tên là Thị Dục; Thị Dục có con tên
là Thiện Dục; Thiện Dục có con tên là Ðoạn Kết; Ðoạn Kết có con tên là
Ðại Ðoạn Kết; Ðại Ðoạn Kết có con tên là Bảo Tạng; Bảo Tạng có con tên
là Ðại Bảo Tạng; Ðại Bảo Tạng có con tên là Thiện Kiến; Thiện Kiến có
con tên là Ðại Thiện Kiến; Ðại Thiện Kiến có con tên là Vô Ưu; Vô Ưu có
con tên là Châu Chử; Châu Chử có con tên là Thực Sanh; Thực Sanh có con
tên là Sơn Nhạc; Sơn Nhạc có con tên là Thần Thiên; Thần Thiên có con
tên là Khiển Lực; Khiển Lực có con tên là Lao Xa; Lao Xa có con tên là
Thập Xa; Thập Xa có con tên là Bách Xa; Bách Xa có con tên là Lao Cung;
Lao Cung có con tên là Bách Cung; Bách Cung có con tên là Dưỡng Mục;
Dưỡng Mục có con tên là Thiện Tư.
“Từ Thiện Tư trở về sau có mười họ, Chuyển luân thánh vương nối tiếp
nhau không dứt: Một tên là Già-nậu-thô, hai tên là Ða-la-bà, ba tên là
A-diệp-ma, bốn tên là Trì-thí, năm tên là Già-lăng-già, sáu tên là
Chiêm-bà, bảy tên là Câu-la-bà, tám tên là Bác-đồ-la, chín tên là
Di-tư-la, mười tên là Thanh Ma.
“Giòng Vua Già-nậu-thô có năm vị Chuyển luân thánh vươngChuyển luân
thánh vương. Giòng vua Ða-la-bà có năm vị Chuyển luân thánh vươngChuyển
luân thánh vương. Giòng vua A-diếp-ma có bảy vị Chuyển luân thánh
vươngChuyển luân thánh vương. Giòng vua Trì-thí có bảy vị vua Chuyển
luân thánh vươngChuyển luân thánh vương. Giòng vua Già-lăng-già có chín
vị vua Chuyển luân thánh vươngChuyển luân thánh vương. Giòng vua
Chiêm-bà có mười bốn vị Chuyển luân thánh vươngChuyển luân thánh vương.
Giòng vua Câu-la-bà có ba mươi mốt vị Chuyển luân thánh vươngChuyển luân
thánh vương. Giòng vua Bát-xà-la có ba mươi hai vị Chuyển luân thánh
vươngChuyển luân thánh vương. Giòng vua Di-tư-la có tám vạn bốn ngàn vị
Chuyển luân thánh vươngChuyển luân thánh vương. Giòng vua Thanh Ma có
một trăm
lẻ một vị Chuyển luân thánh vươngChuyển luân thánh vương. Và vị vua cuối
cùng có tên là Ðại Thiện Sanh Tùng.
“Vua Thanh Ma của giòng thứ mười có vương tử tên là Ô-la-bà. Vua
Ô-la-bà có vương tử tên là Cừ-la-bà. Vua Cừ-la-bà có vương tử tên là
Ni-cầu-la. Vua Ni-cầu-la có vương tử tên là Sư Tử Giáp. Vua Sư tử Giáp
có vương tử tên là Bạch Tịnh vương. Vua Bạch Tịnh vương có vương tử tên
là Bồ-tát. Bồ-tát có con tên là La-hầu-la. Do bản duyên này mà có tên
gọi Sát-lỵ .
“Bấy giờ, có một chúng sanh suy nghĩ như vầy: Tất cả mọi sở hữu như
gia đình, quyến thuộc, muôn vật ở thế gian đều là gai nhọn, ung nhọt,
nay nên lìa bỏ, vào núi hành đạo, ở nơi vắng vẻ mà tư duy. Rồi thì,
người liền lìa bỏ gai nhọn là gia đình, vào núi, ở nơi vắng vẻ, ngồi
dưới gốc cây mà tư duy, hằng ngày ra khỏi núi, vào thôn xóm mà khất
thực. Mọi người trong thôn thấy vậy, càng cung kính cúng dường. Mọi
người đều cùng khen ngợi rằng: Người này có thể lìa bỏ hệ lụy của gia
đình để vào núi tìm đạo. Vì người này có thể xa lìa được pháp ác bất
thiện, nên nhân đó mà gọi là Bà-la-môn.
“Trong chúng Bà-la-môn có người không hành Thiền được, nên ra khỏi
rừng núi, du hành trong nhân gian và tự nói: Ta không thể tọa thiền.
Nhân đó gọi là Vô Thiền Bà-la-môn . Rồi đi qua các thôn xóm, nó làm pháp
bất thiện, thi hành pháp độc, nhân đó tương sinh, nên được gọi đó là
độc. Do nhân duyên này mà có chủng tánh Bà-la-môn ở thế gian.
“Trong chúng sanh kia, chúng học tập các thứ nghề để tự mưu sống, nhân đây nên có chủng tánh Cư sĩ ở thế gian.
“Trong chúng sanh kia, chúng học tập các kỹ nghệ để tự nuôi sống, nhân đây mới có chủng tánh Thủ-đà-la ở thế gian.
“Trước đó trong thế gian đã có giòng họ Thích này xuất hiện rồi, sau
đó mới có giòng Sa-môn. Trong giòng Sát-lỵ có người tự tư duy: Thế gian
ân ái là ô uế, bất tịnh, đáng gì mà tham đắm? Rồi người ấy lìa bỏ gia
đình, cạo bỏ râu tóc, mặc pháp phục mà cầu đạo và nói: Ta là Sa-môn! Ta
là Sa-môn!
“Trong chủng tánh Bà-la-môn, chủng tánh Cư sĩ, chủng tánh Thủ-đà-la,
có người suy nghĩ: Thế gian ân ái là ô uế, bất tịnh, đáng gì mà tham
đắm? Rồi người ấy lìa bỏ gia đình, cạo bỏ râu tóc, mặc pháp phục mà cầu
đạo và nói: Ta là Sa-môn! Ta là Sa-môn!
“Nếu trong chúng Sát-lỵ, có người thân hành bất thiện, khẩu hành bất
thiện, ý hành bất thiện; sau khi hành bất thiện rồi, thân hoại mạng
chung nhất định sẽ phải thọ khổ. Hoặc có Bà-la-môn, Cư sĩ, Thủ-đà-la
thân hành bất thiện, khẩu hành bất thiện, ý hành bất thiện; sau khi hành
bất thiện rồi, thân hoại mạng chung nhất định sẽ phải thọ khổ.
“Chủng tánh Sát-lỵ thân hành thiện, khẩu hành thiện, ý hành thiện,
khi thân hoại mạng chung nhất định sẽ thọ lạc. Bà-la-môn, Cư sĩ,
Thủ-đà-la thân hành thiện, khẩu hành thiện, ý hành thiện, khi thân hoại
mạng chung nhất định sẽ được thọ lạc.
“Thân của người Sát-lỵ thân có hai loại hành, miệng và ý cũng có hai
loại hành. Sau khi thân, miệng và ý đã hành hai loại ấy rồi, thân hoại
mạng chung nhất định sẽ thọ báo hoặc khổ hoặc lạc. Bà-la-môn, Cư sĩ,
Thủ-đà-la, thân, miệng, ý có hai loại hành. Sau khi thân, miệng và ý đã
hành hai loại này rồi, thân hoại mạng chung chắc chắn sẽ thọ báo hoặc
khổ hoặc vui.
“Trong chúng Sát-lỵ, như có người cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất
gia cầu đạo. Vị ấy tu tập bảy giác ý. Với tín tâm kiên cố vị ấỵ xuất
gia hành đạo, tu phạm hạnh vô thượng, ngay trong đời này, tự thân tác
chứng: Sự sanh của ta đã dứt, phạm hạnh đã vững, những gì cần làm đã làm
xong, tự biết không còn tái sanh đời sau nữa.
“Ở trong chúng Bà-la-môn, Cư sĩ, Thủ-đà-la, có người cạo bỏ râu tóc,
mặc ba pháp y, xuất gia cầu đạo. Vị ấy tu tập bảy giác ý. Vị ấy do lòng
tin kiên cố mà xuất gia hành đạo, tu phạm hạnh vô thượng, ở ngay trong
đời này mà tự thân tác chứng: Sự sanh của ta đã dứt, phạm hạnh đã vững,
những gì cần làm đã làm xong, tự biết không còn tái sanh đời sau nữa.
“Trong bốn chủng tánh này, đều có thể thành tựu Minh và Hành, chứng đắc A-la-hán, là đệ nhất tối thượng.”
Bấy giờ, Phạm thiên liền nói kệ:
- Thọ sanh, Sát-lỵ nhất,
- Hay tập các chủng tánh.
- Minh Hạnh thành đầy đủ,
- Là nhất trong Trời, Người.”
Phật bảo các Tỳ-kheo:
“Phạm thiên kia nói bài kệ này rất hay, chứ không phải không hay; là
khéo lãnh thọ, chứ không phải không khéo lãnh thọ, được Ta ấn chứng. Vì
sao? Vì Ta nay, là Như Lai, Chí Chân, là Ðẳng Chánh Giác, cũng nói như
bài kệ này:
- “Sát-lỵ sanh là nhất,
- Hay tập các chủng tánh,
- Minh Hạnh thành đầy đủ,
- Là nhất trong trời, người.”
Bấy giờ, các Tỳ-kheo sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ thực hành.
- Trường A-hàm hoàn tất.
- Quy mạng Nhất thiết trí.
- Tất cả chúng an vui.
- Chúng sanh trú
vô vi,
- Tôi cũng ở trong đó
-ooOoo-
|